CN1202.Mười điều chớ vội tin theo lời Phật dạy

Trong thời gian gần đây, có một số người học Phật khởi lên tâm niệm chấp trước, thấy mình hay, mình giỏi hơn người, ai theo tông chỉ Thiền thì phỉ báng Tịnh Độ, người theo Tịnh Độ thì chê bai Thiền, hoặc có nhiều luận thuyết bác bỏ lẫn nhau. Các quan điểm này đều sai lầm và cần phải loại trừ trong ngôi nhà Phật pháp.

 

Đạo Phật là đạo của giác ngộ, giải thoát nên lúc nào cũng phát khởi tấm lòng vô ngã, vị tha với tinh thần từ bi và trí huệ. Trong suốt 49 năm hoằng dương Chánh pháp, đức Phật đem hết sự thấy biết của mình qua sự tu chứng, trải nghiệm thực tế, nhằm thức tỉnh và giác ngộ mọi người để có sự hiểu biết chân chánh bằng niềm tin nơi chính mình và tin sâu nhân quả. 

 

Kinh Kamala được đức Phật nói trong hoàn cảnh khi Ngài cùng các đệ tử đi đến thị trấn Kêsaputa của sắc dân Kalama thuộc nước Kôsala. Người dân trong thị trấn này rất muốn tu tập để chuyển hoá những nỗi khổ, niềm đau thành an vui, hạnh phúc; nhưng họ không biết ai là đạo sư chân chính vì có quá nhiều vị thầy đến đây để tuyên truyền, thuyết phục, ai cũng cho giáo pháp của mình là chân lý. 

Chính vì có quá nhiều đạo sư làm dân chúng trong thị trấn cảm thấy phân vân, lo lắng, vì không biết ai là đạo sư chân chính để quy hướng và ứng dụng hành trì. Đức Phật do nhân duyên này, thay vì trả lời trực tiếp sự thắc mắc của người dân, bằng sự thông minh và trí tuệ của chính mình, Ngài hỏi những người dân ấy như sau: “Này các người dân Kalama, giết hại có từ bi hay không? Trộm cướp có từ bi hay không? Uống rượu say sưa có từ bi hay không?” Tất cả người dân đều trả lời: “Dạ thưa không, kính bạch đức Thế Tôn”. 

Đức Phật dạy, việc phân vân, nghi ngờ khi chưa hiểu rõ là điều tất yếu, hợp lý khi nghe nhiều lời tuyên truyền, thuyết giảng. Trong trường hợp đó, mọi người không nên vội tin quan điểm nào, và cũng không bác bỏ quan điểm nào khi chưa tìm hiểu đạo ấy một cách thấu đáo và triệt để. Đây là lời dạy chân chính và thiết thực, làm cho người dân Kamala phải suy nghĩ, nghiệm xét một cách rõ ràng, tường tận. 

Có những Phật tử chỉ đọc các câu “chớ vội tin” của Kinh Kamala mà đã quy kết, đã khởi kiến chấp trong đầu, cho là quan điểm của mình đúng rồi quay lại bác bỏ, phỉ báng các học thuyết khác. Đây là một điều rất tai hại có thể dẫn đến nhiều sai lầm đáng tiếc.

Ở đây, chúng ta thấy đức Phật rất đỗi từ bi và rộng lượng, Ngài không bắt buộc một ai tin theo mình mà chỉ khuyên nhủ mọi người không nên vội tin và cũng không nên bác bỏ. Chỉ khi nào những lời dạy đó ta đem áp dụng trong đời sống hằng ngày mà cảm nhận được lợi lạc thật sự cho chính mình thì mới hoàn toàn tin theo. 

Đức Phật dạy: “Khi nghe một điều gì, các vị phải quán sát, suy tư và thể nghiệm; chỉ khi nào sau khi kiểm nghiệm, quý vị thực sự nhận thấy lời dạy này thiện lành, tốt đẹp, đạo đức, hướng thiện, chói sáng và được người trí tán thán; nếu sống và thực hiện các lời dạy này sẽ đưa đến hạnh phúc, an lạc ngay trong hiện tại và về lâu, về dài thì lúc ấy quý vị hãy đặt niềm tin bất động và thực hành theo”. 

Khi học, khi đọc, khi nghe một học thuyết nào đó, điều quan trọng bậc nhất là chúng ta phải áp dụng, thực hành. Khi chính mình thực hành và trải nghiệm theo giáo pháp đó mình cảm thấy bình yên, hạnh phúc ngay trong hiện tại và lâu dài thì đó đúng là những lời dạy chân chính, chúng ta hãy nên có lòng tin tuyệt đối vào giáo pháp đó. 

Trong thời gian gần đây, có một số người học Phật khởi lên tâm niệm chấp trước, thấy mình hay, mình giỏi hơn người, ai theo tông chỉ Thiền thì phỉ báng Tịnh Độ, người theo Tịnh Độ thì chê bai Thiền, hoặc có nhiều luận thuyết bác bỏ lẫn nhau. Các quan điểm này đều sai lầm và cần phải loại trừ trong ngôi nhà Phật pháp. 

Thật ra, trong đạo Phật từ pháp phương tiện cho đến pháp cứu cánh, tất cả đều phải Thiền và Thiền có hai loại là Thiền chỉ và Thiền quán. Pháp nào chỉ dạy nương vào một chỗ gọi là Thiền chỉ như niệm Phật, niệm hơi thở chẳng hạn; còn dùng nhận thức để quán chiếu thân thọ, tâm pháp, cho đến ngoại cảnh bên ngoài đều gọi chung là Thiền quán.

