TÂM LÀ GÌ?
Minh Đức

Tâm là gì ?
Đây là câu hỏi nảy lửa nếu mình muốn nắm bắt nó như một hạt tế bào hay một hòn bi. Bởi vì “Tâm” không phải là một vật có thể nắm bắt được . Nó được gọi là Tâm vì nó không phải là Vật chất để nắm bắt và nghiên cứu như một tế bào hay một viên sỏi. Nhưng không có Tâm thì vật chất là vô nghĩa và vô tri giác.

Vì vậy, những người duy vật gọi ý thức là cái có sau vật chất, ý thức là sản phẩm được tạo ra từ vật chất. Vì vậy người duy vật thì không tin có Tâm. Tất cả chỉ là vật-chất. Chết rồi là hết. Nhưng người duy vật thì thừa nhận yếu tố khách quan là vật chất tồn tại và thay đổi theo quy luật chuyển hóa. Người duy vật không tin có Linh Hồn và Tâm Linh trường tồn, nhưng thừa nhận vật chất thì tường tồn theo quy luật vận động không ngừng nghĩ. Đối với người tin duy vật biện chứng thì chỉ có ý thức là sản phẩm của vật chất. Chử Tâm được dùng như là tinh thần của ý thức, một sản phẩm của vật chất không hơn không kém. Vì vậy không có tôn giáo nào là duy vật. Mà chỉ có tư tưởng duy vật được dùng như Tôn giáo. Sao lạ vậy ? Bởi vì niềm tin vào chủ nghĩa duy vật là một loại tôn giáo không có thần linh, gần như là tôn giáo phiếm thần hay vô thần.

Hiện nay có một quan điểm về Phật giáo là : “Một tôn giáo duy vật”. Có người còn cho là “Phật giáo là duy vật” với bài tham luận công khai. Việc này sẽ tùy theo quan điểm mà người ta sẽ nhìn nhận hay phủ nhận. Nhưng nhìn nhận hay phủ nhận bằng quan điểm thì chỉ là quan điểm chứ không phải là “TÂM”. Bởi vì Tâm thì không phải là quan điểm. Quan điểm chỉ là ý thức, và ý thức thì không phải là chơn tâm mà chỉ là vọng tưởng. Vọng tưởng thì chỉ tùy duyên mà biến hiện như cái bóng hư ảo chứ không phải là Tâm chơn thật. Những quan điểm sẽ chết như lớp sóng biển xô vào nhau mà tan biến, theo thời gian quan điểm sẽ chết đi. Còn Tâm chơn thật là thường còn sẽ không bao giờ chết như một quan điểm hay một lý thuyết mang tính ý thức hệ.

Tâm là gì ? Theo văn học Phật giáo thì có 3 từ ngữ đều được hiểu như là Tâm : Ý, Thức và Tâm. Tùy theo nội dung của giáo lý và nhu cầu xử dụng người ta dùng 3 từ này như một yếu tố nhận thức của tinh thần. Những cái ý tưởng suy lường ở trong đầu óc thì gọi là “Ý”. Cái nhận thức phân biệt tiềm ẩn bên trong , làm nhà kho cho ý tưởng có chổ dựa để nổi lên thì gọi “Thức”. Cái bao hàm tất cả hai phần ý và thức thì gọi là “Tâm”. Vì vậy 3 từ ngữ dùng chung với nhau rất chặc chẽ, đôi khi không để ý thì không phân biệt được.

Có câu chuyện của Tổ sư Huệ Khả cầu pháp với ngài Bồ đề đạt Ma tổ sư Thiền Tông. Ngài Huệ Khả hỏi Tổ sư Bồ đề đạt ma rằng :

Xin hảy An Tâm cho con. Tổ trả lời rằng :

Hảy đưa Tâm đây ta an cho.
Huệ Khả thưa :
Con tìm Tâm không được !
Tổ trả lời : Ta đã an tâm cho ông rồi.
Như vậy là xong…..

Chúng ta thử đi tìm Tâm thì quả thật chúng ta cũng không thể nắm bắt được môt hạt vật chất nào để gọi là Tâm. Nhưng bảo rằng không có Tâm thì cái gì biết được hiện tại đang biểu hiện. Không có tâm thì khác nào như gổ đá. Nếu như gổ mục và đá ngây ngô thì làm gì có vấn đề gì để gọi là Tâm hay Vật đâu? Nhưng Tâm thì biết Vật, nhưng Vật thì không biết được Tâm, nếu Vật mà biết Tâm thì Vật không phải là Vật, mà Vật đã có Tâm. Như vậy Tâm và Vật là nhất như vì có mặt trong nhau. Nhưng nếu bảo rằng đưa một vật ra để gọi là Tâm thì không thể nào được. Bởi vì Tâm không phải là một vật. Không thể đưa tâm ra như một vật để an tâm, vì vậy Tâm vốn đã An đâu cần phải An-tâm , nếu không dính mắc với Vật mà sanh Tâm. Bởi vậy kinh Kim Cương Bát Nhã mới nói “Ưng vô sở trú nhi sanh kỳ Tâm”. Không thể trú nơi sắc mà sanh tâm. Không thể trú nơi Thanh mà sanh tâm, không thể trú nơi Hương mà sanh tâm, không thể trú nơi Vị mà sanh tâm, không thể trú nơi Xúc mà sanh tâm, phải không trụ chấp mà sanh tâm. Do như vậy, nên cái mà ngừoi ta gọi là tâm thì chỉ là do nương gá nơi các ý tưởng mà sanh tâm. Đôi khi người ta vì vô tình mà dùng chử tâm, chứ thật cũng chẳng nắm bắt hay thật sự biết được Tâm là gì. Dù có cố gắng tìm thì cũng không thể nào tìm được y hệt như Ngài Huệ Khả mà thôi. Nhưng Ngài Huệ Khả là Tổ sư Thiền bởi vì Ngài thật sự giác ngộ Chơn Tâm là gì, nên mới làm Tổ. Còn mình là phàm phu vì mình cũng có chơn tâm mà cứ quen sống với vọng tâm.

Tại sao mình lại quen sống với vọng tâm ? Bởi vì mình chẳng biết chơn tâm của mình là gì cả ! Mình chỉ biết vọng tâm là cái bóng hư vọng thay đổi và biến mất liên tục. Mình có thói quen sống với vọng tâm, những cái mình tưởng và gọi tên nó là tâm của tôi, thì thật ra chỉ là bóng dáng của sáu cảnh. Sáu cảnh duyên với sáu căn mà có ảnh hiện lên sáu thức mình cái hình bóng của cảnh được thu nhập vào. Ai cũng có cái biết là sự sống của tinh thần, Cái biết đó dựa vào sáu thức để có ý tưởng và suy tư theo cái cảnh đưa vào từ sáu căn, mà ý thức chất chứa trong cái kho chứa gọi Thức. Chính sự phân biệt của Thức mà mình có cái tâm gọi là vọng Tâm. Bởi vì gọi là vọng vì nó luôn biến đổi và không thật là mình và của mình. Danh từ Phật học thì gọi cái biết đó là vọng tâm. Vọng tâm này cũng không phải rời khỏi chân tâm mà riêng có ; chẳng qua gọi là vọng tâm bởi vì nó không nắm bắt được, vì luôn thay đổi và chỉ là cái bóng ảnh hiện lên chơn tâm. Sáu căn duyên với sáu cảnh được phân biệt và nhận thức của sáu thức . Cái bóng dáng của sáu thức được Tâm ghi nhận như bóng dáng của sáu cảnh và căn thân. Bởi tâm chính là chủ nhân. Chủ nhân này có hai vị khách cùng ngồi chung chiếu với chủ nhân như một gia đình không thể chia cắt. Cùng ngồi chung với nhau như là một , đó là Tâm , Phật và Chúng Sanh. Tâm chính là chất liệu có mặt hai vị đồng chủ tọa là Phật và Chúng sanh. Tâm chính là họa sư vẽ ra tất cả vấn đề của Phật và Chúng sanh. Tâm có Phật tánh và Chúng sanh tánh cùng hiện diện trong nhau. Chúng sanh là bóng dáng của sáu căn và sáu cảnh. Trong cái Thức của chúng sanh tánh có Phật Tánh. Nhưng do chúng sanh tánh nặng nề và chiếm ngự hết vị trí của Thức, nên Phật tánh không hiển lộ, mà ẩn trong kho gọi là tàng thức ,[ Còn gọi là Như Lai tạng ]. Cái Tâm thật sự thì có Phật và Chúng sanh. Khi thấy chúng sanh thì không thấy Phật nhưng Phật vẫn có đó.

Vì vậy Tâm Phật và Chúng Sanh là Diệu Pháp. Nếu thấy được Pháp thì thấy được Phật, thấy được Phật thì cũng thấy được Pháp, Pháp chính là thật tướng của chúng sanh. Phật tánh cũng chính là thật tướng của chúng sanh. Bởi vì Phật và Chúng sanh đều là do Tâm mà biểu hiện. Nhưng vì chúng sanh đang mê muội trong đêm đen nên chẳng biết Tâm là gì. Nếu thấy được Tâm thì cũng thấy được Phật, thấy được Phật thì độ thoát được khổ của của chúng sanh. Thấy được Khổ của chúng sanh thì thấy được Khổ Thánh Đế. Khổ đế là sự thật mà chúng sanh đang khổ chính là Khổ Thánh đế. Thấy được Khổ Thánh Đế thì thấy được bốn sự thật : Khổ, Tập [mười hai nhân duyên là nguyên nhân của Khổ], Diệt [ là Niết Bàn vô sanh bất diệt ] Đạo [là con đường chánh đạo có 8 phương diện chơn chánh đúng đắn ] đưa đến Niết Bàn là Diệt Đế.

Pháp là chơn lý thường trú chân thật. Phật là đấng giác ngộ Pháp và chứng đạo, Tăng là là sự hòa hợp vô ngại với Pháp tánh.
Dù có Phật ra đời hay không ra đời thì chơn lý của Pháp vẫn có đó. Nhưng nếu không có Phật ra đời thì không có thế gian tam bảo. Xuất thế gian thường trụ tam bảo thì dù chúng sanh đang gặp nạn không có thế gian tam bảo thì vẫn có xuất thế gian tam bảo thường trú. Vì chúng sanh chưa có duyên nên không thấy có xuất thế gian tam bảo. Bởi vì chư Phật ra đời đều phải có đại sự nhân duyên. Chúng sanh chưa phải thời thì không thể thấy Phật. Chúng sanh mê, dù Tam bảo và chư Phật có hiện ra trứơc mắt thì cũng không thể biết được. Giống như người dù có mắt, nhưng ở trong đêm đen thì cũng phải chịu cảnh đêm dài sanh tử chứ không thể nhìn thấy được.
***Có Phật ra đời thì mới có thế gian tam bảo. Pháp được thuyết minh qua giới định huệ mà có chư tăng hòa hợp theo giới luật. Tam bảo thế gian có mặt là nhờ có Phật ra đời. Nhưng dù Phật không thị hiện ra đời thì Pháp vẫn là Pháp. Pháp đó chính là Tâm chơn thật. Do vô minh mà tâm vọng có Chúng sanh.. Do thanh tịnh trong sáng mà có Phật thị hiện ra đời. Tâm-Phật-Chúng sanh chính là Diệu Pháp. Pháp vẫn ở nơi Pháp vị thường còn. Chúng sanh dù luân hồi sanh tử theo thế gian thì tâm pháp vẫn thường còn. Cái tâm pháp đó có mặt nơi chúng sanh dù chúng sanh đang mê muội tạo nghiệp sanh tử. Đang ở trong cơn mê nên hỏi tâm là gì ! Bởi chúng sanh còn mê chưa học pháp giác ngộ khó trả lời cho đúng được. Người ta bị lầm Tâm với nhiều ý nghĩa cũng mang tên là Tâm. Nếu học đến duy thức thì sẽ bắt gặp rất nhiều cái Tâm trong duy thức, những cái chử tâm này đều còn trong thức phân biệt, chứ chưa phải là chơn tâm như Kinh Lăng nghiêm dạy.

Để có thể nhận thức về Tâm là gì , thì phải có nhận thức về chính mình. Phải có Ý Thức soi sáng thì mới có cái ý thức trừ những nghi ngờ về tâm. Nếu mình không biết chính mình thì mình cũng không biết người khác. Dù người đó là cha mẹ hay là thần thánh. Những người hiện diện thân cận trước mắt mà mình không biết thì càng khó mà biết được thựong đế là ai hay Tâm là gì. Bởi không biết cái hiện tai đang là nhân quả hiển nhiên, nên mới chạy về quá khứ để truy tìm cái nhân đầu tiên đã sanh ra cái bây giờ. Nhưng cái biết của mình về cảnh là một cái biết có tích lủy từ quá khứ của kinh nghiệm. Thí dụ tôi gọi đây là cục kẹo. Nếu tôi chưa từng ăn kẹo hay chưa từng thấy kẹo thì tôi không thể gọi tên hay biết được cái đang có trước mắt tôi là kẹo. Cái ý thức gọi tên đây là kẹo là một ý thức có tích lủy kinh nghiệm, kinh nghiệm được đưa vào từ sáu căn là ý , mắt, mủi, thân, tai và lưởi.

