Tôn giả Sela – bạn thân của ẩn sĩ tóc bện Keniya ( Top 80 trưởng lão – nhóm trái)
Tôn giả Sela – bạn thân của ẩn sĩ tóc bện Keniya ( Top 80 trưởng lão – nhóm trái)
Tôn giả Sela – bạn thân của ẩn sĩ tóc bện Keniya, đức Phật cho ông thấy đầy đủ ba mươi hai tướng tốt của Ngài.
https://www.palikanon.com/english/pali_names/s/sela.htm
2. Sela. A brahmin of Anguttarāpa. He was a great friend of Keniya, the Jatila, and visited him when Keniya was making preparations to entertain the Buddha. Having heard the word “Buddha” from Keniya, Sela was filled with joy and fortitude, and went with his two hundred and fifty pupils to visit the Buddha in the woodland near Apana. There he observed on the person of the Buddha the thirty two marks of a Great Being all except two – viz., hidden privates and the long tongue. The Buddha read his thoughts and contrived, by his iddhi power, that Sela should be satisfied on these two points as well (This is referred to at Mil.167; DA.i.276, etc.). Sela then praised the Buddha in a series of verses and asked questions of him. At the end of his talk, Sela entered the Order with his pupils, and, at the end of a week, he attained arahantship (SN. p.104 ff. = M.ii.146f).
In the time of Padumuttara Buddha Sela had been the leader of the same guild of three hundred men, and, together with them, had built a parivena for the Buddha and done many good acts. As a result of these they received the “ehi Bhikkhu-pabbajjā” in this last life (SNA.ii.455; MA.ii.782; see also Ap.i.316; Thag.vs.818-41; Th4gA.ii.47f).
Mahāsela, mentioned as the teacher of Sugandha Thera (ThagA.i.80f), is probably identical with this Sela. Sela lived to the age of one hundred and twenty (DA.ii.413).
According to the Dhammapada Commentary (DhA.i.384; also AA.i.219), the Buddha first met Sela on his way to Bhaddiya to convert Visākhā and her kinswomen. Visākhā was then seven years old.
The Apadāna says (Ap.i.318) that Sela’s father was a wealthy brahmin, named Vāsettha.
2. Sela. Một bà la môn của Anguttarāpa . Anh là một người bạn tuyệt vời của Keniya , Jatila , và đã đến thăm anh khi Keniya đang chuẩn bị để tiếp đãi Đức Phật. Sau khi nghe từ “Đức Phật” từ Keniya, Sela tràn đầy vui mừng và mạnh mẽ, và đi với hai trăm năm mươi học trò của mình đến thăm Đức Phật trong khu rừng gần Apana. Ở đó, ông quan sát thấy trên người của Đức Phật có ba mươi hai dấu vết của một Đấng Vĩ đại, tất cả chỉ trừ hai – viz., Vầng hào quang ẩn và chiếc lưỡi dài. Đức Phật đã đọc được suy nghĩ của mình và bằng sức mạnh iddhi của mình, rằng Sela cũng nên hài lòng về hai điểm này (Điều này được đề cập tại Mil.167; DA.i.276, v.v.). Sela sau đó ca ngợi Đức Phật trong một loạt các bài kệ và đặt câu hỏi về Ngài. Vào cuối buổi nói chuyện của mình, Sela cùng với các học trò của mình bước vào Dòng, và vào cuối một tuần, anh ta đã đạt được quả vị A-la-hán (SN. P.104 ff. = M.ii.146f).
Vào thời Đức Phật Padumuttara, Sela là thủ lĩnh của cùng một giáo hội gồm ba trăm người đàn ông, và cùng với họ, đã xây dựng một đài tưởng niệm cho Đức Phật và làm nhiều việc tốt. Kết quả là họ đã nhận được “ehi Tỳ-kheo-pabbajjā” trong kiếp cuối cùng này (SNA.ii.455; MA.ii.782; xem thêm Ap.i.316; Thag.vs.818-41; Th4gA.ii .47f).
Mahāsela, được đề cập là thầy của Sugandha Thera (ThagA.i.80f), có lẽ giống hệt với Sela này. Sela sống đến một trăm hai mươi tuổi (DA.ii.413).
Theo Chú giải Kinh Pháp Cú (DhA.i.384; cũng là AA.i.219), lần đầu tiên Đức Phật gặp Sela trên đường đến Bhaddiya để chuyển đổi Visākhā và những người phụ nữ của cô ấy. Visākhā lúc đó bảy tuổi.