Hai pháp này hỗ tương cho nhau, nhờ chỉ nên được định, nhờ quán mà phát sinh trí tuệ, buông xả phiền não tham-sân-si. 

Khi hai phương pháp này đã thuần thục rồi thì mỗi hành giả phải trở về trung đạo, không dùng chỉ và quán nữa mà thể nhập Phật tính ngay nơi mắt-tai-mũi-lưỡi-thân-ý. Phương tiện của mỗi pháp tu có khác, ai thích hợp với pháp nào thì pháp đó là số một.

Ví như có người cảm thấy niệm Phật giúp họ an lạc thì đó là chánh pháp đối với họ, ta không được chê bai, chỉ trích; nhưng trì danh niệm Phật là phương tiện ban đầu muốn được nhất tâm bất loạn như trong kinh A di Đà nói thì chúng ta phải nhớ Phật, tức phải buông xả câu niệm Phật để thể nhập tâm hằng biết của mình. 

Có người nhận thấy tu Thiền giúp họ yên vui, hạnh phúc, thì ta không nên phỉ báng họ, vì đó là gốc của đạo Phật. Thiền là nền tảng căn bản cho mỗi hành giả tu theo đạo Phật, không có Thiền tức không phải đạo Phật, quý Phật tử phải nên nhớ như vậy. 

Ngày xưa, Tôn giả Anan trên đường đi giáo hoá cùng đức Phật, hai người đệ tử đã phát tâm theo ngài học Phật. Người là thợ rèn thì tôn giả chỉ pháp tu quán bất tịnh, người giữ nghĩa địa thì tôn giả dạy pháp tu quán hơi thở. Hai ông tu hoài nhưng không tiến vì không buông xả được phiền não, nên mới than “sao thầy dạy con tu mà không tiến chút nào hết”. Nghe vậy, ngài liền hỏi Phật chỉ dạy. 

Phật bảo: “Tại ông dạy sai vì không phù hợp với căn cơ, việc làm của họ, chớ không phải tại họ tu sai. Ông phải dạy lại đi, người thợ rèn nên dạy quán hơi thở, vì họ thổi ống bễ phì phịch hoài, quán hơi thở sẽ nhịp nhàng với công việc, tu như thế mau tiến hơn; người giữ nghĩa địa thường thấy xác chết nên dạy họ quán bất tịnh thì sẽ có kết quả liền”. Ngài Anan nghe lời dạy của Thế Tôn rồi đem dạy lại 2 vị đệ tử của mình. 

Quả nhiên, chẳng bao lâu sau, cả hai tu đều có kết quả tốt đẹp nên họ càng có niềm tin vững chắc với Phật pháp. Qua câu chuyện trên, cả hai pháp quán bất tịnh và quán hơi thở đều do Phật dạy; nhưng đối với người thợ rèn thì quán bất tịnh không phù hợp với căn cơ, việc làm của họ hiện tại, nên dù có cố gắng tu cũng không đem lại an lạc; đối với người canh nghĩa địa vì thường xuyên tiếp xúc với nhiều xác chết, nếu chỉ dạy quán hơi thở cũng không thích hợp, vì khi thực hành người đó bị loạn tâm. 

Trở lại Kinh Kamala, đức Phật có nói những dấu hiệu của sự hạnh phúc là khi lòng tham, lòng sân, lòng si, lòng hung hăng… đã được vứt khỏi nội tâm con người, thì con người sẽ được hạnh phúc. Khi ta không còn lòng tham, lòng sân, lòng si, lòng hung hăng… chi phối, chinh phục, ta sẽ không khởi lên ý nghĩ hay hành động bức hại sinh linh, lấy của không cho, quan hệ tình cảm bất chính, nói láo, uống rượu, cũng như không còn khích lệ người khác làm những điều xấu ác. 

Như Lai tuyên bố sự xa rời ấy giúp cho con người sống hạnh phúc và an lạc về lâu về dài. Như vậy, pháp môn nào hướng bản thân mình đến bình yên, hạnh phúc thì đó là Chánh pháp cho mình; nhưng pháp môn đó chưa hẳn đã là Chánh pháp cho người khác. Vì thế, quá trình giảng dạy và truyền dạy pháp cần phải được phù hợp với căn cơ của mọi người. 

Người dạy pháp trước tiên tâm phải định tĩnh, yên vui và tỉnh thức, rõ biết được tâm lý của người khác thì mới được giảng pháp. Nếu không rõ được điều này thì việc mình tự tu, mình tự chứng, dùng mình làm trung tâm quán sát sự yên vui, sự hạnh phúc trong nội tâm là điều tối cần thiết, không nên xem xét lỗi người mà tự làm tổn hại tâm mình. 

Tóm lại, khi nghe ai nói hay truyền đạt một điều gì ta phải biết cân nhắc, xem xét, chỉ khi nào quý vị suy tư, chiêm nghiệm và nhận thức xác đáng điều gì là chân chính, lợi ích cho mình và người thì hãy đem lòng tin tưởng và làm theo. Đó là tiêu chuẩn của đức tin chân chánh, chúng ta nên học hỏi và bắt chước thực hành. Dựa trên nền tảng chung của Kinh Nền Tảng Đức Tin, chúng ta hãy cùng tìm hiểu 10 niềm tin chơn chánh mà đức Phật chỉ dạy: 

1. Chớ vội tin một điều gì chỉ vì điều đó là truyền thuyết. 

Truyền thuyết là những câu chuyện bắt đầu từ sự thật lịch sử hoặc hư cấu, được thêm thắt hoặc bớt đi, và được truyền tụng từ người này qua người khác, từ đời này qua đời khác, rồi lại được dân chúng chấp nhận như những chuyện lịch sử.