Cái loại kinh nghiêm này được lưu trử trong Thức. Nếu Tâm là kho chứa của Thức thì Tâm cũng chính là Thức. Ý phát sinh là cũng từ Tâm mà sanh. Nhưng Ý phát sanh lên nhận thức từ cảnh thì cái cảnh đó không thể là khách quan mà phải có sự phối hợp của ý thức. Hình ảnh của bông hoa mà mắt ghi nhận đưa vào ý thức, ý thức đưa vào kho chứa của tâm thức để tích lủy và phân tích, khi đó cảnh là bông hoa không còn là khách quan nữa mà nó là tướng phần của Tâm thức cộng tác với kiến phần là kinh nghiệm tích lủy nó thành một cái vọng tưởng của tâm thức chứ không còn là nguyên bản của khách quan là một bông hoa bên ngoài thức phân biệt, Vì vây cái này chỉ là vọng tưởng chứ không phải khách quan. Nó không còn đúng với cái nó hiện diện bên ngoài tâm ý con người khi tiếp thu ngoại cảnh. Vì vậy chính tâm thức sanh ra ngoại cảnh cho tâm thức ngắm nhìn và tự phán đoán chứ không còn đúng như khách quan hoàn toàn nửa. Một thế giới được tiếp thu như vậy là do tâm sanh. Vì vậy đưa cái tâm này ra để nắm bắt như là nó đã nắm bắt khách trần thì không thể được . bởi vì nó chỉ là những vọng tưởng phân biệt theo suy lường của vọng tưởng, không có thật thể để nắm như mình nắm một hòn đá nhỏ. Bởi vì nó chỉ như màn hình trên TiVi hay bóng dừoi nước.

Những quan điểm và học thuyết được đưa ra từ tư duy theo theo mô hình : Căn là ngũ giác quan và ý thức suy lường. Cảnh là đối tượng của căn thân, được đưa vào Thức thu nhận là thế giới khách quan. Thức chính là cái biết phân biệt những dữ liệu của căn và cành. Cái gọi là cảnh khách quan đã biến thành bóng ảnh của Thức chứ không còn là thực tại khách quan nửa. Cái biết về cảnh chính là bóng dáng của cảnh được tái hiên trong thức. Thức này không thể rời căn và cảnh mà riêng tồn tại. Vì vậy mười tám giới là một hòa hợp thể của căn thân và thế giới với sự nhận thưc của sáu thức làm chủ đạo. SÁu thức là sự phân biệt mang tính tích lủy và phân tích từ cái tiếp thu tổng hợp của sáu căn với sáu cảnh. Tứ bóng dáng của căn và cảnh mà người ta lập ra cho mình một học thuyết hay lý luận và cố gắng chứng minh đó là lẽ phải , là sự thật khách quan, là quy luật phát triển v.v… Do đó có rất nhiều học thuyết và luận thuyết cho cái thấy của chủ quan của Thức là đúng, là sự thật….

Nhưng Căn-Cảnh-Thức là mười tám giới thì đều là biểu hiện của Tâm. Cảnh là Vật. Tâm không phải là Vật nên đưa Tâm ra như một Vật để nắm bắt thì không thể được. Nhưng phủ nhận Tâm thì thành đoạn diệt không còn tồn tại nào để hiểu biết và nhận thức được thực tại. Bỏ Tâm thì vật chất chỉ là xác chết. Bỏ Vật chất thì Tâm là bóng ma.

Do đó người ta gọi quan điểm này đúng hay sai, hoăc chỉ có quan điểm này là đúng còn tất cả đều sai.Thì tất cả cái đúng sai phải quấy đó đều chỉ là lý luận của thức sanh ra. Nó như trăng dứoi nước , như hoa trong gương. Vì nó là bóng dáng của thức phân biệt, chứ không phải là vật thể có thể nắm bắt. Nó cũng không thể là khuôn mẫu cho tất cả phạm trù tư duy phải đi vào một khuôn đúc để cho ra một sản phẩm có thật giống nhau như khuôn đúc. Bởi vậy các khuôn đúc của giáo điều đều là chiêm bao mộng huyễn. Nó là sản phẩm của cỏi mộng thì chỉ cho ra ngững giấc mộng. Có thể là ác mộng kinh hoàng mà cũng có thể là mộng êm đềm. Đó quả thật là Mộng nếu nó chỉ là quan điểm của học thuyết.

Khi mình biết tất cả mộng mị đều là sản phẩm từ Tâm sanh ra thì mình đã biết cái nguyên đầu tiên của nó là không có cái đầu tiên bởi vì nó chỉ do vọng tưởng của Tâm mà biến hiện. Vọng tưởng làm ra vạn pháp nên có câu “Vạn Pháp duy Thức” Cái Thức này chính là “Tâm” nên còn gọi là Tâm thức. Cái thức thì là sự phân biêt có hòa hợp của căn , cảnh và Thức. Nếu có quán niệm trở về cái hiểu biết chân thật của nó thì Thức còn đựoc gọi là trí, nếu nó không bỏ Tâm mà chạy theo Vật.

Chúng` ta có thể giả định một chừng mực là cái vòng tròn. Trong vòng tròn có hai phần nương vào nhau là Kiến Phần và Tướng Phần. Cái hiểu biết nhìn thấy của chủ thể nhìn thấy là Kiến Phần. Cái bị tiếp thu là vật thể của sáu cảnh là Tướng Phần. Cả hai dính vào nhau như một vòng tròn có chừng mực hạn cuộc trong một phạm trù. Cả hai nương vào nhau mà thành một thực tai của nhận thức , của Tâm phân biệt gọi là Thức. Đây chính là thế giới được nhận thức từ một sinh thể. Nó chính là tâm phan duyên của sinh thể, nó gọi là phan duyên vì theo cái duyên của ngoại cảnh và các căn tích lủy mà phát sanh. Sự phát sanh nhận thức của sự kết hợp của Kiến Phần và Tướng Phần luôn luôn sanh diệt tương tục chứ không cố-định. Nó theo chủ quan của sinh thể mà biến hiện như điện ảnh, như tia nắng, như giấc mộng. Do duyên theo căn cảnh nên nó hiện hữu như một thưc tại. Nhưng thưc tại này là do Tâm sanh. Tâm chính là cái Biết của cái gốc giác ngộ. Còn Thức là cái có mặt do biến hiện của vạn pháp duyên sanh mà phân biệt cho đúng. Mình phải gọi và thấy ông A là ông A. Bà B là bà B. chứ không thể lẫn lộn được. Từ cái thức của Tâm mà mình phân biệt được không lẫn lộn các pháp. Không thể gọi nhầm lẫn đuợc núi là sông. Đàn ông là đàn bà được. Nhưng dù hữu dụng và cần thiết thì thức cũng chỉ là giấc mộng nếu nó không biết Tâm là gì. Tâm chính là họa sư vẽ ra núi sông cây cỏ và vạn vật. Nếu không có Tâm thì cũng không có tất cả.

Đi tìm Tâm chính là Tìm thấy thực tại hiện tiền đang sống và đi về tương lai. Cái gì phải chết và phải thay đổi thì là Thức chứ không phải là Tâm chân thật.

Sống là an trụ với chơn tâm và hàng phục vọng tâm. Ai là sinh thể thì đều đang sống.

Hỏi Tâm là gì thì chính là hỏi “Sống là gì”.

Minh-Đức, ngày 20-9-2010.
(http://old.thuvienhoasen.org)

Chân tâm – bản tâm – đạo tâm, vậy tâm này là tâm nào?

Tâm rộng lớn vô hạn và thiêng liêng vi diệu vô cùng, đề cập về phạm trù này, Nho gia, Đạo gia cũng như Phật giáo từ ngàn năm trước các tổ thầy đã nói tới nhiều trong các kinh điển.

Theo cố Thiền sư Duy Lực, tâm là một danh từ, ai cũng có thể nói được. Nhưng tâm là gì, thì không phải ai cũng hiểu rõ ràng, bài viết này, chúng ta hãy cùng nhau tìm hiểu thêm khái niệm về cái tâm rộng lớn vô hạn này.

Vậy, tâm là gi?

“Tâm” không phải là trái tim bằng thịt của con người, mà là cái tâm có cảm giác, tri giác nó sẽ hình thành nên vạn vật, muốn khẳng định bản thể của tâm là gì thì không thể dùng một thuật ngữ đơn giản để nói rõ được. Nhà Phật gọi bản thể của tâm là “chân tâm”, muốn đạt tới cái gọi là “chân tâm” ta phải bỏ đi cái phần “vọng tâm”, “thức tâm”, “trần tâm”. Nho gia gọi cái tâm này là “bản tâm”, còn Đạo gia lại gọi là “đạo tâm”. Như vậy, Phật gia, Đạo gia, Nho gia đều có sự khác biệt về cách gọi, nhưng cái cốt yếu là chỉ cái tâm. Tuy có nhiều thuật ngữ để nói về tâm nhưng tóm lại tâm vốn vô thể (tức vô hình tướng).

tâm

Điều này cho thấy chúng ta chỉ có khả năng nhận thấy cái tâm đó thông qua ứng dụng của nó, nên biết có tâm. Đối với khả năng và tác dụng của tâm mà nói, ta có thể nhận thấy nó biến đổi và cảm nhận được. Bản chất của tâm vốn thanh tịnh tự nhiên, cái tâm năng đó có thể tỏa sáng giống như ánh sáng mặt trời vậy.

Tổ Huệ Năng dạy: “Này thiện tri thức, thế giới hư không luôn bao hàm vạn vật sắc tượng, mặt trời, mặt trăng, sao, núi, sông ngòi, đất liền, suối khe, cỏ cây rừng rậm, người lành người dữ, pháp lành pháp dữ, thiên đường địa ngục, tất cả biển lớn, các núi Tu-di, thảy ở trong hư không. Tính không của người đời cũng lại như thế”. Ngài dùng hư không để ví dụ cho tính không của chúng ta, hư không bao trùm tất cả thế giới, người vật…đều nằm trong hư không. Có thế giới nào không nằm trong hư không? Như vậy, hư không bao trùm muôn tượng, muôn tượng đều nằm trong hư không.

Lục Tổ bảo tâm tính con người chúng ta khi rỗng lặng cũng như thế, rộng như hư không nên nói tâm như hư không. Như hư không chứ không phải là hư không. Hư không vô tri – còn chúng ta hằng giác, như là cái thể rỗng rang rộng lớn đó, nhưng một bên vô tri, một bên hằng giác nên khác nhau. Nhiều người không hiểu nghe nói tâm như hư không, họ cứ tưởng tu rồi tâm thành hư không, đó là sự lầm lẫn. Họ cho rằng Niết-bàn là chỗ không ngơ. Đã không ngơ thì tu làm gì? Thế nên phải biết rõ tất cả sự tu hành chủ yếu là đến chỗ rỗng lặng đó, nó có diệu dụng gì thì chúng ta mới đến đó, nếu thành không ngơ thì đến làm gì?

Nhà Phật còn quan niệm rằng, tuy giữa chúng sinh có sự khác biệt, song mỗi chúng ta đều có cái năng tri giác. Cái năng tri giác là cái tâm, cái tâm ấy đối với cảnh in hợp tương đương như nhau, không biến động, không tăng giảm, vì là ngoài tâm ra, thì không còn cảnh nào nữa, ngoài cảnh ra, cũng không còn tâm nào nữa, tâm tức là cảnh, cảnh tức là tâm, tâm cảnh như như, không hề sai biệt, thế là chân thường, là tự tại là bình đẳng; nếu còn xen vào cái tri giác lầm lộn, đối trên thực tướng, sinh tâm phân biệt, thêm bớt, thì tuy rằng năng giác, chứ thực ra chưa khỏi mê hoặc, mà thành cái tri giác không chân chính; chân chính là cái tri giác không chênh lệch, không tăng giảm, bản thể của nó vẫn là bình đẳng như như một cách chân chính, nên gọi là Chính giác.

Theo Phật giáo thì có một Chân như trong suốt, linh diệu bên trong vũ trụ vạn hữu, làm nền móng cho mọi hiện tượng ở thế gian này. Chúng sinh không nhận được cái Chân như ấy, vì chúng sinh bị vô minh che ám; nhưng với phương pháp tu hành mà đức Phật Thích Ca đã dạy chúng ta giác ngộ và thể nhập cái Chân như ấy. Phật nói: “Núi sông đất đai, mặt trăng, mặt trời tinh tú, thân khí trong ngoài đều do Chân Như không giữ tính của nó, biến hiện mà ra”.