Apadāna kể (Ap.i.318) rằng cha của Sela là một bà la môn giàu có, tên là Vāsettha.
Ðược sanh trong thời đức Phật hiện tại ở Anguttaràpa, trong một gia đình Bà-la-môn, tại một làng Bà-la-môn ở Apana, ngài được đặt tên là Sela. Khi đến tuổi trưởng thành, ngài sống ở đấy, rất giỏi về ba tập Vệ-đà và về nghệ thuật Bà-la-môn, dạy các Mantrà (thần chú) cho ba trăm thanh niên Bà-la-môn. Trong khi ấy Thế Tôn rời bỏ Sàvatthi, đang du hành ở Anguttaràpa với một ngàn hai trăm năm mươi vị Tỷ-kheo. Biết được tám tánh thuần thục của Sela và các đệ tử của ngài, đức Phật dừng lại tại một khu rừng. Rồi ẩn sĩ Keniya, sau khi mời bậc Ðạo Sư với chúng Tỷ-kheo dùng cơm vào ngày sau, đang sửa soạn rất nhiều món đồ ăn. Rồi Sela với ba trăm đệ tử đến thăm am thất và hỏi có phải Keniya đang sửa soạn để đón mừng vị Ðại thần của vua. Khi Keniya trả lời là sửa soạn thức ăn để mời đức Phật, Sela cảm thấy hết sức xúc cảm với chữ đức Phật, đi đến gặp ngay đức Phật với các thanh niên đệ tử của mình. Sau khi nói lên những lời chào đón hỏi thăm, ngài chiêm ngưỡng các tướng tốt đức Phật và nghĩ rằng: ‘Một vị có những tướng tốt như vậy, một là sẽ thành vị Chuyển luân Thánh vương, hai là sẽ thành Phật’. Một vị Phật khi nghe tán thán về mình sẽ lộ rõ chân tướng Phật của mình. Còn nếu chưa thành Phật, khi nghe tán thán về đức Phật sẽ cảm thấy khó chịu và bất mãn. Ngài quyết định nói lên lời tán thán đức Phật như sau:
818. Thân trọn đủ, chói sáng,
Khéo sanh và đẹp đẽ,
Thế Tôn sắc vàng chói,
Răng trơn láng, tinh cần.
819. Ðối với người khéo sanh,
Những tướng tốt trang trọng,
Ðều có trên thân Ngài,
Tất cả Ðại nhân tướng.
820. Mắt sáng, mặt tràn đầy,
Cân đối, thẳng, hoàn mỹ,
Giữa chúng Sa-môn Tăng,
Ngài chói như mặt trời.
821. Vị Tỷ-kheo đẹp mắt,
Da sáng như vàng chói,
Với hạnh Sa-môn Ngài,
Cần gì sắc tối thượng.
822. Ngài xứng bậc Ðại vương,
Chuyển luân, xa luân chủ,
Chiến thắng khắp bốn phương,
Bậc chúa tể Diêm phù.
823. Vương tộc, hào phú vương,
Là chư hầu của Ngài,
Là vua giữa các vua,
Là giáo chủ loài Người,
Hãy trị vì quốc độ,
Tôn giả Gotama!
Thế Tôn vâng theo ý muốn của Sela, trả lời:
824. Sela, Ta là vua!
Bậc Pháp vương, Vô thượng,
Ta chuyển bánh xe pháp,
Bánh xe chưa từng chuyển.
Phạm chí Sela nói:
825. Ngài tự nhận giác ngộ.
Bậc Pháp vương, Vô thượng,
Ta chuyển bánh xe pháp,
Gotama nói vậy.
826. Ai sẽ là tướng quân?
Là đệ tử Tôn giả?
Ai theo giữ truyền thống,
Xứng đáng bậc Ðạo Sư?
Sau Ngài ai sẽ chuyển,
Pháp luân Ngài đã chuyển?
Tôn giả Sàriputta đang ngồi bên phải Thế Tôn, đầu chói sáng đẹp đẽ như một đống vàng. Thế Tôn chỉ Sàriputta và nói:
827. Thế Tôn: Này Sela,
Ta chuyển bánh xe pháp,
Bánh xe pháp vô thượng,
Chính Sàriputta,
Chuyển bánh xe Chánh pháp,
Thừa tự Như Lai vị.