Truyền thuyết là những câu chuyện được truyền tụng trong dân gian, nhưng không thể kiểm chứng được, tựa như các chuyện hoang đường được dân chúng kể đi kể lại nhiều lần trong nhiều đời, hoặc được thêm thắt, thần thánh hóa, để trở thành nhân vật lịch sử có thật. 

Đó là những người hùng và những danh nhân, danh tướng trong lịch sử. Truyền thuyết cũng là một bộ phận của văn học dân gian. Truyền thuyết thường được gắn bó với con người nhiều hơn bởi sự truyền miệng qua nhiều người. Truyền thuyết cũng cung cấp cho ta một vốn kiến thức kha khá về các địa danh lịch sử ở Việt Nam. 

Nói tóm lại, truyền thuyết là những câu chuyện nửa thật nửa giả do người đời thêu dệt và dựng lên. Có thể truyền thuyết dựa trên một sự kiện có thật, hoặc không có thật, và được người đời sau thêm vào để tăng thêm tính hấp dẫn, thần thánh hóa cho câu chuyện trở nên sống động, mục đích là có truyện kể với bạn bè, người thân, con cái, những người chưa biết.

Có thể nói rằng, mỗi một địa danh, mỗi vùng đất ở Việt Nam đều gắn với một truyền thuyết nào đó, bởi vậy có vô số truyền thuyết chúng ta biết và chưa biết. 

Ví dụ như truyền thuyết Sơn Tinh và Thủy Tinh, đây là một truyền thuyết hư cấu về hai vị thần núi và thần biển, nói lên sự phấn đấu tích cực của con người đối với thiên nhiên. Mặc dù trong chuyện nói hai vị thần núi và biển cùng nhau cầu hôn công chúa Mỵ Nương của vua Hùng Vương đời thứ 18 làm vợ, nhưng truyền thuyết này dựa vào những dữ kiện lịch sử.

Từ ngàn xưa cho đến nay, hằng năm thường xuyên xảy ra thiên tai lũ lụt làm ảnh hưởng đến kinh tế của gia đình và xã hội, vua quan và dân chúng phải nỗ lực thực hiện công việc đào kênh, đắp đê, ngăn đập, nhằm đảm bảo đời sống cho nhân dân. 

Trong truyện Sơn Tinh và Thủy Tinh, cả 2 vị thần đều là hư cấu, nếu ta không hiểu sẽ tin rằng có hai vị thần thực sự đầy quyền năng thì ta sẽ rơi vào mê tín, vì tin mà không biết rõ nguồn gốc của nó. Thần biển tượng trưng cho giông gió, bão tố, lũ lụt, làm thiệt hại đến đời sống con người. Thần núi là tượng trưng cho người dân siêng năng, cần cù, thông minh, tìm cách chống lại thiên tai, hoạn nạn.

Hình ảnh này nói lên tinh thần chịu khó, chịu khổ của con người để khắc phục tai hoạ do thiên nhiên gây ra. Đức Phật không bao giờ bác bỏ các truyền thuyết, ngược lại đức Phật còn khuyên chúng ta hãy nên tìm hiểu nó cho kỹ càng, thấu đáo, để biết được giá trị thật của nó. 

2. Chớ vội tin một điều gì chỉ vì điều đó thuộc về truyền thống. 

Truyền thống là những tập tục lâu đời do xã hội hình thành, nó trở thành nếp sống, nếp văn hóa cho mỗi cộng đồng xã hội đặc thù. Như truyền thống tốt đẹp của người Phật tử Việt Nam là uống nước nhớ nguồn, tinh thần này hợp với đạo thờ cha kính mẹ của dân tộc Việt Nam. Truyền thống tốt đẹp này luôn nhắc nhở mỗi người biết được đạo lý làm người trước tiên là phải biết ơn và đền ơn. 

Chim có tổ – Người có tông, đạo hiếu luôn đi đôi với nhân nghĩa, đạo đức, và làm người ai cũng phải biết như thế. Một con người công thành danh toại đều xuất phát từ sự cung kính, hiếu thảo với ông bà cha mẹ mà ra. Người bất hiếu đa số rơi vào vòng tệ nạn xã hội vì cha mẹ của mình có công sinh thành dưỡng dục, nuôi nấng, bảo bọc, che chở, mà mình còn không biết ơn, thử hỏi sao người khác mình đối đãi tốt cho được. 

Truyền thống cúng sao giải hạn, giết vật cúng tế quỹ thần, xin xăm bói quẻ, đều là những truyền thống làm cho con người thêm hoang mang, sợ hãi, nên phải cầu khẩn, van xin để được tai qua nạn khỏi. Tất cả những thứ này đều là truyền thống, nhưng có những truyền thống giúp cho ta tốt thêm và có những truyền thống làm cho ta mê tín và sợ hãi nhiều hơn. 

Đức Phật của chúng ta rất tế nhị nên hoàn toàn không bác bỏ truyền thống. Do đó, đức Phật dạy ta không nên vội tin một điều gì và cũng không nên bác bỏ một điều gì khi chưa thẩm sát; như những truyền thống giết heo, bò, gà, vịt để cúng tế ngày tết, ngày giỗ, bản thân nó tạo ra nghiệp sát sanh, nghiệp lãng phí cho mỗi gia đình và người thân. 