Đạo có thể quan niệm dưới hai phương diện: Vô và Hữu
Đạo có thể quan niệm dưới hai phương diện: Vô và Hữu

Lão Tử thì dùng chữ Đạo để chỉ cái nguyên lý tuyệt đối của vũ trụ đã có từ trước khi khai thiên lập địa, nó không sinh, không diệt, không tăng không giảm. Đạo là một nguyên lý hoàn toàn huyền diệu siêu hình và bất khả tư nghị. Người ta không thể định danh cho nó, nên gượng mà dùng danh từ ấy để tạm chỉ định. Đạo có thể quan niệm dưới hai phương diện: Vô và Hữu. Vô, thì đạo là nguyên lý của Trời Đất, theo nguyên lý vô hình. Hữu, thì đạo là nguyên lý hữu hình, là Mẹ sinh ra vạn vật. Vậy đạo gia cho rằng, “tâm là chủ của thần”; “tâm là vua của trời”. Con người làm chủ trời đất, là thần giữa trời đất. Tâm làm chủ con người, là thần của con người. Bỏ đi cái tâm ấy thì vũ trụ sẽ chao đảo vô phương hướng.

Phật gia, Nho gia, Đạo gia cực kỳ trú trọng vấn đề “tâm”. Mục đích chính vẫn là nhằm xây dựng nên một nhân cách cao thượng. Nhà Phật có câu “Nhất thiết do tâm tạo” và “Tam giới duy tâm vạn pháp duy thức”. Tâm nghĩ tới nhân, nhân sẽ đến; tâm nghĩ tới nghĩa, nghĩa sẽ đến; tâm nghĩ đến thiện, thiện sẽ đến; chỉ cần tâm nghĩ tới thì mọi sự sẽ vì cảm động mà đến, đó là sự báo đáp của trời đất, quỷ thần cũng vì thế mà động tâm. Vì vậy, dù là thánh nhân, quân tử, hay ma quỷ cũng là do tâm tạo nên, tức là thiên can, thế giới, thiên đường, địa ngục đều do tâm tạo thành.

Tổ Huệ Năng dạy: Người đời sẵn Tự-tính thanh tịnh, muôn pháp đều do tự tính sinh ra; khi suy nghĩ dữ thì sinh tật dữ, khi suy nghĩ lành thì sinh hạnh lành. Các pháp như vậy đều ở tự tính, ví như bầu trời thường thanh bạch, nhật nguyệt thường sáng tỏ, tuy nhiên khi bị mây che khuất thì trên sáng dưới tối; nếu gặp gió thổi, mây tan, thì trên dưới đều sáng tỏ, muôn tượng đều hiển hiện. Người đời có tính hay thay đổi, chắng khác chi mây ở bầu trời kia.

“Trí” như mặt trời, “Tuệ” như mặt trăng. Trí-Tuệ hằng sáng suốt nhưng vì mê ngoại cảnh, nên bị mây vọng niệm che phủ tự tính mà chẳng được tỏ rạng. Nếu gặp bậc thiện tri thức giảng dạy cho nghe hiểu phép chân chính, tự đoạn trừ các thứ mê vọng, thì trong ngoài sáng suốt, muôn pháp đều hiện ở tự tính, người thấy tính cũng như vậy, đó là Thanh- tịnh Pháp- thân Phật.

Tổ Huệ Năng lại dạy: Nếu chẳng suy nghĩ thì tính của vạn pháp vốn như hư không. Nếu sinh một niệm suy nghĩ tức là biến hóa, suy nghĩ việc dữ hóa thành địa ngục, suy nghĩ việc lành hóa thành thiên đường, độc hại thì hóa thành rồng rắn, từ bi hóa làm Bồ-tát, trí tuệ hóa làm thượng giới, ngu si hóa làm hạ phương. Tự-tính biến hóa rất nhiều, người mê chẳng tỉnh giác, niệm niệm khởi ác và thường làm việc ác. Nếu một niệm hồi tâm hướng thiện thì tuệ sinh, đó là tự tính Hóa-thân Phật.

Đức Phật dạy rằng: “Chỉ bình lấy tâm địa, thì tự nhiên thiên hạ thế giới đều bình”.
Đức Phật dạy rằng: “Chỉ bình lấy tâm địa, thì tự nhiên thiên hạ thế giới đều bình”.

Đức Phật dạy rằng: “Chỉ bình lấy tâm địa, thì tự nhiên thiên hạ thế giới đều bình”. Có thể sắp xếp thế giới này của bản thân chính là đã đạt tới cảnh giới nắng ấm, mưa thuận gió hòa, cây cỏ yên tĩnh, vạn vật tự do hành động, như vậy tâm linh mới khoáng đạt, nếu không chỉ là mây trăng tương đồng, núi khe khác biệt, tâm trăm nghìn mối, mọi sự chao đảo rối ren không biết đâu mà lần đến nỗi nhân gian không còn nơi sắp xếp.

Người xưa từng nói: “Linh thiêng tại ngã, bất linh thiêng cũng tại ngã”. Nguyễn Văn Siêu (nhân sĩ) có câu nói nổi tiếng: “Người ta làm điều thiện, không gì quan trọng bằng ngăn ngừa lòng dục của mình để bảo tồn lẽ phải của tự nhiên. Được như vậy thì dù chẳng cầu phúc, cầu lộc, nhưng phúc lộc vẫn cứ tự nhiên đến với họ”. Như vậy, chỉ ngăn ngừa lòng dục của mình thì phúc lộc tự nhiên đến với ta như đến với ông chủ vậy. Điều đó chứng tỏ sự linh thiêng của người không bị dục vọng quấy nhiễu. Tiếc rằng trên thế gian (ngũ thú tạp cư) này, không con vật nào lại nhiều dục như con người. Mọi khoảnh khắc con người đều bị ám ảnh bởi dục!

Như vậy, người ta chỉ có thể diệt trừ dục vọng, không bị ngoại cảnh chi phối, không bị bụi trần làm cho mê hoặc, giữ trong mình tiềm lực của chân, thiện, mỹ và phát huy nó thì tự nhiên sẽ có sức mạnh vô cùng to lớn, thậm chí có thể làm chủ trời đất, vũ trụ. Trong tâm mà không có dục vọng thì chỉ còn lại lẽ trời thuần khiết. Vì vậy mới nói rằng, lưu trong tâm chỉ là lưu lại đạo lý, dưỡng tâm chính là dưỡng đạo lý; ngoài đạo lý ra, những cái khác không cần tu dưỡng. Thế nên Mạnh Tử (đại biểu của nho giáo) có câu răn dạy người đời: “Không nên đánh mất bản tính của chính mình, cái tâm tự nhiên mà mất đi thì tuy còn tồn tại cái hình người đó cũng chỉ là khối xương thịt biết đi mà thôi”.

Đạo Nho thường nói đến chữ “nhân” và đặt nó ở vị trí quan trọng. Khổng Tử giải thích “nhân”:  Cái tâm của con người chính là “nhân”. Trong trời đất và trong nhân tính chỉ tồn tại chân, thiện, mỹ. “Nhân chi sơ tánh bản thiện, tính tương cận, tập tương viễn”. Nghĩa là bản chất tính con người vốn là thiện, nhưng vì tập nhiễm mà thay đổi. Vì vậy, mà Nho gia nói, “tận tính thì có thể thành chân nhân, thành Thánh (tức tu) có thể thành được thánh. Còn Đạo gia thì rất chú trọng cái “tiên thiên” (tức cái có trước) không coi trọng cái “hậu thiên” tức cái có sau.

Bởi vậy nên Lão Tử là chủ của thuyết vô vi không nói đến “chân nhân -thánh nhân” mà chỉ nói “thành tiên”, “đăng chân”; tức “tu tiên”. Vậy, Lão Tử trong đạo đức kinh có câu “làm mà chẳng phải làm, mới là làm” qua câu này đủ biết thuyết vô vi coi trọng cái tự nhiên –  như nhiên. Và như vậy, Đạo gia có xu hướng trở lại với chân tâm.

Còn Phật giáo nói: Tâm trong sáng thì có thể nhìn thấu tỏ tính, tức có thể thành Phật. Theo giáo lý cả Nguyên thủy và Đại thừa “Tâm” được nói tới với nhiều tên gọi khác nhau đó là: Chân tâm, Chân như, Như như… Bởi tâm là “cái hiểu biết phân biệt” nên gọi là phần “tinh thần”. Tâm vô thể (không hình tướng) chỉ thấy cái diệu dụng (tác dụng) của chúng nên biết có tâm. Nhưng đối với Phật giáo tâm cực kỳ Diệu hữu và thiêng liêng. Bởi thế mà kinh điển nào cũng đề cập tới nội dung câu “nhất thiết duy tâm tạo”.

Theo đạo Phật, tâm chia làm hai phần: Chân và Vọng. Đứng về phần Chân tâm (thể) thì không thể dùng lời nói luận bàn, hay trí suy nghĩ được mà phải cần tự chứng ngộ nên trong kinh nói: “Rời tướng nói năng, rời tướng danh tự, rời tướng tâm duyên”. Song, đứng về phần “vọng tâm”, thì có thể nói năng và phân biệt được. Như trên đã nói: “tâm không có hình tướng (vuông, tròn, dài, ngắn…) nên không thể dùng mắt thấy tai nghe, hay rờ mó được nó. Nhưng nhờ thấy cái tác dụng của nó nên chúng ta mới biết có cái “Tâm” này.

Trong Duy thức học Phật giáo gọi là “Tám tâm vương”.
Trong Duy thức học Phật giáo gọi là “Tám tâm vương”.

Qua tìm hiểu giáo lý chúng ta thấy, mọi người không chỉ có năm “giác quan” mà có tám cái “Biết” tức là tám cái tâm. Theo Duy thức học gọi là “Tám thức” hay “bát thức” tám cái biết, mỗi cái biết đều có chủ quyền thống lãnh mỗi chỗ. Cũng như mỗi ông vua cai trị mỗi nước, nên trong Duy thức học Phật giáo gọi là “Tám tâm vương”.

Từ thực tế nêu trên, trở về với chân tâm tức là trở về với cái vốn có vô cùng quý báu của chính mình. Bất cứ người nào cũng có rất nhiều tiềm lực. Tiềm lực đó có thể giúp con người làm nên sự nghiệp vĩ đại kỳ diệu đến nỗi kinh thiên động địa. Khi chúng ta giũ bỏ dục vọng của mình, không có sự tác động của thế giới bên ngoài, không bị vạn vật bên ngoài quyến rũ, mê hoặc, mà bảo toàn được tiềm lực kỳ bí từ bên trong sinh mệnh, sự trù bị sẵn có, và sự thần kỳ của (chân thiện mỹ) tức phát huy năng lực của chúng để có thể sản sinh ra một sức mạnh vô cùng, sức mạnh ấy khi được phát huy một cách tự nhiên nó có thể nắm bắt được cả trời đất và vũ trụ. Dưỡng tâm tánh tốt không những có thể trở thành thánh nhân mà có thể thần thông quảng đại, không những có thể biết trước sự việc mà có thể biến hóa vô cùng.

Nhà Phật nói tới “thần thông” chính là nói tới cái khả năng tu dưỡng của tâm mà làm cho nó trở nên vô hạn, biến hóa vô cùng. Mọi thứ trong trời đất đều có sinh có diệt, nếu là vật có hình tướng, cái vô hình vô tướng thì bất sinh bất diệt. Vì vậy, hữu hình hữu tướng tất hữu hoại nhưng thần thì không bị diệt, vật chất có thể hoại nhưng khí không thể bị diệt, thân xác có thể chết nhưng tâm linh thì vẫn tồn tại. Giữa trời đất, vũ trụ chỉ có thần, khí, linh mà thôi! Nếu chúng ta tu luyện thì có thể chứng thực được điều đó, ngược lại không tu luyện thì không thể chứng thực được.

Bởi vậy mà Phật giáo mới nói rằng: “Bản tính con người có cái quyền lực thiêng liêng vi diệu vô cùng. Khi tịnh thì thâu thập sức thiêng liêng của vũ trụ, lúc động thì ứng hóa khắp cả càn khôn. Bản tính mình năng tịnh, năng động, tự tại vô ngại, muốn tịnh cũng được, muốn động cũng được. Tịnh tức là Thanh-tịnh Pháp-thân Phật. Động tức là Thiên- bá-ức Hóa thân Phật.”

Như thế đủ biết, tâm của con người (vô thể) mà tối ưu quan trọng. Với Nho gia tu tâm để thành “nhân”, mục đích là để thành chân nhân quân tử. Vậy tu phước Âm để hưởng (danh lợi) thế gian, đến khi hết số ở trái đất này thì tái sinh trở lại làm người trong dòng tộc.

Với Đạo gia, thì chủ trương ngược lại, theo thuyết vô vi (tức tu tiên) có dấu hiệu thoát thế so với nho gia. Mục đích là tạo phước Dương, vãng sinh cõi trời hưởng phước đức dương mà mình đã tạo. Đọc giáo lý đạo Phật chúng ta thấy điều này rất rõ, bởi đức Phật dạy: Tu phước đức Âm và phước đức Dương là để hưởng (tức còn nằm trong sự cuốn hút của tam giới) không thể giải thoát được. Vậy đức Phật mới chế ra nhiều pháp môn để tùy căn cơ – tùy duyên của mỗi chúng sinh vận dụng mà tu Tâm.