828. Cần biết, Ta đã biết,
Cần tu, Ta đã tu,
Cần đoạn, Ta đã đoạn,
Do vậy, Ta là Phật,
Hỡi này Bà-la-môn.
829. Còn gì nghi ở Ta,
Hãy gác bỏ một bên,
Hãy giải thoát khỏi chúng.,
Hỡi này Bà-la-môn.
830. Thấy được bậc Chánh Giác,
Thật thiên nan vạn nan,
Bậc Chánh Giác ra đời,
Thật thiên nan vạn nan,
Ta là bậc Chánh Giác,
Bậc Y vương Vô thượng,
Hỡi này Bà-la-môn.
831. Là Phạm thiên khó sánh,
Nhiếp phục các Ma quân,
Hàng phục mọi đối nghịch,
Ta hân hoan không sợ.
Bà-la-môn Sela hoàn toàn tin tưởng vào Thế Tôn, muốn xuất gia và thưa rằng:
832. Chư Tôn giả hãy nghe!
Như bậc có mắt giảng,
Bậc Y vương Ðại hùng,
Sư rử rống trong rừng!
833. Thấy Phạm thiên vô tỷ,
Nhiếp phục các Ma quân,
Ai lại không tín thành,
Cho đến kẻ hạ tiện.
834. Ai muốn, hãy theo ta,
Không muốn hãy đi ra,
Ở đây ta xuất gia,
Với bậc Tuệ tối thượng.
Các thanh niên Bà-la-môn, vì đã đạt được những điều kiện cần thiết, trả lời:
835. Nếu Tôn giả tín thành,
Giáo pháp bậc Chánh Giác,
Chúng con cũng xuất gia,
Với bậc Tuệ tối thắng!
Sela hoan hỷ thấy các thanh niên Bà-la-môn san sẻ chí nguyện của mình, đưa chúng đến trước mặt Thế Tôn và xin được xuất gia:
836. Ba trăm Phạm chí ấy,
Chấp tay xin được phép,
Chúng con sống Phạm hạnh,
Do Thế Tôn lãnh đạo.
Rồi Thế Tôn, thấy được Sela trong các đời quá khứ, Sela cũng đã dạy cho ba trăm đệ tử này trông các giống phước và nay trong đời cuối cùng, đã tạo được tuệ quán cho mình và cho các đệ tử, thấy rằng chúng đã thuần thục để xuất gia:
837. Thế Tôn đáp: Sela,
Phạm hạnh được khéo giảng,
Thiết thực ngay hiện tại,
Vượt khỏi thời gian tính,
Ở đây sự xuất gia,
Không uổng công, hoang phí,
Với ai không phóng dật,
Tinh tấn chuyên tu học.
Thế Tôn nói: ‘Hãy đến, Tỷ-kheo!’ Rồi với thần lực của Bổn sư, tất cả đều có y và bình bát, đảnh lễ đức Phật, bắt đầu học thiền quán và chứng quả A-la-hán vào ngày thứ bảy.
Rồi các vị ấy đến đức Phật, nói lên trí giác của mình, và Sela thưa:
838. Kính bạch bậc Pháp nhãn,
Cách đây trước tám ngày,
Chúng con đã đến Ngài,
Xin phát nguyện quy y,
Thế Tôn trong bảy đêm,
Ðã nhiếp phục chúng con,
Ðã chế ngự chúng con,
Trong giáo lý của Ngài.
839. Ngài là bậc Giác giả,
Ngài là bậc Ðạo Sư,
Ngài là bậc Mâu-ni,
Ðã chiến thắng quân ma,
Sau khi đã đoạn trừ,
Vượt qua biển sanh tử,
Ngài giúp quần sanh này,
Cùng vượt qua bể khổ.
840 Sanh y Ngài vượt qua,
Lậu hoặc Ngài nghiền nát,
Ngài là sư tử chúa,
Không chấp, không sợ hãi.
841. Ba trăm Tỷ-kheo này,
Ðồng chấp tay đứng thẳng,
Ôi anh hùng chiến thắng,
Hãy duỗi chân bước tới,
Hãy để các đại nhân,
Ðảnh lễ bậc Ðạo Sư.