Những ai thực hành những truyền thống này thì thân tâm của họ cảm thấy bất an, vì nghiệp sát sinh hại vật và làm lãng phí tiền của càng ngày thêm tăng trưởng, nghiệp tham-sân-si gây ra ân oán, thù hằn không có ngày thôi dứt. Những người tin theo các truyền thống này thì dần hồi sẽ bị lạc vào chỗ tối tăm, mê muội mà không có ngày thôi dứt. 

Tuy nhiên, bên cạnh đó cũng có những truyền thống rất tốt đẹp, như truyền thống uống nước nhớ nguồn, ăn trái nhớ kẻ trồng cây, hiếu thuận ông bà cha mẹ, cung kính tôn trọng người tu hành chân chính, biết ơn thầy cô giáo, nhớ ơn người giúp đỡ mình. Truyền thống nhớ ơn-biết ơn-đền ơn là một truyền thống tốt đẹp luôn giúp mọi người sống yêu thương bằng trái tim hiểu biết. Truyền thống hiếu thuận cha mẹ điển hình là ngày lễ Vu Lan trong mùa an cư kiết hạ của chư Tăng ni. 

Trong 3 tháng an cư kiết hạ, lượng mua bán thịt cá ở các chợ giảm gần 50%, rõ ràng đây là một truyền thống tốt đẹp giúp mọi người thể hiện được lòng từ bi với các loài vật; hoặc kỷ niệm ngày của cha, ngày của mẹ bên phương Tây giúp cho bản thân mình cảm thấy nhẹ nhàng, yên vui, vì đã góp phần làm tròn bổn phận con cái đối cha mẹ. 

Tâm hiếu là tâm Phật, là đạo của một người con đối với người mẹ đã mang nặng đẻ đau sinh thành, người cha làm lụng vất vả, nhọc nhằn để nuôi con khôn lớn trưởng thành. Một người con hiếu thảo phải biết tôn trọng, cung kính ông bà cha mẹ, biết đền ơn đáp nghĩa với thâm ân sâu dày và cao cả, còn thương yêu, đùm bọc, giúp đỡ mọi người và biết giữ niềm tin chân chính đối với người khác. 

Truyền thống tôn sư trọng đạo đối với các bậc sư trưởng khiến mình biết quý trọng, tôn kính những người đã có công dạy dỗ mình nên người, thành tài, sống có nhân cách và phẩm chất đạo đức tốt. Chính nó là động lực thúc đẩy làm cho lớp trẻ đi sau noi gương làm theo, nhờ đó cũng được thành tài, hiền thiện, mà làm tròn bổn phận đối với gia đình, xã hội, sống tốt trong hiện tại và mai sau. 

Do đó, những truyền thống nào làm cho ta mê tín hay làm tổn hại cho người và vật thì ta không nên tin, còn truyền thống nào tốt đẹp, giúp cho mọi người vui vẻ, thuận thảo, hoà hợp với nhau, thì chúng ta cần phải giữ gìn và hướng dẫn cho gia đình, người thân cùng được biết và bắt chước làm theo. 

3. Chớ vội tin một điều gì chỉ vì điều đó được nhiều người nhắc đến hay tuyên truyền. 

Tuyên truyền là một hoạt động làm lớn mạnh, làm rộng những hướng dẫn, những lời giảng dạy của người khác. Tuyên truyền có 2 dạng, phục vụ cho lợi ích cá nhân và phục vụ cho lợi ích cộng đồng.

Chúng ta muốn cho việc tuyên truyền có kết quả tốt đẹp thì phải biết cách vận dụng có nghệ thuật làm xúc động lòng người; như các cơ quan ban ngành đoàn thể thường tuyên truyền, kêu gọi các nhà hảo tâm, những tấm lòng vàng, quý Phật tử gần xa giúp đỡ người bất hạnh, già cả, bệnh tật, neo đơn, trẻ mồ côi, và thường được nhiều người ủng hộ, làm cho nhân loại ngày càng thêm yêu thương, gắn bó với nhau bằng tình người trong cuộc sống. 

Đức Phật của chúng ta hoàn toàn không bác bỏ những lời tuyên truyền, vì chính giáo pháp của Ngài nhờ các vị Tổ hoạt động tuyên truyền nên ngày nay mới được thêm lớn mạnh, nhiều người biết đến để áp dụng tu tập và chuyển hoá nỗi khổ, niềm đau thành an vui, hạnh phúc.

Tuy nhiên, đức Phật vẫn cảnh báo chúng ta chớ vội tin. Vì sao? Nếu việc tuyên truyền phục vụ cho mục đích cá nhân, mang yếu tố và tính chất tiêu cực, làm tổn hại đến nhiều người khác, như tuyên truyền tận thế trong thời gian vừa qua làm ảnh hưởng đến một số người, gây hoang mang, sợ hãi, lo lắng, để cho một số người lợi dụng làm điều xấu ác. 

Trái lại, có những tuyên truyền mang ý nghĩa nhân văn đem lại lợi ích cho cộng đồng, như tuyên truyền thực hành tiết kiệm, tuyên truyền nâng cao ý thức giao thông, hay tuyên truyền giáo pháp đức Phật giúp cho mọi người cùng học hỏi, tham khảo, rồi thực hành để buông xả những tâm niệm tham lam, ích kỷ, sân giận, si mê, ganh ghét, tật đố, làm cho mình và người khổ đau.

Những tuyên truyền này luôn giúp mọi người tránh được những tai nạn đáng tiếc trong cuộc đời, giúp cho nhân loại biết cách bỏ ác làm lành mà cùng sống yêu thương, giúp đỡ lẫn nhau bằng trái tim hiểu biết. 