Vậy, chân tâm, bản tâm, đạo tâm, và cái tâm này là tâm nào? Ta y cứ lời Phật, Bồ-tát và các tổ thầy dạy, nếu tâm chúng ta thanh sạch không uế trược thì chúng ta sẽ là “nhân” là chân nhân quân tử, là “tiên, thánh” tức theo ( nho gia- đạo gia). Còn nếu tu theo đạo giác ngộ-giải thoát, nếu tâm chúng ta còn “vọng” chưa đạt “chân” thì theo đạo Phật tức tâm này còn kiến chấp, dính mắc… thì phải tu thôi..!

Tu là sửa, theo các tổ thầy dạy: sửa cái xấu trở lại tốt, sửa cái dở trở lại hay, sửa quấy trở lại phải, sửa phàm thành Thánh, ví như nhà cửa hư hao, đất vườn u trệ, nay sửa lại cho tốt đẹp, như thế gọi là tu bổ. Thân thể lôi thôi hành vi uế trược bẩn thỉu, nay sửa lại cho đàng hoàng, như thế gọi là tu thân. Tâm tánh ô trược tham lam, tật đố, tà kiến, si mê… nay sửa lại trở nên cái tâm tính tốt đẹp, như thế gọi là tu tâm. Tâm chẳng có hình tướng Như như mà Diệu hữu vô cùng; Và ngược lại cũng từ cái tâm này, chúng có thể dẫn dắt chúng ta đến mọi nẻo đường nếu chúng ta không có cái tâm Chân chính.

———————

Tài liệu tham khảo:

-Tám quyển sách quý – cố HT. Thích Thiện Hoa – (Thành Hội PG.Tp.HCM – ấn hành- Pl 2534- 1990)

-Lão Tử – Ngô Tất Tố (Nxb- Tp. HCM – 1993)

-Nho-Phật-Đạo. Biên soạn của Lao Tử và Thịnh Lê (Nxb- Văn học 2005)

-Bài: Tâm rộng lớn thiêng liêng vi diệu vô cùng – Nguyễn Đức Công- Tạp chí nghiên cứu Phật học số 2/2004).

Cư sĩ Nguyễn Đức Sinh

CHÂN TÂM VÀ VỌNG TÂM

Thích Thắng Giải

Như các phần trước đã nói, chân tâm không sinh diệt và vọng tâm sinh diệt luôn tồn tại nơi mỗi con người chúng ta. Bởi con người sống với vọng tâm nên tạo ra dòng lưu chuyển sinh tử khổ đau của chúng sinh hữu tình với những quả báo sai biệt. Tất cả đều có nguồn gốc từ nhân duyên vọng tâm thiện ác. Chân tâm không sinh diệt chính là dòng hoàn diệt, cho nên giúp chấm dứt được khổ đau, sinh tử tạo thành quả báo cũng như các quốc độ thù thắng, vi diệu, bất khả tư nghì của các bậc hiền thánh. Như vậy, phàm phu là do sống với vọng tâm thiện ác vô thường, biến hoại, sinh diệt; với những ai sống hay an trú trong chân tâm rỗng lặng không sinh diệt thì trở nên là những bậc hiền thánh. Điều này là một chân lý.

Chúng ta biết rằng, các pháp hiện hữu cho dù đó là chúng sinh hữu tình hay vô tình thì mọi tồn tại hay chuyển biến đều không ra ngoài quy luật nhân – duyên – quả. Không có một sự vật vô tình hay hữu tình nào mà lại không được thiết lập bởi nhân duyên của chính nó. Chính vì vậy, chúng ta muốn có một quả báo thân người tốt đẹp thì phải thực tập năm pháp thiện (5 giới dành cho cư sĩ tại gia), muốn sinh vào các quốc độ của chư thiên trong Dục giới để cùng cộng trú thì phải thực tập 10 pháp thiện hay 40 pháp thiện thuần thục. Điều kiện để chúng sinh tái sinh vào các cõi sắc giới và vô sắc giới thì phải tu tập để thâm nhập vào các tầng thiền định như sơ thiền, nhị thiền, tam thiền, tứ thiền, v.v…. Cho đến tu tập để đạt được các thánh quả giải thoát như sơ quả, nhị quả, tam quả và tứ quả thì phải kiến đế, tức là lãnh hội được chân tâm không sinh diệt.

Thật vậy, chúng ta muốn đạt được quả báo, cũng như các quốc độ nào cho tương lai sau khi xả bỏ báo thân nơi cõi người này thì hãy tạo nghiệp nhân, rồi nương vào nghiệp nhân ấy để tu tập mới đạt được các thánh quả.

Trong kinh Trung A Hàm, kinh Si Tuệ Địa số 199, Đức Phật dạy về sự hạnh phúc, an vui của các cõi trời như sau:

Lại nữa, người trí kia hành thân diệu hạnh, khẩu và ý diệu hạnh. Người ấy sau khi hành thân diệu hạnh, khẩu và ý diệu hạnh rồi, do nhân duyên đó, khi thân hoại mạng chung, tất đến thiện xứ, sanh lên cõi trời. Kẻ kia đã sanh lên đó rồi, cảm thọ quả báo lành, hoàn toàn khả ái, hoàn toàn khả lạc, khả ý khả niệm. Nếu ai nghĩ rằng: Nơi nào hoàn toàn khả ái, hoàn toàn khả lạc, khả ý khả niệm nơi đó được nói là thiện xứ. Vì sao? Vì chốn lành kia, hoàn toàn khả ái, hoàn toàn khả lạc, khả ý khả niệm.

Bấy giờ có một vị Tỳ-kheo, từ chỗ ngồi đứng dậy, trịch vai áo bên phải chắp tay hướng về Phật mà bạch rằng:

Bạch Thế Tôn, thiện xứ là thế nào?

Thế Tôn đáp:

Này Tỳ-kheo, thiện xứ không thể nói hết được, nghĩa là nói về sự hoan lạc nơi thiện xứ, chỉ nói rằng thiện xứ chỉ có hoan lạc.

Tỳ-kheo lại hỏi:

Bạch Thế Tôn, xin Ngài có thể dùng ví dụ để dễ hiểu nghĩa ấy chăng?

Thế Tôn đáp:

Cũng có thể dùng ví dụ để làm rõ nghĩa ấy. Ví dụ Chuyển luân vương thành tựu bảy báu và bốn ý túc của loài người. Này Tỳ-kheo, ý ngươi nghĩ sao? Chuyển luân vương kia thành tựu đầy đủ bảy báu và bốn như ý túc của loài người thì nơi vua kia nhân đó thân tâm có lãnh thọ hỷ lạc cùng cực chăng?

Tỳ-kheo đáp:

Bạch Thế Tôn, thành tựu được một như ý túc loài người còn lãnh thọ được hỷ lạc cùng cực, huống nữa là Chuyển luân vương thành tựu hết bảy báu và bốn như ý túc loài người, há chẳng phải là lãnh thọ hỷ lạc cùng cực đó sao?

Bấy giờ Thế Tôn tay cầm viên đá nhỏ bằng hạt đậu hỏi Tỳ-kheo:

Ngươi có thấy viên đá nhỏ bằng hạt đậu mà Ta cầm trong tay chăng?

Tỳ-kheo đáp:

Bạch Thế Tôn, có thấy.

Thế Tôn lại hỏi:

Này Tỳ-kheo, ý ông nghĩ sao? Viên đá nhỏ như hạt đậu mà ta cầm đây đem so với Tuyết sơn vương cái nào lớn hơn?

Tỳ-kheo đáp:

Bạch Thế Tôn, viên đá nhỏ như hạt đậu mà Thế Tôn cầm đó đem so với Tuyết sơn vương thật quá nhỏ, nhỏ gấp trăm gấp ngàn, gấp vạn lần không thể so sánh kịp, không thể tính toán, không thể so sánh được, chỉ nói là Tuyết sơn vương rất lớn, quá lớn thôi.

Thế Tôn lại bảo:

Này Tỳ-kheo, nếu viên đá nhỏ như hạt đậu mà Ta cầm đây đem so với Tuyết sơn vương, nó thật quá nhỏ, quá nhỏ, nhỏ gấp trăm gấp ngàn, gấp vạn lần, trọn không thể so sánh kịp, không thể tính toán, không thể ví dụ được, chỉ nói là Tuyết sơn vương rất lớn, quá lớn thôi. Cũng vậy, này Tỳ-kheo, nếu Chuyển luân vương đã thành tựu đầy đủ và bốn như ý túc, nơi vua kia thân tâm cảm thọ hỷ lạc cùng cực, nếu đem so sánh với hỷ lạc ở cõi trời, nó thật quá nhỏ, nhỏ gấp trăm, gấp ngàn vạn lần, không thể so sánh, không thể tính toán, không thể ví dụ được. Nghĩa là hoan lạc nơi thiện xứ, chỉ hoàn toàn hoan lạc thôi.

Này Tỳ-kheo, thế nào là sự hoan lạc nơi thiện xứ?

Có thiện thiện xứ gọi là lục xúc, nếu chúng sanh sanh vào trong đó, khi đã sanh đến đó rồi, hoặc sắc được thấy bởi sắc, mắt, khả hỷ, khả ý, khả niệm, ý nhuần ái, ý thiện lạc, thì đó là thiện xứ. Thanh được nghe nơi tai, hương được ngửi bởi mũi, vị được nếm bởi lưỡi, sự xúc chạm nơi thân, pháp được biết bởi ý; khả hỷ, khả lạc, khả ý, khả niệm, ý nhuần ái thì đó là nhuần ái, ý thiện lạc, thì đó là thiện lạc. Như vậy gọi là sự hoan lạc ở thiện xứ.

Trong kinh Trung A Hàm, kinh Anh Vũ số 170, Đức Phật lại dạy về sự sai biệt nghiệp nhân để dẫn đến sự sai biệt về quả báo như sau:

Bạch Cù-Đàm, do nhân gì, do duyên gì, chúng sanh kia đều thọ thân người mà có người cao kẻ thấp, có người đẹp kẻ xấu. Vì sao vậy? Bạch Cù-Đàm, tôi thấy có kẻ sống lâu, người chết yểu; có kẻ nhiều bệnh, người ít bệnh; lại thấy có kẻ thân hình đoan chánh, có người không đoan chánh; lại thấy có kẻ có oai đức, người không oai đức; lại thấy có kẻ sanh nhằm dòng dõi tôn quý, có người sanh nhằm dòng dõi ti tiện; lại thấy có kẻ giàu có, có người nghèo hèn; lại thấy có kẻ thiện trí, có người ác trí.

Đức Thế Tôn trả lời:

Chúng sanh kia do nơi hành nghiệp của chính mình, nhân bởi nghiệp mà thọ báo, duyên vào nghiệp, y nơi nghiệp, tùy theo nơi nghiệp xứ có cao thấp mà chúng sanh có tốt đẹp hay không tốt đẹp. 

Anh Vũ Ma-nạp Đô-đề Tử bạch Thế Tôn rằng:

Sa-môn Cù-Đàm nói vắn tắt quá, không phân biệt một cách rộng rãi, tôi không thể hiểu hết được. Mong Sa-môn Cù-Đàm nói một cách rộng rãi cho tôi nghe để tôi được hiểu rõ ý nghĩa.

Đức Thế Tôn bảo:

Này Ma-nạp, hãy nghe kỹ và suy nghĩ kỹ. Ta sẽ phân biệt một cách rộng rãi cho ông nghe.

Anh Vũ Ma-nạp Đô-đề Tử bạch:

Kính vâng, tôi xin vâng lời lắng nghe.

Đức Phật nói:

Này Ma-nạp, do nhân gì, do duyên gì mà kẻ nam hay người nữ thọ mạng rất ngắn ngủi?

Nếu có kẻ nam hay người nữ nào sát sanh, hung dữ, cực ác, uống máu, ý nghĩ ác hại, không có tâm từ bi đối với tất cả chúng sanh, cho đến các loài côn trùng. Người ấy lãnh thọ nghiệp này, tạo tác đầy đủ rồi, đến khi thân hoại mạng chung, chắc chắn đi đến chỗ ác, sanh vào trong địa ngục. Mãn kiếp địa ngục rồi, lại sanh vào nhân gian, tuổi thọ rất ngắn ngủi.

Vì sao vậy? Con đường này đưa đến nhận lãnh sự đoản thọ, nghĩa là kẻ nam hay người nữ sát sanh, hung dữ, cực ác, uống máu. Này Ma-nạp, nên biết, nghiệp này có quả báo như vậy.

Này Ma-nạp, do nhơn gì, duyên gì mà kẻ nam hay người nữ thọ mạng rất dài?

Nếu có kẻ nam hay người nữ nào xa lìa nghiệp sát, đoạn tuyệt nghiệp sát, bỏ hẳn dao gậy, có tâm tàm, có tâm quý, có tâm từ bi, làm lợi ích cho tất cả cho đến loài côn trùng. Người ấy thọ nghiệp này, tạo tác nghiệp ấy đầy đủ rồi đến khi thân hoại mạng chung chắc chắn tiến lên chỗ lành, sanh vào trong cõi trời. Mãn kiếp ở cõi trời, lại sanh vào nhân gian, thọ mạng rất dài.

Vì sao vậy? Con đường này đưa đến nhận lãnh sự trường thọ, nghĩa là kẻ nam hay người nữ xa lìa nghiệp sát, đoạn tuyệt nghiệp sát. Này Ma-nạp, nên biết, nghiệp này có quả báo như vậy.