Reborn in this Buddha-age, in Anguttarapa,[2] in a brahmin(priest) family, at the brahmin village of Āpaṇa, he was named Sela. And he lived there when adult, proficient in the three Vedas and in brahmin(priest) arts, teaching mantras to 300 brahmin(priest) youths. Now at that time the Lord(Buddha), leaving Sāvatthī, toured in Anguttarāpa with 1,250 bhikkhus(monks). And divining the maturity of insight in Sela and his pupils, he halted at a certain wood. Then Keniya, the ascetic, having invited the Lord(Buddha) and his band for the following day, made preparation of much food. And Sela with his 300 visited the hermitage and asked: ‘What now, Keniya, is a minister of the King expected?’ and so on. Keniya replied: ‘I have invited the Buddha, the Exalted One(Buddha) for to-morrow.’ Now Sela, thrilled with joyful enthusiasm at the word ‘Buddha,’ sought out the Lord(Buddha) straightway with his youths, and after exchange of courtesies seated himself at one side. Meditating the Exalted One, he thought: ‘He has all the marks of one who is either a world-emperor, or a Buddha rolling back the veil of the world; yet I know not whether this religious ascetic be a Buddha or not. But I have heard that they who are Exalted Ones, Arahants(enlightened ones), Buddhas supreme, reveal themselves when their praises are uttered; for one who is not such a Buddha, when some one in his presence praises the virtues of a Buddha, is irritated and dissatisfied, because he has not won the serene confidence of Buddhas,[3] and cannot endure the allusions.[4] What if I were now to praise the Samana Gotama(Buddha) to his face with suitable verses? So he began:
[818] Paripuṇṇakāyo suruci sujāto cārudassano,||
Suvaṇṇavaṇaṇosi bhagavā susukkadāṭho viriyavā.|| ||
[819] Narassa hi sujātassaye bhavanti viyañjanā,||
Sabbe te tava kāyasmiɱ mahāpurisalakkhaṇā.|| ||
[820] Pasannanetto sumukho brahmā uju patāpavā,||
Majjhe samaṇasaŋghassa ādicco’va virocasi.|| ||
[821] Kalyāṇadassano bhikkhu kañcanasannibhattaco,||
Kiɱ te samaṇabhāvena evaɱ uttamavaṇṇino.|| ||
[822] Rājā arahasi bhavituɱ cakkavattī rathesabho,||
Cāturanto vijitāvī jambusaṇḍassa issaro.|| ||
[823] Khattiyā bhogā rājāno anuyantā bhavanti te,||
Rājādhirājā4 manujindo rajjaɱ kārehi gotama.|| ||
[818] O you of perfect form and beauty rare,
Of fairest (body)parts[5] and lovely to see,
Exalted One(Buddha)! your colour like fine gold,
You valiant spirit, with the dazzling teeth,
[819] Whose body shows the features that betray
The man of perfectly adjusted (body)parts,
Yes, all the traits that mark the Super-Man;
[820] you with the eyes so clear, your composure
So fair, broad,[6] straight, majestic, you do shine
As did the sun, the centre you of all
The chosen band of monks gathered round.
[821] you bhikkhu(monk) noble of aspect, whose skin
Resembles gold, say, what is hermit’s life
To you with presence so supremely fair?
[822] A Prince you do deserve to be, a Bull
Drawing the chariot of the world’s empire;
Lord of the earth from end to end foursquare,
A conqueror, of Jambudīpa(Indian sub-continent) chief.
[823] Nobles and wealthy lords your vassals be,
You sovran lord of lords, you king of men,
Take you your power, O Gotama(Buddha), and reign!
Then the Exalted One(Buddha), fulfilling Sela’s wish, replied:
[824] Rājāhamasuhi sela (selati bhagavā) dhammarājā anuttaro,||
Dhammena vakkaɱ vattemu cakkaɱ appativattiyaɱ.|| ||
[824] ‘A king, O Sela, verily am I;
King of the Path(Dhamma), above me there is none. [312] And by my doctrine[7] do I turn the wheel
Of sovereignty, wheel irreversible.’
Then Sela to win confirmation spoke again:[8]
[825] Sambuddho paṭijānāsi (iti selo brāhmaṇo) dhammarājā sanuttaro,||
Dhammena cakkaɱ vattemi iti bhāsasi gotama.|| ||
[826] Ko nu senāpati bhoto sāvako satthu anvayo,||
Ko te maɱ anuvatteti dhammacakkaɱ pavattitaɱ.|| ||
[825] Wholly enlightened you do own yourself:
‘King of the Path(Dhamma), above me there is none
And by my doctrine do I turn the wheel
Of sovereignty’ – so you say, Gotama.