4. Chớ vội tin một điều gì chỉ vì điều đó được ghi lại trong kinh điển hay sách vở. 

Kinh điển, sách vở là những tài liệu ghi chép lại những lời dạy của người xưa nhằm hướng đến một mục đích nào đó.

Ví dụ như sách lịch sử, sách y học… dạy cho con người hiểu được lịch sử, truyền thống con người và đất nước Việt Nam phát xuất từ đâu, do ai sáng lập nên; sách y học dạy cho con người hiểu được cách ngừa bệnh và trị bệnh cho con người; các loại Kinh của Phật dạy giúp con người sống tốt hơn nhờ biết tránh xa điều xấu, hay làm các việc thiện lành, tốt đẹp trên nền tảng nhân quả.

Do đó, để dạy con người phát triển lòng từ bi rộng lớn, Phật dạy không được sát sinh hại vật, trộm cướp, lường gạt của người. 

Tóm lại, Phật khuyên nhủ mọi người không nên làm điều gì gây tổn hại cho người và vật. Muốn vậy, con người cần phải giác ngộ, tỉnh thức và nhận thức đúng đắn về nguyên lý thành-trụ-hoại-không của vạn vật, nguyên lý sinh-già-bệnh-chết của con người.

Và điều trước tiên Phật dạy chúng ta muốn sống tốt và đạo đức thì phải biết cung kính, hiếu thảo với ông bà cha mẹ, vui vẻ, thuận thảo với anh chị em, hoà hợp với bà con cô bác láng giềng bằng cách yêu thương, giúp đỡ lẫn nhau trong tình cảm sâu sắc của nhân loại. 

Tóm lại, Kinh điển và sách vở có 2 loại: Kinh sách chân chính và Kinh sách không chân chính. Kinh sách chơn chánh là những Kinh sách giúp cho con người phát triển tư duy, kiến thức, hiểu biết, trí tuệ, nhằm đem lại lợi ích vật chất và tinh thần cho con người, giúp nhân sinh nhận thức đúng đắn và hiểu biết rõ ràng về nguyên lý nhân-duyên-quả trong thân tâm mình và thế giới bên ngoài.

Kinh sách không chơn chánh là những tài liệu dạy con người phát triển tham-sân-si, làm cho mê hoặc, khổ não trói buộc nơi tâm trí. 

Thí dụ như sách viết về quan hệ tình dục, truyện dâm, truyện sex, tiểu thuyết tình ái. Người học theo những sách vở này chỉ khởi tâm dâm dục và ham muốn hành dâm. Nó làm cho người đó tâm tư không được thanh tịnh và trong sáng, nên dễ bị kích động làm chuyện bậy bạ, làm ảnh hưởng không tốt đến cuộc sống xã hội. Đức Phật luôn khích lệ và ủng hộ những Kinh sách chơn chánh và hay khuyên nhủ mọi người cần nên tránh xa những Kinh sách làm ảnh hưởng xấu xa và tổn hại đến thân tâm con người. 

  

5. Chớ vội tin một điều gì chỉ vì điều đó thuộc lý luận siêu hình. 

Lý luận siêu hình là những lý luận bằng suy nghĩ, tư duy, nghiệm xét, mới có thể lý giải, hiểu rõ bản chất của nó, do đó không thể cảm nhận bằng trực giác, giác quan của chính mình. Lý luận siêu hình có hai loại: lý luận thực tế và lý luận không thực tế. 

Lý luận thực tế là các lý luận giải thích cụ thể, rõ ràng, đúng bản chất theo tinh thần khoa học của thế giới tự nhiên muôn loài vật, và thực tế nhất là con người đang sống trong đời sống xã hội hiện nay. Ví dụ như lý luận về nguyên tử là lý luận siêu hình, vượt qua sự thấy nghe và cảm nhận của con người, các nhà khoa học đã nghiên cứu hàng loạt các thí nghiệm mới thấy được các dấu hiệu và bản chất sự thật của nó. 

Đó là lý luận siêu hình trên hình thể vật chất mà mắt con người khó nhìn thấy được. Lý luận về tâm thức của một con người, hay còn gọi là con người tâm linh mà đức Phật thường nói trong các bản Kinh là lý luận siêu hình.

Muốn biết rõ được bản chất thật sự của nó, chúng ta cần phải thực hành, trải nghiệm mới thấu rõ được cội nguồn của nó là trong sạch, tinh khiết, lặng lẽ, nhưng lại chiếu soi muôn loài vật. Đó là Phật tính sáng suốt của mọi người nhưng ít ai quay nhìn lại để nhận ra, chân lý ấy nương nơi mắt thì thấy biết rõ ràng, không lầm lẫn, tai-mũi-lưỡi-thân-ý cũng lại như thế. 

Lý luận không thực tế là các lý luận không có căn cứ khoa học, không có căn cứ vào bản chất thật sự của con người trong cuộc sống hiện tại. Ví dụ các lý luận về đấng tối cao sinh ra vũ trụ, quyết định sự sống chết và vận mệnh của muôn loài vật, cụ thể nhất là của con người.

Không ai thấy rõ hay sẽ thấy về các truyền thuyết này, nó chỉ nằm trong tín ngưỡng dân gian được truyền tụng nhiều đời, và cũng không ai thấy được đấng tối cao quyết định  vận mệnh của con người, nó hoàn toàn không có căn cứ thực tế cụ thể, rõ ràng. 

Lý luận đạo Phật về con người tâm linh của chính mình được các nhà khoa học kiểm chứng và xác minh rõ ràng đức Phật là một con người có thật, các Thiền sư khi ra đi cũng đã để lại rất nhiều nhục thân trên cả ngàn năm, không cần các kỹ thuật ướp xác mà vẫn giữ nguyên hình thể với tư thế ngồi hoa sen không bị mục nát.