Này Ma-nạp, do nhân gì, duyên gì mà kẻ nam hay người nữ đa phần có tật bệnh?

 Nếu có kẻ nam hay người nữ nhiễu hại chúng sanh; người ấy hoặc nắm tay, hoặc dùng cây đá, hoặc dùng dao gậy nhiễu hại chúng sanh. Người ấy thọ nghiệp này, tạo thành nghiệp ấy đầy đủ rồi, đến khi thân hoại mạng chung chắc chắn đưa đến chỗ ác, sanh vào trong địa ngục. Mãn kiếp địa ngục, lại sanh vào nhân gian, chịu nhiều tật bệnh.

Vì sao vậy? Con đường này đưa đến chỗ chịu nhiều bệnh, nghĩa là kẻ nam hay người nữ nào nhiễu hại chúng sanh. Ma-nạp nên biết, nghiệp này có quả báo như vậy.

Này Ma-nạp, do nhân gì, duyên gì mà kẻ nam hay người nữ không có tật bệnh?

Nếu có kẻ nam hay người nữ nào không nhiễu hại chúng sanh, người ấy không dùng tay nắm, không dùng cây đá, không dùng dao gậy nhiễu hại chúng sanh. Người ấy tạo nghiệp này, tác thành nghiệp ấy đầy đủ rồi, đến khi thân hoại mạng chung chắc chắn tiến lên chỗ lành, sanh vào trong cõi trời. Mãn kiếp ở cõi trời rồi, lại sanh vào nhân gian, không có tật bệnh.

Vì sao vậy? Con đường này đưa đến hưởng thọ không tật bệnh, nghĩa là kẻ nam hay người nữ nào nhiễu hại chúng sanh. Ma-nạp nên biết, nghiệp này có quả báo như vậy.

Này Ma-nạp, do nhân gì, duyên gì mà kẻ nam hay người nữ có thân hình không đoan chánh?

Nếu có kẻ nam hay người nữ mà tánh nóng nảy, hay bực dọc, vừa nghe chút ít đã nổi cơn giận dữ, nổi ganh ghét mà sanh lo buồn, nổi thịnh nộ tranh chấp. Người ấy thọ lấy nghiệp này, tạo tác đầy đủ rồi, đến khi thân hoại mạng chung chắc chắn đưa đến chỗ ác, sanh vào trong địa ngục. Mãn kiếp địa ngục, lại sanh vào nhân gian, hình thể không đoan chánh.

Vì sao vậy? Vì con đường này đưa đến thọ báo hình thể không đoan chánh, nghĩa là kẻ nam hay người nữ nào tánh nóng nảy, hay bực dọc. Ma-nạp nên biết, nghiệp này có quả báo như vậy.

Này Ma-nạp, do nhân gì, duyên gì mà kẻ nam hay người nữ có thân hình đoan chánh?

Nếu có kẻ nam hay người nữ nào tánh không nóng nảy, không hay bực dọc, người ấy nghe lời nói êm ái hay thô bỉ cục cằn không nổi cơn giận dữ, không ganh ghét sanh ra buồn rầu, không nổi thịnh nộ tranh chấp. Người ấy thọ nghiệp, tác thành đầy đủ rồi, đến khi thân hoại mạng chung chắc chắn tiến lên chỗ lành, sanh vào trong cõi trời. Mãn kiếp ở cõi trời lại sanh vào nhân gian, hình thể đoan chánh.

Vì sao vậy? Vì con đường này đưa đến thọ báo hình thể đoan chánh, nghĩa là kẻ nam hay người nữ nào tánh không nóng nảy, không nhiều bực dọc. Ma-nạp nên biết, nghiệp này có quả báo như vậy.

Này Ma-nạp, do nhân gì, duyên gì mà kẻ nam hay người nữ không có oai đức?

Nếu có kẻ nam hay người nữ nào bên trong ôm lòng tật đố; người ấy thấy kẻ khác được cung kính, cúng dường liền sanh lòng tật đố; nếu thấy kẻ khác có của thì muốn làm sao của ấy được về mình. Người ấy tạo nghiệp này, tác thành đầy đủ rồi, đến khi thân hoại mạng chung chắc chắn đưa đến chỗ ác, sanh vào trong địa ngục. Mãn kiếp địa ngục rồi, lại sanh vào trong nhân gian, không có oai đức.

Vì sao vậy? Vì con đường này đưa đến thọ báo không có oai đức, nghĩa là kẻ nam hay người nữ nào bên trong ôm lòng tật đố. Ma-nạp nên biết, nghiệp này có quả báo như vậy.

Này Ma-nạp, do nhân gì, duyên gì mà kẻ nam hay người nữ có oai đức lớn?

Nếu có kẻ nam hay người nữ không ôm lòng tật đố, người ấy thấy kẻ khác được cung kính cúng dường không sanh lòng tật đố. Nếu thấy kẻ khác có của, không có lòng ham muốn của ấy được về ta. Người ấy tạo nghiệp này, tác thành đầy đủ rồi, đến khi thân hoại mạng chung chắc chắn tiến lên chỗ lành, sanh vào trong cõi trời. Mãn kiếp ở cõi trời rồi, lại sanh vào nhân gian, có oai đức lớn.

Vì sao vậy? Vì con đường này đưa đến thọ báo có oai đức, nghĩa là kẻ nam hay người nữ nào không ôm lòng tật đố. Ma-nạp nên biết, nghiệp này có quả báo như vậy.

Này Ma-nạp, do nhân gì, duyên gì mà kẻ nam hay người nữ sanh vào dòng dõi ti tiện?

Nếu có kẻ nam hay người nữ nào kiêu ngạo, ngã mạn, người đáng cung kính thì không cung kính, đáng tôn trọng thì không tôn trọng, đáng quý thì không quý, đáng phụng thờ thì không phụng thờ, đáng cúng dường thì không cúng dường, đáng nhường lối thì không nhường lối, đáng nhường chỗ ngồi thì không nhường chỗ ngồi, đáng chấp tay hướng về lễ bái, thăm hỏi thì không chấp tay hướng về lễ bái, thăm hỏi. Người ấy thọ nghiệp này, tác thành đầy đủ rồi, đến khi thân hoại mạng chung chắc chắn đưa đến chỗ ác, sanh vào trong địa ngục. Mãn kiếp địa ngục, lại sanh vào nhân gian, sanh nhằm dòng dõi ti tiện.

Vì sao vậy? Vì con đường này đưa đến thọ báo sanh nhằm dòng dõi ti tiện, nghĩa là kẻ nam hay người nữ nào kiêu ngạo, đại mạn.  Ma-nạp nên biết, nghiệp này có quả báo như vậy.

Này Ma-nạp, do nhân gì, duyên gì mà kẻ nam hay người nữ sanh nhằm dòng dõi tôn quý?

Nếu có kẻ nam hay người nữ nào không có lòng kiêu ngạo, đại mạn, người đáng cung kính thì cung kính, đáng tôn trọng thì tôn trọng, đáng quý thì quý, đáng phụng thờ thì phụng thờ, đáng cúng dường thì cúng dường, đáng nhường lối thì nhường lối, đáng nhường chỗ thì nhường chỗ, đáng chấp tay hướng về lễ bái, thăm hỏi thì chấp tay hướng về lễ bái,thăm hỏi. Người ấy tạo nghiệp này, tác thành đầy đủ rồi, đến khi thân hoại mạng chung chắc chắn tiến lên chỗ lành, sanh vào trong cõi trời. Mãn kiếp ở cõi trời, lại sanh vào nhân gian nhằm dòng dõi tôn quý.

Vì sao vậy? Vì con đường này đưa đến thọ báo sanh nhằm dòng dõi tôn quý, nghĩa là kẻ nam hay người nữ nào không kiêu ngạo, đại mạn. Ma-nạp nên biết, nghiệp này có quả báo như vậy.

Này Ma-nạp, do nhân gì, duyên gì mà kẻ nam hay người nữ không có của cải?

Nếu có kẻ nam hay người nữ nào không làm thí chủ, không thực hành bố thí cho Sa-môn, Bà-la-môn, cho kẻ nghèo cùng đơn độc ở xa đến xin những thứ như đồ ăn, thức uống, quần áo, mền, vòng hoa, hương thoa, nhà cửa, giường chõng, đèn dầu và sai dịch. Người ấy tạo nghiệp này, tác thành đầy đủ rồi, đến khi thân hoại mạng chung chắc chắn đưa đến chỗ ác, sanh vào trong địa ngục. Mãn kiếp địa ngục, lại sanh vào nhân gian, không có của cải.

Vì sao vậy? Vì con đường này đưa đến thọ báo không có của cải, nghĩa là kẻ nam hay người nữ nào không biết làm người thí chủ, không thực hành bố thí.  Ma-nạp nên biết, nghiệp này có quả báo như vậy.

Này Ma-nạp, do nhân gì, duyên gì mà kẻ nam hay người nữ có nhiều của cải?

Nếu có kẻ nam hay người nữ nào biết làm người thí chủ, biết thực hành bố thí. Người ấy bố thí cho Sa-môn, Bà-la-môn và kẻ nghèo cùng, cô độc từ xa tới xin những thứ như đồăn, thức uống, áo quần, mền, vòng hoa, hương thoa, nhà cửa, giường chõng, đèn dầu và sai dịch. Người ấy thọ nhận nghiệp này, tác thành đầy đủ rồi, đến khi thân hoại mạng chung chắc chắn tiến lên chỗ lành, sanh vào trong cõi trời. Mãn kiếp ở cõi trời, lại sanh vào nhân gian, có nhiều của cải.

Vì sao vậy? Vì con đường này đưa đến thọ báo có nhiều của cải, nghĩa là kẻ nam hay người nữ nào làm người chủ bố thí, biết thực hành hạnh bố thí. Ma-nạp nên biết, nghiệp này có quả báo như vậy.

Này Ma-nạp, do nhân gì, duyên gì mà kẻ nam hay người nữ có trí tuệ kém cỏi?

Nếu có kẻ nam hay người nữ nào không thường đến nơi kia hỏi việc. Nếu có Sa-môn, Bà-la-môn danh đức, người ấy không thường đến nơi đó hỏi đạo nghĩa rằng: Thưa Chư Tôn, thế nào là thiện?Thế nào là bất thiện? Thế nào là tội, thế nào là không tội? Thế nào là vi diệu, thế nào là không vi diệu? Thế nào là trắngthế nào là đen? Trắng đen từ đâu sanh ra? Ý nghĩa của quả báo hiện tại như thế nào? Ý nghĩa của quả báo vị lai như thế nào? Ý nghĩa quả báo hậuthế là người hay bố thí như thế nào?

Giả sử có hỏi nhưng không chịu thực hành. Người ấy thọ nghiệp này, tác thành đầy đủ rồi, đến khi thân hoại mạng chung chắc chắn đưa đến chỗ ác, sanh vào trong địa ngục. Mãn kiếp địa ngục, lại sanh vào nhân gian, có trí tuệ kém cỏi.

Vì sao vậy? Vì con đường này đưa đến thọ báo trí tuệ kém cỏi, nghĩa là kẻ nam hay người nữ ấy không có thường đến nơi kia hỏi việc. Ma-nạp nên biết, nghiệp này có quả báo như vậy.

Này Ma-nạp, do nhân gì, duyên gì mà kẻ nam hay người nữ có trí tuệ tốt đẹp?

Nếu có kẻ nam hay người nữ nào thường hay đến nơi kia hỏi việc. Nếu có Sa-môn, Bà-la-môn danh đức, người ấy thường đến nơi ấy mà hỏi đạo nghĩarằng: Thưa Chư Tôn, thế nào là nghiệp thiện?Thế nào là bất thiện? Thế nào là tội?Thế nào là không tội? Thế nào là vi diệu, thế nào là không vi diệu? Thế nào là trắng?Thế nàolà đen? Trắng và đen từ đâu sanh ra? Ý nghĩa của quả báo hiện tại là thế nào? Ý nghĩa của quả báo vị lai là thế nào? Ý nghĩa quả báo hậu thế như thế nào? Hỏi xong lại thường thực hành. Người ấy thọ nghiệp này, tác thành đầy đủ rồi, đến khi thân hoại mạng chung chắc chắn tiến lên chỗ lành, sanh vào trong cõitrời,mãn kiếp ở cõi trời, lại sanh vào nhân gian, có trí tuệ tốt đẹp.

Vì sao vậy? Vì con đường này đưa đến thọ báo có trí tuệ tốt đẹp, nghĩa là kẻ nam hay người nữ nào thường hay đến nơi kia hỏi việc. Ma-nạp nên biết, nghiệp này có quả báo như vậy.