[826] Who is the general of my lord the King,
Disciple following in the Lord(Buddha)’s steps?
Who after his example turns the wheel?
Now the venerable Sāriputta was seated at the right of the Exalted One(Buddha), his head shining in beauty like a pile of gold. And showing him the Exalted One said:
[827] Mayā pavattitaɱ cakkaɱ (selāti bhagavā) dhammacakkaɱ anuttaraɱ,||
Sāriputto anuvatteti anujāto tathāgataɱ.|| ||
[828] Abhiññeyyaɱ abhiññātaɱ bhāvetabbaɱ ca bhāvitaɱ,||
Pahātabbaɱ pahīnaɱ me tasmā buddhosmi brāhmaṇa.|| ||
[829] Vinayassu mayi kaŋkhaɱ adhimuccassu brāhmaṇa,||
Dullabhaɱ dassanaɱ hoti sambuddhānaɱ abhiṇhaso.|| ||
[830] Yesaɱ ve dullabho loke pātubhāvo abhiṇhaso,||
So’haɱ brāhmaṇa sambuddho sallakatto anuttaro.|| ||
[831] Brahmabhūto atitulo mārasenappamaddano,||
Sabbāmitte vase katvā modāmi akutobhayo.|| ||
[827] ‘The wheel I set a-going of the Path(Dhamma),
Above which, Sela, there is none, that wheel
Did Sariputta after my example[9] turn,
Who has become like Tathagatha (Buddha).
[828] All that which should be known is known by me,
All culture of the mind, that have I did,
Whatever should be renounced I have renounced,
Hence, brahmin! am I Buddha – one Awakened(into truth).
[829] [313] Subdue your doubts regarding me, brahmin!
Have faith in me. Hard, hard it is to win
Repeated seeing – [as you mayest now] –
Of them who rise on earth Buddhas Supreme.
[830] And it is of such whose advent in the world
Is difficult and rare, that I in truth
Am one, O brahmin! yes, a Buddha I,
Surgeon and Healer,[10] over whom there’s none.
[831] Supreme my place and past compare my work,
In crushing the assaults of Māra’s(deathlord/devil) hosts. All that is hostile lis under my sway,
And I rejoice for from no where comes fear.’
Then Sela the brahmin(priest), so convinced by the Exalted One(Buddha) as to wish to take monk’s orders, said:
[832] Idaɱ bhonto nisāmetha yathā bhāsati cakkhumā,||
Sallakatto1 mahāvīro nīho’va nadatī vane.|| ||
[833] Brahmabhūtaɱ atitulaɱ mārasenappamaddanaɱ,||
Ko disvā nappasīdeyya api kaṇhābhijātiko.|| ||
[834] Yo maɱ icchati anvetu yo vā nicchati gacchatu,||
Idhāhaɱ pabbajissāmi varapaññassa santike.|| ||
[832] ‘Now pay good heed, sirs, to the words that He
Who sees, Healer and Great one, speaks to us,
Impressive as a forest lion’s roar.
[833] Supreme in place and past compare in work,
Who crushs the assaults of Māra’s(deathlord/devil) hosts: –
[834] Who that has seen him would not feel convinced,
And were he never so obscure of birth?[11] He who is glad for me may follow me;
And whosoever is not glad may go his way;
But I will in this Rule renounce the world,
Under him who is so noble and so wise.’
Then the brahmin(priest) youths also, because they had attained to the requisite conditions, replied:
[835] Etaɱ ce ruccati bhoto sammāsambuddhasāsanaɱ,||
Mayampi pabbajissāma varapaññassa santike.|| ||
[835] ‘If to your judgment, sir, this Rule of him.
The Supreme Buddha, did commend itself,
We too will in that Rule renounce the world,
Under him who is so noble and so wise.’
Then Sela, delighted because those youths shared in his resolve, showed them to the Lord(Buddha) and asked for initiation into monkhood:
[836] Brāhmaṇā tisatā ime yācanti pañjalīkatā,||
Brahmacariyaɱ carissāma bhagavā tava santike.|| ||
[836] These thrice one hundred brahmins(priests) with clasped hands
Beseech you, O Exalted One(Buddha), that we
May lead the holy life(celibacy/sage’s life) beneath your eye.