Cụ thể nhất là ở miền Bắc nước Việt Nam chúng ta hiện nay có 4 nhục thân đang được thờ tại các chùa Đậu, chùa Phật Tích, chùa Tiêu và có rất nhiều nhục thân khác ở các nước tu theo Phật giáo. 

Đức Phật của chúng ta luôn luôn ủng hộ những lý luận giúp cho con người hiểu biết về tự nhiên, xã hội, hiểu biết về thân tâm thanh tịnh của tất cả chúng sinh và cụ thể nhất là con người. Ngược lại, Ngài khuyên chúng ta hãy nên tránh xa những lý luận vô căn cứ và làm cho nhiều người mê tín, dấy khởi lên những tâm niệm tham lam, ích kỷ, sân hận, nóng giận, hờn mát, si mê và đố kỵ để làm tổn hại cho nhau. 

6. Chớ vội tin một điều gì chỉ vì điều đó phù hợp với lập trường của mình. 

Lập trường là những quan điểm, hệ thống tư duy của một người hoặc của một nhóm người nào đó về các vấn đề trong cuộc sống. Lập trường được hình thành từ những kiến thức, hiểu biết, được học hỏi qua lại từ các trường lớp, hoặc được học hỏi từ các tôn giáo mà người đó đã được giáo dục, học tập trong suốt một quá trình lâu dài. Có những lập trường phù hợp với đời sống con người, giúp con người ngày càng sống tốt hơn về mọi phương diện vật chất lẫn tinh thần. 

Có những lập trường không phù hợp với đời sống con người, khi làm theo sẽ bị tổn hại về lâu dài. Tùy thuộc vào thói quen và khả năng nhận thức của mỗi người mà chúng ta có những lập trường và quan điểm khác nhau. Như người mới học lớp 1 có suy nghĩ lập trường về cuộc sống còn rất giới hạn, hoàn toàn khác với một sinh viên đại học chuyên ngành đã ra trường và đang làm việc. 

Nếu lập trường nào đó không làm cho con người bị vẩn đục bởi phiền não tham-sân-si, nghĩa là người đó suy nghĩ, nói năng và hành động luôn làm lợi ích cho nhiều người nhưng vẫn tỉnh thức, thân tâm thư thái, an lạc, nhẹ nhàng, thì đó là lập trường chơn chính. Lập trường này giúp cho con người sống ngày càng tốt hơn trên nền tảng của nhân quả, chúng ta hãy nên khuyên khích người khác tin tưởng và tu học theo. 

Lập trường nào dựa vào tranh cãi, bác bỏ, chê bai, chứng tỏ đẳng cấp chính mình bằng những hiểu biết, nhận thức không đúng đắn, do đó bị tham ái, sân giận, si mê chi phối thì đó là những lập trường không có ích cho người nói, người nghe, và làm ảnh hưởng xấu đến quá trình tu học của những người tu theo đạo Phật.

Một số người nói Kinh điển nguyên thuỷ là giáo lý Tiểu thừa, Kinh điển Đại thừa hư dối là do ngoại đạo nguỵ tạo, ai có những nhận định và lập trường như thế thì chưa phải là người học Phật chân chính, thử hỏi làm sao có đủ tư cách hướng dẫn cho mọi người khác học và tu theo. 

Người có lập trường vững chắc là người đã xác định rõ ràng mục tiêu mình đang theo đuổi và quyết chí ứng dụng thực hành để đạt được kết quả tốt đẹp trong hiện tại và mai sau. Như lập trường của người Phật tử sau khi tìm hiểu những lời dạy chân chính của đức Phật thông qua sự quán chiếu, soi sáng lại chính mình, nên ngày càng cảm nhận được bình yên, hạnh phúc; biết được sự tác hại của sát sinh, hại vật, trộm cướp, lường gạt, nói dối để hại người và dùng rượu, xì ke, ma tuý và các chất kích thích độc hại khác làm cho mình và người khổ đau; và mục đích cuối cùng là được giác ngộ, giải thoát, nhưng không tự mình hưởng an nhàn mà phát tâm đi vào đời vì lợi ích chúng sinh với tinh thần vô ngã, vị tha. 

Nhiều người không biết nên phê phán, chỉ trích, nói sống như vậy là ngu, không giúp được gì cho gia đình, người thân. Họ tìm cách ngăn cản, đả phá, làm cho ta lay động, bất an, mà không giữ vững lập trường, nên một số người vì không quyết chí và tin tưởng con đường của mình đang đi và đành bỏ cuộc nửa chừng.

Người làm cách mạng sở dĩ họ thành công là nhờ vào lập trường vững chắc; còn chúng ta là người Phật tử chân chính, trên cầu thành Phật, dưới cứu độ tất cả chúng sinh, vừa làm lợi ích cho mình, vừa giúp đỡ người khác bằng tình người trong cuộc sống với trái tim yêu thương, hiểu biết. Đây là lý tưởng cao cả của những con người có tấm lòng bao la, rộng lớn vì tất cả chúng sinh trên thế gian này. 

7. Chớ vội tin một điều gì khi điều đó được căn cứ trên những dữ kiện hời hợt. 

Những dữ kiện hời hợt là những thông tin không đủ căn cứ chuẩn xác, không đủ tính chơn thực và không có một hệ thống tư duy, nghiên cứu, thể nghiệm rõ ràng. Đức Phật không hoàn toàn bác bỏ các căn cứ dựa trên những dữ kiện hời hợt, nhưng Ngài vẫn khuyên chúng ta khi nghe điều gì phải biết tìm hiểu, chiêm nghiệm, rồi mới tin khi thấy được lợi ích thật sự. 