Ma-nạp nên biết, tạo tác nghiệp tương xứng với đoản thọ, tất chịu đoản thọ. Tạo nghiệp tương xứng với trường thọ, tất được trường thọ. Tạo tác nghiệp tương xứng với nhiều tật bệnh, tất phải chịu nhiều tật bệnh. Tạo ác nghiệp tương xứng với ít tật bệnh, tất được ít tật bệnh. Tạo tác nghiệp tương xứng với sự không đoan chánh, tất phải thọ sự không đoan chánh. Tạo tác nghiệp tương xứng với đoan chánh, tất được đoan chánh. Tạo tác nghiệp tương xứng với không oai đức, tất phải chịu không oai đức. Tạo tác nghiệp tương xứng với oai đức, tất được oai đức. Tạo tác nghiệp tương xứng với dòng dõi ti tiện, tất phải sanh nhằm dòng dõi ti tiện. Tạo tác nghiệp tương xứng với dòng dõi tôn quý, tất được sanh vào dòng dõi tôn quý. Tạo tác nghiệp tương xứng với không của cải, tất bị không của cải. Tạo tác nghiệp tương xứng với nhiều của cải, tất được nhiều của cải. Tạo tác nghiệp tương xứng với trí tuệ kém cỏi, tất bị trí tuệ kém cỏi. Tạo tác nghiệp tương xứng với trí tuệ tốt đẹp, tất được trí tuệ tốt đẹp.

Này Ma-nạp, đó là những điều Ta đã nói từ trước rằngChúng sanh do hành nghiệp của chính mình, do nghiệp mà thọ báo, duyên nơi nghiệp, tùy theo nghiệp xứ cao thấp mà chúng sanh có tốt đẹp hay không tốt đẹp.

Vọng tâm sinh diệt chính là nhân duyên để tạo thành quả báo khổ đau sinh tử. Vọng tâm thiện ác đó chính là khổ đế và tập đế. Đây cũng là dòng lưu chuyển sinh tử trong pháp nhân duyên được bắt đầu từ chi vô minh cho đến chi lão tử.

Theo Duy Thức Học thì vọng tâm sinh diệt đó chính là tám thức thuộc về tâm vương và các tâm sở cùng tập khởi với chúng bao gồm cả thiện tâm sở và bất thiện tâm sở (51 tâm sở).

Vì khổ đau là vọng tâm sinh diệt, nên để điều phục, đoạn trừ nó thì điều kiện căn bản trước hết chúng ta cần phải thực tập các học giới đã được Đức Thế Tôn thiết lập. Khi thực tập các học giới ấy cũng chính là lúc các hành giả đang phát triển các thiện pháp. Thiện pháp đó chính là thiện nghiệp của thân và tâm. Nhờ thức A – Lại – Da (Thức thứ 8 – căn bản thức) lưu giữ các thiện pháp đó làm nhân duyên cho bảy chuyển thức hiện hành – Đó là thức thứ 7 (Mạt-na thức), thứ 6 (ý thức), nhãn thức, nhĩ thức, tỷ thức, thiệt thức và thân thức.

Khi bảy chuyển thức dựa vào các thiện pháp ở trong thức thứ tám làm nhân duyên để hiện hành thì sự vận hành của tâm ý, lời nói của miệng, hành động của thân mới là thiện nghiệp. Đây là nền tảng để chúng ta có nhiều niềm vui, an lành và hạnh phúc. Trái lại, nếu với tâm ý bất thiện, từ nhân duyên ấy mà dẫn sinh ra lời nói của miệng, hành động thuộc về thân đều là bất thiện. Kết quả là chúng ta sẽ gánh chịu khổ đau do mình gây ra và ảnh hưởng đến mọi người.

Chúng ta không dừng lại ở việc thực tập các thiện pháp như vậy. Bởi lẽ, chúng ta muốn điều phục, đoạn trừ vọng tâm bất thiện thì các tâm thiện hữu lậu phải được thuần thục để hướng đến thiện pháp vô lậu. Cho nên, chúng ta cần phải chọn một pháp môn để thực tập và ứng dụng nó vào trong đời sống sinh hoạt thường nhật của mình.

Việc thực tập thuần thục pháp môn để thắp sáng lên ngọn đèn của chánh niệm, chánh định và chánh tuệ tức có chánh kiến. Đây là con đường điều phục, đoạn trừ vọng niệm bất thiện luôn tập khởi nơi tâm thức của mình.

Ở chương thứ nhất: “Pháp phương tiện và pháp vượt ngoài phương tiện”, người viết đã đề cập ý nghĩa chánh niệm, chánh định và chánh tuệ hữu lậu. Trong những chia sẻ tiếp theo này, tôi muốn phân tích, chia sẻ ranh giới cũng như bờ mé rất gần nhau giữa trí tuệ hữu lậu và trí tuệ vô lậu.

Vấn đề cốt tủy là nếu không thực tập chánh niệm, chánh định và chánh tuệ hữu lậu – hữu vi thì chúng ta sẽ sống với vọng tâm, đồng nghĩa là chúng ta đang sống với khổ đế và tập đế. Chính vì thế, hành giả cần chọn một pháp môn tu tập để thắp sáng chánh niệm, chánh định và chánh tuệ nơi tâm, tức là hành giả đang sống với đạo đế hữu lậu.

Ví dụ như chúng ta chọn hơi thở vào ra để làm đối tượng tu tập thì chánh niệm là nhớ đến hơi thở vào ra; dẫn sinh chánh định là an trú nhất như nơi hơi thở; nhờ đó dẫn sinh chánh tuệ hay chánh kiến giúp nhận biết được chánh niệm, chánh định nơi hơi thở, cũng như sự tập khởi của cảm thọ, tri giác, tâm hành và nhận thức,… Chính nhờ chánh tuệ hay chánh kiến giúp chúng ta điều phục, đoạn trừ vọng niệm bất thiện. Vì vậy, việc điều phục được vọng tâm nhiều hay ít, nhanh hay chậm đều hoàn toàn do ba yếu tố trên quyết định.

Chính chánh tuệ hay chánh kiến đó là chi phần đầu tiên trong bát chánh đạo mới trực tiếp điều phục, đoạn trừ vọng tâm bất thiện.

Chính ý nghĩa này nên trong kinh Trung A Hàm, kinh Thánh Đạo số 189, Đức Phật dạy:

“Trong các chi ấy, chánh kiến đứng hàng đầu.

Thấy chánh kiến là chánh kiến; đó cũng gọi là chánh kiến. Khi biết rõ như thế, liền phải cầu học, muốn đoạn trừ tà kiến, thành tựu chánh kiến, đó gọi là chánh phương tiện. Tỳ-Kheo suy niệm về sự đoạn trừ nơi tà kiến, thành tựu chánh kiến, đó gọi là chánh niệm. Cả ba chi này đi theo kiến phương tiện, do phương tiện của kiến. Vì thế, cho nên bảo chánh kiến là đứng ngay ở hàng đầu.

Thấy chánh ngữ là chánh ngữ, cũng gọi là chánh ngữ. Biết như vậy rồi liền phát tâm cầu học, muốn đoạn trừ tà ngữ, thành tựu chánh ngữ. Đó là chánh phương tiện. Tỳ-kheo suy niệm sự đoạn trừ nơi tà ngữ, thành tựu chánh ngữ, gọi là chánh niệm. Cả ba chi này đi theo chánh ngữ, do phương tiện của kiến, vì thế nên bảo chánh kiến đứng hàng đầu.

Thấy chánh nghiệp là chánh nghiệp, cũng gọi là chánh nghiệp. Biết như thế rồi liền phát tâm cầu học, muốn đoạn trừ tà nghiệp, thành tựu chánh nghiệp, gọi là chánh phương tiện. Tỳ-kheo suy niệm sự đoạn trừ nơi tà nghiệp, thành tựu chánh nghiệp, gọi là chánh niệm. Cả ba chi này đi theo chánh nghiệp, do phương tiện của kiến, vì thế nên bảo chánh kiến đứng hàng đầu.

Thấy tà mạng là tà mạng thì gọi là chánh mạng; thấy chánh mạng là chánh mạng, cũng gọi là chánh mạng. Kia biết như vậy rồi, bèn cầu học để đoạn trừ tà mạng, thành tựu chánh mạng; đó là chánh phương tiện. Tỳ-kheo suy niệm nơi sự đoạn trừ tà mạng, thành tựu chánh mạng, đó gọi là chánh niệm. Ba chi này đi theo chánh mạng, do phương tiện của kiến, vì thế nên bảo chánh kiến đứng hàng đầu.”

(Hoà thượng Thích Tuệ Sỹ dịch)

Để chánh tuệ hay chánh kiến này được phát triển kiên cố và vững chãi đều tùy thuộc vào chánh niệm và chánh định nơi câu niệm Phật, câu trì chú hoặc hơi thở vào ra… Như vậy, chánh tuệ hay chánh kiến là nhận biết rõ ràng chánh niệm và chánh định ở nơi câu niệm Phật, câu trì chú hoặc hơi thở vào ra cũng như cảm thọ, tri giác (tưởng), tâm hành và nhận thức. Nhờ đó, ta thấy chúng thật sự là vô thường, khổ và vô ngã. Tuy nhiên chánh tuệ hay chánh kiến hữu lậu (pháp hữu vi) cũng chỉ nhận biết các pháp đang xảy ra, diễn biến đúng như chính chúng mà thôi.

Khi chúng ta đã thực tập chánh niệm, chánh định và chánh tuệ (hay chánh kiến) thuần thục thì không nên dừng lại ở thành tựu ấy. Bởi vì chánh niệm, chánh định và chánh tuệ (hay chánh kiến) này là hữu lậu – hữu vi thì ngay lúc này chúng ta hãy buông nhẹ chánh niệm và chánh định đang trụ nơi hơi thở, câu niệm Phật hoặc câu trì chú để trực tiếp nhận biết (trí) sự tập khởi của năm uẩn là sắc, cảm thọ, tri giác (tưởng), tâm hành (thiện và bất thiện) và nhận thức – bản chất của chúng là vô thường, khổ và vô ngã. Đó là chánh tuệ hay chánh kiến vô lậu – vô vi. Đây đích thực là tam pháp ấn mà ba đời chư Phật đã trao truyền.

Tóm lại, trong quá trình thực tập, hành giả phải đi từ chánh kiến hữu lậu – hữu vi đến chánh kiến vô lậu – vô vi. Điều này là mong ước, là tâm nguyện lớn lao của người tu đạo.

Khi chúng ta thực tập chánh niệm, chánh định và chánh tuệ (chánh kiến) hữu lậu – hữu vi thuần thục rồi bước tới lãnh hội chánh kiến vô lậu – vô vi. Thời điểm mà chúng ta lãnh hội được chánh kiến vô lậu – vô vi này chỉ xảy ra trong một niệm. Với ý nghĩa này, hầu hết các ngữ lục và công án của các bậc thánh nhân trong quá khứ đã nhấn mạnh: “Tiệm tu thuần thục rồi đi đến đốn ngộ, khi đốn ngộ rồi mới thật sự tiệm tu”. Sự đốn ngộ xảy ra rất nhanh, chỉ trong một niệm. Vì sự tập khởi của vọng tâm hay năm thủ uẩn là pháp duyên khởi nên luôn trong vòng sinh diệt. Đây là tập khí, nghiệp cũ đã được huân tập, hư vọng từ vô lượng kiếp luân hồi của chúng ta.

Việc đốn ngộ được chân tâm (đạo) cũng tuỳ theo nhân duyên tu tập của mỗi người; có vị tự mình lãnh hội; có vị lại do nương vào các bậc thiện tri thức mà lãnh hội – Những vị không do thầy dạy mà tự mình lãnh hội đó là do túc duyên từ nhiều đời đến nay đã được chín muồi.

Đã lãnh hội được tâm không sinh diệt, chúng ta cần phải tuỳ theo nhân duyên tập nghiệp của mình mà ứng dụng pháp cao hay pháp thấp cho thích hợp để điều phục vọng tâm. Đây chính là lúc hành giả cần phải đối diện với sự tập khởi mãnh liệt của dòng vọng tâm. Nếu chúng ta an trú được trong chân tâm để giác biết vọng tâm thì an trú; nếu không thể an trú được nơi chân tâm do vọng tưởng sinh khởi quá nhiều thì chúng ta phải ứng dụng thêm pháp phương tiện như lạy Phật, sám hối, thiền toạ, kinh hành, tụng kinh, trì chú… để tiêu trừ vọng tâm. Cho đến thời điểm khi sự tập khởi của vọng tâm được giảm và chân tâm luôn hiện tiền mà không bị lực của vọng tâm chuyển, chính lúc ấy, chúng ta có thể an trú thường trực với chân tâm. Khi lực giác biết của. chân tâm đối với vọng tâm càng miên mật bao nhiêu sẽ giúp nghiệp mới không sinh và nghiệp cũ càng được tiêu trừ. Đó là con đường điều phục, đoạn trừ vọng tâm không chỉ khi công phu thiền tập mà còn trong lúc đứng khi đi, mắt nhìn thấy sắc, tai nghe âm thanh… để hành giả hằng sống được với chân tâm bất diệt.

Trong kinh Trung A Hàm, kinh Thiện Pháp số 1, Đức Phật dạy các Tỳ-kheo khi nào cần thực tập pháp cao, khi nào cần thực tập pháp thấp như sau:

“Thế nào gọi là Tỳ-kheo biết thời? Đó là Tỳ-kheo biết thời nào nên tu phương pháp thấp, thời nào nên tu phương pháp cao, thời nào nên tu phương pháp xả. Ấy là Tỳ-kheo biết thời.

Tỳ-kheo nào không biết thời tức là không biết thời nào nên tu phương pháp thấp, thời nào nên tu phương pháp cao, thời nào nên tu phương pháp xả. Tỳ-kheo như vậy là không biết thời.

Tỳ-kheo nào khéo biết rõ thời, đó là biết thời nào nên tu phương pháp thấp, thời nào nên tu phương pháp cao, thời nào nên tu phương pháp xả. Ấy là Tỳ-kheo khéo biết rõ thời.”

 Trong tài sản kinh và luận mà Chư Phật, Chư Tổ để lại, có rất nhiều ngôn ngữ để mô tả chân tâm không sinh diệt:

Tên khác của Chân Tâm

Hỏi: Đã sanh chánh tín, nhưng chưa biết thế nào gọi là chân tâm?

Đáp: Lìa vọng gọi là chân. Linh giám gọi là tâm. Trong Kinh Lăng Nghiêm đã nói rõ tâm này.

Hỏi: Chỉ gọi chân tâm thôi, hay có tên riêng khác nữa chăng?

Đáp: Phật dạy, Tổ dạy lập danh không đồng nhau. Phật dạy trong Bồ Tát Giới gọi là Tâm Địa, vì hay phát sanh muôn việc thiện. Kinh Bát Nhã gọi là Bồ Đề, vì lấy giác làm thể. Kinh Hoa Nghiêm gọi là Pháp Giới, vì giao triệt và dung nhiếp. Kinh Kim Cang gọi là Như Lai, vì không từ đâu đến. Kinh Bát Nhã gọi là Niết Bàn, vì là chỗ quy hướng của chư Thánh. Kinh Kim Quang Minh gọi là Như Như, vì chân thường bất biến. Kinh Tịnh Danh gọi là Pháp Thân, vì là chỗ nương của báo thân và hóa thân. Luận Khởi Tín gọi là Chân Như, vì chẳng sanh chẳng diệt. Kinh Niết Bàn gọi là Phật Tánh vì là bản thể của ba thân. Kinh Viên Giác gọi là Tổng Trì, vì mọi công đức từ đó mà lưu xuất, Kinh Thắng Man gọi là Như Lai Tạng, vì ẩn phú và hàm nhiếp. Kinh Liễu Nghĩa gọi là Viên Giác, vì hay chiếu phá mờ tối.

Do đây nên Ngài Vĩnh Minh Thiền Sư trong Duy Tâm Quyết nói: “Một pháp có ngàn tên, tùy theo duyên mà lập hiệu”. Tất cả còn đầy đủ trong các Kinh, không thể kể ra hết được.

Hỏi: Phật dạy đã biết, Tổ dạy như thế nào?

Đáp: Cửa Tổ Sư dứt tuyệt danh ngôn, danh còn chẳng lập, sao lại có nhiều tên? Chỉ vì ứng theo cơ duyên nên tên cũng lắm. Có lúc gọi là Tự Kỷ, vì là bản tánh của chúng sanh. Có lúc gọi là Chánh Nhãn, vì hay soi tướng của muôn loài. Có lúc gọi là Diệu Tâm, vì hư linh và tịch chiếu. Có lúc gọi là Chủ Nhơn Ông, vì xưa nay từng gánh vác. Có lúc gọi là Đờn không dây, vì hiện ra điệu vận. Có lúc gọi là Vô tận đăng, vì hay chiếu phá mê tình. Có khi gọi là Cây không rễ, vì gốc rễ bền chắc. Có khi gọi là Suy mao kiếm, vì hay chặt đứt căn trần. Có lúc gọi là Nước vô vi, vì sóng êm bể lặng. Có lúc gọi là Mâu ni châu, vì hay giúp đỡ người nghèo khó. Có lúc gọi là Vô nhu tỏa, vì cửa sáu tình đóng. Cho đến nào là trâu đất, ngựa gỗ, tâm nguyên, tâm ấn, tâm cảnh, tâm nguyệt, tâm châu, v.v… nhiều tên khác nhau không thể ghi ra cho hết. Nếu đạt được chân tâm thì các tên đều hiểu cả. Bằng mê muội chân tâm thì còn bị trệ nơi các tên. Cho nên đối với chân tâm cần yếu nên xét kỹ.

     (Chân tâm trực thuyết – Hoà thượng Thích Thanh Từ dịch)

Hỏi: Sao biết giữ chân tâm là yếu môn vào đạo?

Đáp: Cho đến đưa một tay lên, lấy móng tay vẽ hình tượng Phật, hoặc tạo công đức như cát sông Hằng, chỉ là Phật vì giáo hóa chúng sanh không trí huệ, tạo nghiệp được quả báo thù thắng ở đời sau và gây nhân thấy Phật. Nếu người mong sớm thành Phật nên giữ chân tâm. Trong ba đời, chư Phật nhiều vô lượng vô biên, nếu có một vị không giữ chân tâm mà thành Phật, hoàn toàn vô lý.

Cho nên kinh nói: “Cột tâm một chỗ, không việc gì chẳng xong”. Thế nên biết giữ chân tâm là yếu môn vào đạo.

Hỏi: Sao biết giữ chân tâm là tông của mười hai bộ Kinh?

 Đáp: Ở trong tất cả Kinh, Như Lai nói tất cả tội phước, tất cả nhân duyên quả báo, dẫn tất cả núi sông, quả đất, cỏ cây, v.v… các thứ tạp vật, đề ra thí dụ nhiều vô lượng vô biên, hoặc hiện thần thông vô lượng các thứ biến hóa, chỉ là Phật vì giáo hóa chúng sanh không trí huệ các thứ tâm dục, tâm hành muôn vàn sai khác. Thế nên biết, Như Lai tùy cửa tâm kia dẫn vào Nhất thừa. Chúng ta đã thể nhận Phật tánh của chúng sanh xưa nay thanh tịnh, như mặt trời bị mây che. Chỉ cốt rõ ràng giữ chân tâm, mây vọng niệm hết, mặt trời trí huệ liền hiện. Đâu cần học nhiều những cái thấy biết bị khổ sanh tử, tất cả nghĩa lý và việc trong ba đời. Ví như lau gương, bụi hết, ánh sáng tự nhiên hiện. Nay ở trong tâm vô minh mà học được, trọn không kham. Nếu hay rõ ràng không mất chánh niệm, trong tâm vô vi học được, ấy là chơn học. Tuy nói chơn học trọn không có chỗ học.

Vì cớ sao? Vì ta và Niết Bàn cả hai đều không. Lại không hai, không một nên không có chỗ học. Pháp tánh tuy không, cần phải rõ ràng giữ chân tâm. Vì để vọng niệm không sanh, tâm ngã sở diệt.

Kinh Niết Bàn nói: “Người biết Phật không nói pháp, ấy gọi là đa văn đầy đủ”. Nên biết, giữ chân tâm là tông của mười hai bộ kinh.

Hỏi: Sao biết giữ chân tâm là Tổ của chư Phật ba đời?

Đáp: Chư Phật ba đời đều từ trong tâm tánh sanh. Trước do giữ chân tâm, vọng niệm không sanh, tâm ngã sở diệt sau mới được thành Phật. Cho nên biết giữ chân tâm là Tổ của chư Phật ba đời.

        (Luận tối thượng thừa – Hoà thượng Thích Thanh Từ dịch)

Trong tiểu bộ kinh, Đức Phật dạy cho tôn giả Bahiya cần phải học tập như sau: “Trong cái thấy chỉ là cái thấy. Trong cái nghe chỉ là cái nghe. Trong cái ngửi chỉ là cái ngửi. Trong cái nếm vị chỉ là cái nếm vị. Trong cái xúc chạm chỉ là cái xúc chạm. Trong cái biết chỉ là cái nhận biết.

Đó là cái thấy, nghe, ngửi, nếm, xúc chạm vBản hoàn thiệnà nhận biết bởi chân tâm không sinh diệt. Trong cái thấy chỉ là cái thấy, đó là cái thấy của chân tâm. Trong cái nghe chỉ là cái nghe, đó là cái nghe của chân tâm. Trong cái ngửi chỉ là cái ngửi, đó là cái ngửi của chân tâm. Trong cái nếm vị chỉ là cái nếm vị, đó là cái nếm vị của chân tâm. Trong cái xúc chạm chỉ là cái xúc chạm, đó là xúc chạm của chân tâm. Trong cái nhận biết chỉ là cái nhận biết, đó là nhận biết trong sáng của chân tâm.

Thiền sư Triệu Châu dạy thị giả rằng: “Này con! Đây là lửa nhưng con đừng gọi tên là lửa, thầy đã chỉ dạy cho con xong rồi vậy”.

Theo ý nghĩa lời dạy trên, chúng ta có thể hiểu rằng đây là những cảm thọ, tri giác (tưởng), tâm hành (thiện và bất thiện), nhận thức… nhưng đừng sinh khởi lên khái niệm gì đối với chúng, chính ngay đó là cái thấy, cái biết của chân tâm. Cũng vậy, đây là cái bàn, cái ly, con người, ngôi nhà, con đường, đồng lúa… nhưng tâm ta đừng sinh khởi khái niệm gì đối với chúng, thì đó là cái thấy, cái biết của chân tâm không sinh diệt.

Trong sách Ngũ Đăng Hội Nguyên (Hoà thượng Thích Phước Hảo dịch), thiền sư Vô Trụ đã khai thị cho ông tướng quốc Đỗ Hồng Tiệm và đại chúng rằng:

Thiền sư Vô trụ, ở chùa Bảo Đường, Ích Châu. Sư chuyên ngồi lặng lẽ. Tướng quốc Đỗ Hồng Tiệm từng cùng sư luận đạo. Một hôm, con quạ đậu trên cây trước sân kêu. Tướng công hỏi:

Thầy có nghe chăng?

Sư đáp: Nghe!

Quạ bay đi, tướng công lại hỏi:

Thầy có nghe chăng?

Sư đáp: Nghe!

Tướng công lại hỏi:

Quạ bay đi, không tiếng, tại sao thầy nói nghe!

Sư gọi đại chúng bảo: Phật ra đời khó gặp, chánh pháp khó nghe, các ông lắng nghe cho kĩ! Có tiếng hay không có tiếng chẳng quan hệ gì đến tánh nghe. Tánh nghe xưa nay chẳng sanh, đâu từng có diệt! Khi có tiếng thanh trần tự sanh, khi không tiếng thanh trần tự diệt, nhưng tánh nghe này chẳng nhân nơi tiếng mà có sanh, có diệt. Ngộ tánh nghe này liền khỏi thanh trần chi phối. Phải biết, tánh nghe vốn không sanh không diệt, không đến không đi.

Tướng công cùng các quan chức và đại chúng đều cúi đầu chấp nhận.

Sư lại dạy tiếp:

Thấy cảnh tâm chẳng khởi, gọi là chẳng sinh. Chẳng sinh tức chẳng diệt. Đã không sinh diệt tức không bị tiền trần (ngoại cảnh) trói buộc, ngay đó là giải thoát. Không sinh gọi là vô niệm, vô niệm tức không diệt, vô niệm tức không trói buộc, vô niệm tức giải thoát. Tóm lại, biết tâm tức lìa niệm, thấy tánh tức giải thoát. Rời ngoài biết tâm thấy tánh, riêng có pháp môn chứng vô thượng bồ đề, không có lý vậy.

Tướng công hỏi: Thế nào gọi là biết tâm và thấy tánh?

Sư đáp: Tất cả người học đạo, theo vọng niệm trôi lăn bởi do chẳng biết chân tâm. Chân tâm niệm sinh, chẳng theo niệm cùng sinh, niệm diệt chẳng theo niệm cùng diệt, chẳng đến chẳng đi, chẳng định chẳng loạn, chẳng lấy chẳng bỏ, chẳng nổi chẳng chìm, vô vi vô tướng, bén nhạy linh thông, bình thường tự tại. Tâm thể này, rốt ráo không thể đặng, không thể hiểu biết, chạm mắt đều như, thảy trọn thấy tánh.

Tướng công và đại chúng làm lễ khen ngợi vui mừng rồi lui ra.

         Chúng ta phải ở nơi vọng tâm sinh diệt để lãnh hội chân tâm không sinh diệt. Nghĩa là vọng tâm sinh khởi như thế nào thì chúng ta chỉ an trú trong trí tuệ để giác biết vọng tâm đang tập khởi đúng như thật là vô thường, khổ và vô ngã. Đó là cái nhận biết của chân tâm không sinh diệt.