Những dữ kiện hời hợt đôi khi không phải là sai, mà chẳng qua nó không đủ tính chuẩn xác, tính khoa học, nên có thể làm cho người tiếp nhận những thông tin đó không biết rõ nguyên nhân, nguồn gốc của chúng.

Chính cái không rõ, không biết nguồn gốc đó sẽ làm nhiều người hoang mang, nghi ngờ, nên làm cho họ khởi lên những tâm niệm không tin tưởng; nên khi viết và đặt vấn đề, chúng ta cần phải chú ý đến các dữ kiện của mình, trích dẫn nguồn gốc cụ thể thì người viết và người đọc sẽ được lợi ích thật sự. 

8. Chớ vội tin một điều gì chỉ vì điều ấy phù hợp với định kiến của mình. 

Định kiến là những quan điểm cố định, không thay đổi của một con người về một sự vật, hoặc cụ thể là một hiện tượng nào đó; như một số người cho rằng chết là hết, cát bụi trả về cát bụi; một số người cho rằng tất cả mọi hiện tượng, sự vật xảy ra đều là ngẫu nhiên, đương nhiên khi không; một số người cho rằng có một ông trời ban phước giáng hoạ, tạo ra tất cả muôn loài vật trong bầu vũ trụ bao la này v.v…

Có những định kiến diễn tả đúng bản chất của thế giới và con người, có những định kiến do học hỏi và thói quen của con người nên chỉ là những quan điểm phiến diện, bảo thủ, cố chấp của con người. 

Định kiến thứ nhất cho rằng có một đấng thần linh thượng đế ban phước giáng hoạ, ai sinh ra như thế nào thì trước sau như một không thể thay đổi được, như trời chết sinh trời, người chết sinh người, thú vật chết sinh thú vật, và còn tuỳ thuộc đẳng cấp giàu nghèo, sang hèn. Định kiến này sẽ làm con người mất tự chủ, sống phải lệ thuộc vào đấng bề trên mình không hề biết, nên rơi vào mê tín, tà vạy. 

Định kiến thứ hai cho rằng chết là hết, không có nhân quả, nghiệp báo, tội phước, nên mặc tình hưởng thụ, đến khi phước hết thì chịu hoạ si mê. Hai định kiến này đối lập nhau và đều rơi vào hai trạng thái có và không; có một ông trời ban phước giáng hoạ và không có gì hết sau khi thân này hoại diệt. 

Đức Phật không hoàn toàn bác bỏ các định kiến của thế gian. Đối với những định kiến cho rằng có-không, đúng-sai, tốt-xấu và tất cả những định kiến nào dựa trên nền tảng tham-sân-si làm tổn hại cho người và vật thì Ngài khuyên chúng ta nên tìm cách xa lìa, vì nó không lợi ích và không tốt cho ta trong suốt quá trình tu tập chuyển hoá những nỗi khổ, niềm đau thành an vui, hạnh phúc.

Ta nên tin tưởng hành theo những định kiến nào dựa trên nền tảng nhân quả, làm chủ bản thân, mọi việc tốt-xấu, nên-hư, thành-bại trong cuộc đời đều do mình tạo lấy, lại còn hay san sẻ, giúp đỡ mọi người trên tinh thần thương yêu bằng trái tim hiểu biết. 

Định kiến là cái thấy cố định tuỳ theo sự huân tập của mọi người nên không ai giống ai; chúng ta là con người nên phải biết khôn ngoan, sáng suốt chọn lựa. Muốn được như vậy ta cần phải học hỏi, tìm tòi, nghiệm xét, dùng trí tuệ soi sáng để biết được bản chất thực-hư của nó.

Định kiến nào giúp ta làm chủ bản thân, hoàn toàn chịu trách nhiệm về mọi hành vi tốt xấu của chính mình, thì ta hoàn toàn tin theo và áp dụng hành trì để mình và người được an lạc, hạnh phúc ngay tại đây và bây giờ. 

9. Chớ vội tin một điều gì chỉ vì điều ấy được sức mạnh và quyền uy ủng hộ. 

Sức mạnh và quyền uy, thế lực thường đi đôi với nhau. Người có thế lực luôn dựa vào uy tín của mình bằng địa vị cao trong xã hội, nhân danh một cá nhân hay một tổ chức tập thể nào đó; họ nhờ có địa vị cao nên được bảo trợ bằng vũ lực để khống chế các đối tượng khác; hoặc một băng nhóm, đảng phái nào dùng sức mạnh để thị uy với thiên hạ. 

Như các ông vua thời phong kiến đã dùng địa vị của mình để bắt buộc người khác phải tuân theo, vua bảo tôi thần chết là phải chết, không chết là bất trung. Vua muốn phong quan, tiến chức cho ai thì phong, muốn giết ai thì giết. Ai sống thuận theo vua và làm lợi ích, bảo vệ cho vua thì được hưởng vinh hoa phú quý suốt đời.

Cũng như nhà nước đảm bảo mọi công dân có quyền đi học và làm việc để nuôi sống bản thân, gia đình, đóng góp lợi ích cho xã hội; ngược lại, nhà nước nghiêm cấm việc giết người, cướp của, trộm cắp lường gạt của người khác… 

Đức Phật không bao giờ bác bỏ những loại ủng hộ này, vì nhờ có luật pháp và kỹ cương phép nước nên con người mới cố gắng sống tốt với nhau. Thay vào đó, đức Phật hướng dẫn tất cả mọi người biết cách lựa chọn những thông tin đúng, hợp pháp, phù hợp cho quá trình tu tập và chuyển hoá các phiền muộn, khổ đau.

Những sự ủng hộ dựa vào lợi ích cá nhân trên nền tảng tham lam, ích kỷ, sân giận, si mê, thì ta không nên đặt niềm tin để làm tổn hại người và vật; như quan niệm từ nghìn xưa cho đến nay, cái đúng thuộc về kẻ chiến thắng nhờ có sức mạnh và uy quyền. 

Đây là quan niệm dựa trên nền tảng chấp ngã của cái tôi, là tôi và của tôi, nhằm phục vụ cho những người muốn chiến thắng vì thế lực mạnh, nên lúc nào cũng sân hận,si mê. Quan niệm người giàu có quyền vui chơi hưởng thụ, bóc lột người nghèo phải phục vụ cho riêng mình là dựa trên nền tảng tham lam, ích kỷ, bỏn sẻn, phục vụ cho tầng lớp người có nhiều tài sản và quyền lực. 

Tuy nhiên, những sự ủng hộ dựa vào lợi ích cộng đồng xã hội, phục vụ vì quyền lợi chung cho nhiều người, không bị tham-sân-si chi phối thì chúng ta cần phải đề cao và duy trì. Chẳng hạn như quyền đi học của tất cả mọi công dân được nhà nước khích lệ và ủng hộ, đây là một dấu hiệu tốt cho xã hội đang trên đà phát triển, giúp con người tiếp thu tri thức, hiểu biết.

Trên thực tế, những lời dạy của đức Phật đã được rất nhiều người trên thế giới ủng hộ, nó giúp con người sống yêu thương, đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau trên tinh thần vô ngã, vị tha nhờ quyền bình đẳng trong cuộc sống. 

Con người ngày nay văn minh, tiến bộ vượt bực nhờ biết học hỏi và nghiệm xét, nên thấy rõ chỉ có đạo Phật mới là đạo của con người; vì con người sống yêu thương bằng trái tim hiểu biết và sẵn sàng chia sẻ nỗi khổ, niềm đau; nhưng vì nó đi ngược lại lòng tham lam, ích kỷ của con người, nên số đông khó thâm nhập bởi tính tự giác bằng ý thức của mỗi người. 

10. Chớ vội tin một điều gì chỉ vì điều ấy được các nhà truyền giáo hay đạo sư của mình tuyên thuyết. 

Như chúng ta đã biết, những lời dạy vàng ngọc của đức Phật là các phương pháp giúp mọi người đạt được sự tỉnh thức khi thực hành và làm cho thân tâm được vui vẻ, lạc quan, yêu đời, bình yên, hạnh phúc ngay tại đây và bây giờ. Các nhà truyền giáo hay đạo sư là những người thuyết pháp, chia sẻ với chúng ta về điều Phật dạy. 

Tuy nhiên, đức Phật vẫn khuyên ta chớ vội tin mà khi nghe phải biết suy xét, chiêm nghiệm; khi thực hành đã cảm thấy được an lạc, lợi ích cho chính mình và người thì khi đó ta mới tin. Tin như vậy là người có hiểu biết chân chính bằng sự trải nghiệm trong thực tế, không phải tin suông, tin càn, tin bướng.

Việc tin tưởng mù quáng, không có căn cứ sẽ làm phát khởi phiền não tham-sân-si để làm hại mình và người. Do đó, đức Phật dạy chúng ta chớ vội tin một điều gì khi chưa có sự nghiệm xét và kiểm chứng rõ ràng.

Tuy nhiên, đức Phật không bác bỏ các điều được các nhà truyền giáo hay các đạo sư khác tuyên thuyết. Đức Phật chỉ dạy mỗi người nên tiếp nhận chúng bằng sự nhận thức đúng đắn và được soi sáng bằng trí tuệ.

Nếu khi tiếp nhận, thực hành theo mà thấy tâm mình không dấy khởi tham lam, sân giận, si mê, giúp mình tỉnh thức thì những lời đó nên tin. Nếu khi tiếp nhận, thực hành theo mà thấy mình phiền não, tham-sân-si dẫy đầy thì chúng ta nên từ bỏ những lời dạy đó vì không thật sự lợi ích cho mình và người. 

Qua đó, chúng ta có thể rút ra kết luận: Mục đích của việc học Phật không phải dùng kiến thức của mình để tranh đấu hơn thua với nhau nhằm chứng tỏ khả năng hiểu biết. Mục đích của việc học Phật là điều phục và chuyển hoá tâm mình, làm sao cho tâm được định tĩnh, không bị tán loạn bởi các cảnh duyên bên ngoài. 

Việc tu học Phật là một quá trình nỗ lực thực hành lâu dài cần phải có sự kiên trì, bền chí, nhẫn nại, không cạnh tranh hơn thua, không dò tìm lỗi người khác, thường xuyên tu sửa chính mình. Chúng ta chỉ chuyên chú học hỏi, chiêm nghiệm, tu tập làm sao cho thân tâm được an ổn, nhẹ nhàng, biết rõ ràng từ ý nghĩ cho đến lời nói và mọi hành động của mình một cách chính xác.
 

 

Nguồn : Source link vuonhoaphatgiao.com

Cẩm nang cuộc sống – Tâm học 2022 là cuốn sách Online chia sẻ , tóm lược các bài viết lời dạy , kinh nghiệm đúc kết mà Tâm học cảm thấy cần thiết trong đời sống con người nói chung và bản thân tác giả nói riêng.

Hits: 6

Post Views: 284