Đã lãnh hội được chân tâm không sinh diệt, chúng ta cần phải quyết chí nỗ lực tu tập trong đời sống thường nhật để điều phục, đoạn trừ vọng tâm. Muốn vậy, chúng ta phải tránh duyên bên ngoài để dành nhiều thời gian cho công phu tu tập, đặc biệt là thiền ngồi. Có thế, chúng ta mới có thể điều phục, đoạn trừ vọng niệm (tham, sân, si). Nếu chúng ta không hạn chế các điều kiện bận rộn bên ngoài thì sẽ rất khó để điều phục được vọng tâm sinh diệt. Bởi vọng tâm chính là sự tập khởi năm thủ uẩn (khổ đế, tập đế) của chính mình. Câu sinh ngã chấp và câu sinh pháp chấp đối với sự tập khởi của năm thủ uẩn này, cho là thường trụ và không biến hoại, vốn được huân tập hư vọng từ vô lượng kiếp luân hồi nên không dễ gì mà điều phục hay đoạn trừ được trong một thời gian ngắn. Chính vì thế, chúng ta phải tha thiết, nỗ lực tu tập không chỉ trong một đời mà đến khi đoạn tận được hoàn toàn khổ đau.

Khi đọc các ngữ lục của bậc hiền thánh trong quá khứ để lại, chúng ta được nghe dạy rằng: “Đối với lý thì không có thứ lớp nhưng sự phải có thứ lớp để đoạn trừ.”

Chữ “lý” của lời dạy trên là chân tâm không sinh diệt (pháp vô vi – vô lậu) nên không có thứ lớp để tu tập; chữ “sự” đó là sự tập khởi của vọng niệm sinh diệt (năm thủ uẩn). Các Ngài dạy về lý không sinh diệt tuy nói không có thứ lớp nhưng để an trú được trong chân tâm thì vọng tâm phải được đoạn trừ từ thô đến tế. Cho nên, các bậc thánh đã thể nhập chân tâm cũng có từng phần cạn hay sâu khác nhau. Dựa vào sự đoạn trừ vọng tâm (khổ đế, tập đế) mà Đức Phật đã thiết lập lộ trình tu tập từ sơ quả đến tứ quả. Thế nên, các bậc hiền thánh đối với pháp vô vi – vô lậu này thể nhập cũng có sự sai biệt.

Khi chúng ta đã lãnh hội được chân tâm, an trú trong chân tâm để nỗ lực tu tập, điều phục, đoạn trừ vọng tâm. Khi vọng tâm (tham, sân, si) được đoạn trừ thì chúng ta sẽ sống hay thể nhập với chân tâm rỗng lặng. Chân tâm được rỗng lặng chừng nào thì trí cũng tương ưng chừng ấy. Vì sao? Bởi sự rỗng lặng của chân tâm là thể, trí là dụng; thể rỗng lặng của chân tâm không thể rời dụng (trí). Và ngược lại, dụng (trí) không rời thể rỗng lặng của chân tâm. Cho nên, chân tâm (thể) được rỗng lặng cũng như rộng lớn chừng nào thì trí (dụng) cũng theo thể của chân tâm mà rộng lớn chừng ấy. Bởi thể của chân tâm chính là định, còn dụng của chân tâm là tuệ nên đó là định tuệ đồng thời. Khi chúng ta đã đạt được sự rỗng lặng không sinh diệt của chân tâm thì mỗi lúc đi, đứng, nằm, ngồi, thấy, nghe, nói năng hoặc im lặng đều rỗng lặng. Đó chính là thường định và thường tuệ. Chúng ta tu tập đạt được sự rỗng lặng đối với chân tâm như vậy thì mới cảm nhận được phần nào đó sự bình an chân thật của thân và tâm. Hiển nhiên, chúng ta không dừng trụ lại ở trạng thái ấy mà cần nỗ lực tu tập để chấm dứt hay đoạn trừ năng sở trong tâm – đó chính là năng không và sở không. Khi chúng ta đã đoạn trừ được năng không và sở không thì lúc ấy vẫn tiếp tục tu tập cho đến khi đoạn tận hoàn toàn khổ đau, chấm dứt dòng lưu chuyển phần đoạn sinh tử.

Chúng ta đã từng học và thực tập về tứ niệm xứ. Điều đó là cần thiết, bởi tứ niệm xứ là thân niệm xứ, thọ niệm xứ, tâm niệm xứ và pháp niệm xứ.

Về thân niệm xứ: Đó là thân thể của chúng ta gồm có phần đất, phần nước, phần gió và phần lửa.

Về thọ niệm xứ: Đó là những cảm thọ gồm có khổ thọ, lạc thọ và thọ không khổ không lạc (xả thọ).

Về tâm niệm xứ: Đó là những tâm hành thiện và tâm hành bất thiện, nên chúng được bao gồm cả tâm vương và các tâm sở. Theo Duy thức học, có 8 tâm vương và 51 tâm sở bao gồm cả thiện tâm sở và bất thiện tâm sở.

Về pháp niệm xứ: Đó là nội pháp và ngoại pháp (bao gồm cả sắc pháp và tâm pháp). Sắc pháp gồm nội sắc và ngoại sắc: nội sắc gồm có nhãn căn, nhĩ căn, tỷ căn, thiệt căn, thân căn; ngoại sắc đó là sắc, thanh, hương, vị và xúc.

Theo Câu Xá Luận, sắc pháp có 11 loại (đó là 5 căn, 5 trần và pháp trần); tâm pháp đó là năm triền cái (tham, sân, hôn trầm, trạo cử và nghi) và thất giác chi. Đó là căn bản ý nghĩa của bốn niệm xứ.

         Vậy, thân, thọ, tâm và pháp là chính con người (năm thủ uẩn) của mình và môi trường đang sinh sống, hoạt động. Vì chúng ta đã sống với thân, thọ, tâm và pháp cho nên Đức Thế Tôn dạy phải tu tập đối với bốn niệm xứ này. Bởi vì thân, thọ, tâm và pháp là pháp duyên sinh nên chúng vô thường, khổ và vô ngã. Nhưng chúng ta không nhận thức được đúng đắn như vậy nên bám chấp cho rằng thân, thọ, tâm và pháp là thường trụ không biến hoại, là an lạc, thanh tịnh. Do đó, chúng ta cần phải an trú trong trí tuệ để nhận biết thân, thọ, tâm và pháp đúng như thật là vô thường, khổ và vô ngã.

Vì thế, có người thực tập chánh niệm, chánh định và chánh kiến đối với hơi thở vào ra, niệm Phật hoặc trì chú… để quán sát, nhận biết thân, thọ, tâm và pháp. Có nghĩa rằng, vị ấy dùng năng lượng của chánh niệm, chánh định và chánh kiến để quán sát hay nhận biết sự tập khởi, sinh diệt, chuyển động, biến hoại của thân, thọ, tâm và pháp. Hoặc những vị đã lãnh hội được chân tâm không sinh diệt thì vị ấy luôn an trú trong chân tâm này để nhận biết thân, thọ, tâm và pháp là pháp do duyên khởi.

Trong kinh Tạp A Hàm, kinh Trưởng Giả số 107, Đức Phật và Ngài Xá Lợi Phất dạy: Thế nào là thân bị bệnh khổ, là tâm bị bệnh khổ? Thế nào là thân bị bệnh khổ mà tâm không bị bệnh khổ?

Thế nào là thân bị bệnh khổ, là tâm bị bệnh khổ?

Tôn giả Xá-lợi-phất bảo gia chủ:

“Lành thay! Gia chủ, nay ông hãy lắng nghe, tôi sẽ vì ông mà nói. Kẻ phàm phu ngu si không học, đối với sự tập khởi của sắc, sự diệt tận của sắc, sự tai hại của sắc, vị ngọt của sắc, sự xuất ly sắc không biết như thật. Vì không biết như thật nên ái lạc sắc, nói rằng sắc là ngã, là ngã sở, rồi chấp thủ, nhiếp thủ. Khi sắc này hoặc bị hư hoại, hoặc bị biến đổi; tâm thức cũng tùy theo mà biến chuyển, khổ não liền sanh. Khi khổ não đã sanh thì phát sinh sự sợ hãi, sự chướng ngại, sự hoài vọng, sự lo nghĩ buồn khổ tham luyến. Đối với thọ, tưởng, hành, thức lại cũng như vậy. Đó gọi là bệnh khổ của thân tâm.”

Trong đoạn văn kinh được trích dẫn trên, Ngài Xá Lợi Phất đã dạy: Khi chúng ta đã chấp thủ vào sự tập khởi của sắc, thọ, tưởng, hành và thức là tự ngã, là thường trụ không biến hoại nên sống với năm thủ uẩn. Vì đã sống với nó nên khi các sắc bên trong thân thể của mình đó là bốn đại; các đối tượng sắc bên ngoài đó là thanh, hương, vị và xúc bị hư hoại, biến đổi thì vọng tâm cũng tuỳ theo sự biến đổi ấy mà phát sinh sầu, bi, khổ, ưu não. Đối với sự tập khởi của thọ, tưởng, hành và thức cũng có ý nghĩa như vậy. Đó gọi là bệnh khổ của thân và tâm.

Thế nào là thân bị bệnh khổ mà tâm không bị bệnh khổ?

         “Đa văn Thánh đệ tử biết như thật về sự tập khởi của sắc, về sự diệt tận của sắc, về vị ngọt của sắc, về sự tai hại của sắc, về xuất ly của sắc. Khi đã biết như thật rồi thì không sanh ra ái lạc, thấy sắc là ngã, hay ngã sở. Sắc này nếu biến dịch hay đổi khác đi nữa, thì tâm cũng không thay đổi theo mà sanh ra khổ não. Khi tâm đã không biến chuyển theo mà sanh ra khổ não rồi, thì được sự không sợ hãi, chướng ngại, tiếc nuối, lo nghĩ, buồn khổ, tham luyến. Đối với thọ, tưởng, hành, thức lại cũng như vậy. Đó gọi là thân bị bệnh khổ mà tâm không bị bệnh khổ.”

Khi một hành giả kiến đế hay lãnh hội chân tâm không sinh diệt, vị ấy nhận thấy rằng sự tập khởi của sắc, thọ, tưởng, hành và thức là pháp duyên sinh nên chúng vô thường, khổ và vô ngã. Vì nhận thấy được sự thật của năm uẩn như vậy nên hành giả luôn an trú trong chân tâm để điều phục, đoạn trừ sự tập khởi của năm thủ uẩn (khổ đế, tập đế). Nhờ vậy, hành giả an trú trong chân tâm rỗng lặng không sinh diệt. Chính lúc ấy, khi sắc bên trong thân thể là bốn đại; các sắc bên ngoài là sắc, thanh, hương, vị và xúc có bị biến đổi, hư hoại, mục nát thì chân tâm rỗng lặng không sinh diệt này cũng không phải vì nhân duyên đó mà phát sinh lo nghĩ, buồn khổ, tiếc nuối và tham luyến.

Với ý nghĩa của đoạn văn kinh trên, chúng ta thấy rằng để đạt đến trạng thái tâm bất động trước sự biến đổi của các pháp nói chung bởi các nhân duyên đem lại thì phải đạt đến địa vị A La Hán. Vì sao? Trong lộ trình tu chứng mà Đức Phật đã chỉ ra phải đi từ sơ quả đến tứ quả. Bậc thánh sơ quả (Tu Đà Hoàn) mới thấy được đạo – tức là lãnh hội được chánh kiến vô lậu hay chân tâm không sinh diệt nên tập khí, nghiệp cũ (năm thủ uẩn) vẫn còn tồn tại nguyên vẹn như vậy. Vị ấy cần phải có thời gian để tu tập thì mới sống được hoặc thể nhập được chân tâm rỗng lặng không sinh diệt này. Bậc thánh nhị quả (Tư Đà Hàm) đã tu tập làm tham, sân, si muội lược – đó cũng chính là giảm bớt được phần nào khổ đế và tập đế (sự tập khởi của năm thủ uẩn). Bậc thánh tam quả (A Na Hàm) đã đoạn trừ được năm hạ phần kết sử – đó là thân kiến, giới cấm thủ, nghi, tham và sân trong dục giới. Vì bậc thánh sơ quả, nhị quả và tam quả đều thuộc hàng hữu học nên các ngài vẫn chưa đoạn trừ được hoàn toàn phiền não chướng (chấp ngã). Cho nên các vị ấy cũng tuỳ theo công đức sự chứng nghiệm chân tâm rỗng lặng của các bậc thánh để khi đối diện với các điều kiện thuận hay nghịch xảy ra, rồi làm cho tâm thức hữu lậu lại vin vào đó mà tập khởi lo nghĩ, ưu phiền nhiều hoặc ít. Tuy nhiên, sự chứng nghiệm về chân tâm không sinh diệt của các bậc thánh sơ quả đến tứ quả có sự sai biệt.

         Tóm lại, chân tâm không sinh diệt và vọng tâm sinh diệt đều vốn sẵn nơi mỗi con người. Bởi chúng ta sống với vọng tâm sinh diệt nên mới lưu chuyển sinh tử khổ đau trong ba cõi sáu đường. Các bậc hiền thánh nhờ đã lãnh hội chân tâm không sinh diệt, rồi tha thiết nỗ lực tu tập nên đã đạt được các thánh quả giải thoát và chấm dứt được biên tế khổ đau, luân hồi sinh tử. Bờ mé để vào được cửa giải thoát thật gần ngay nơi mỗi người song cũng sẽ thật xa nếu chúng ta không nỗ lực quay về để nhận lại cái chân tâm bất sinh bất diệt này.

Tỳ Kheo Thích Thắng Giải

Hits: 752

Trả lời