Then the Exalted One, inasmuch as in past ages Sela, as teacher of just those 300, had sown the root of merit, and now in the last life had produced both his own insight and their maturity, discerned that they were ripe for initiation into monkhood and said:
[837] Svākkhātaɱ brahmacariyaɱ (selāti bhagavā) sandiṭṭhikamakālikaɱ,||
Yattha amoghā pabbajjā appamattassa sikkhato.|| ||
[837] ‘Well, Sela, is the holy life(celibacy/sage’s life) is set forth,
Clear to be seen and heard; swift is the fruit,[12] In which not futile is the coming forth
For one who earnestly did train himself.’
Upon that the Exalted One said: ‘Come you, bhikkhus(monks)!’ And they, by his mystic power gifted with the robes and bowl of bhikkhus(monks) of long-standing,[13] did obeisance and began their studies for insight, attaining arahantship(enlightenment) on the seventh day. because of that they came to the Lord(Buddha) and declared aññā(supreme attainment) thus, Sela speaking:
[839] Tuvaɱ buddho tuvaɱ satthā tuvaɱ mārābhibhū muni,||
Tuvaɱ anusaye chetvā tiṇṇo tāresimaɱ pajaɱ.|| ||
[840] Upadhī te samatikkantā āsavā te padālitā,||
Sīho’va anupādāno pahīnabhayabheravo.|| ||
[841] Bhikkhavo tisatā ime tiṭṭhanti pañjalīkatā,||
Pāde vīra pasārehi nāgā vandantu satthuno’ ti.|| ||
[838] Lo! you who see all, it is eight days since
We came and refuge found. In just one night,
Exalted One(Buddha)! We are trained in your Rule.
[839] You are Buddha! our Lord(Buddha) you! and you
The mighty Seer who overthrew Māra(deathlord/devil). You who all evil tendencies have cleaned,
And crossed [the flood of life’s eternal sea],
it is you who help the sons of men to cross.
[840] you have transcended every cause of birth,
And shattered every poison-growth within,
You even as a lion, grasping nothing,
Have banished every source of fear and dread.
[841] Three hundred bhikkhus(monks) lo! before you stand,
With clasped hands outstretched to honour you,
Stretch forth your feet, O Lord(Buddha)! allow them
the arahants(enlightened ones),[14] to salute you..
[1] Both story and poem form the greater part of the ‘Sela-Sutta’ in the Sutta-Nipāta and in the Majjhima Nikāya (ii. 146). Dhammapāla is strangely silent over these older versions. His own version is briefer and, except for the more evolved myth referred to below (p. 314, n. 2), more simple. His use of ādi, ‘and so on,’ seems, however, to hint at a more standard account as known to him.
[2] In the Sutta-Nipāta Commentary this is the country about the River Mahī, north of the Ganges. Āpaṇa means ‘bazaar,’ ‘market.’
[3] This is based on the conviction that they have the genuine intellectual and moral qualities required in a Buddha, and that what they teach is true and its results certain (Ang. Nik., ii 8).
[4] These negative clauses are not in the Sutta-Nipāta narrative.
[5] In the Commentary sujāto is ‘perfect in presence,’ as to height and breadth. On these proportions, see Dialogues, ii. 14-16.
[6] Brahā; the Commentary reads brahmā, excellent – i.e., in proportions.
[7] Pariyatti-dhammo, the Path(Dhamma) in its literary form, or formulated doctrines (Commentary).
[8] I omit from the text the glosses ‘thus Sela said,’ etc., which hamper the Pali metre.
[9] Ang. Nik., i. 28. Anu, in anuvatteti, anujāto, is intended to express conformity, likeness, and not so much succession in time. Cf. the latter term in Iti-vuttaka (trans. Sayings of Buddha), Ī 74, where it is applied to children whose lives resemble those of their parents. In becoming an Ariya, says the Commentary, Sāriputta became of like birth or caste (jāti) with the Tathāgata. Sāriputta did not live to succeed the Lord(Buddha) as leader.
[10] I.e., of greed, hate and illusion (Commentary).
[11] Lit., ‘one of dark descent,’ paraphrased as nīcajāto.
[12] Paccakkho is the paraphrase of sandiṭṭhiko; akāliko – lit., ‘not-time-ish’ – is explained as where fruition is to be won immediately after [each] path, without interval of time. The Sutta-Nipāta Commentary explains in practically identical terms.
[13] This legendary feature is not in the Suita-Nipāta story.
[14] Nāgas. On this term, see Udāvi’s saying(gatha) (CCXLVII.).
Sách điển từ Online – Thời Phật tại thế Tâm Học 2022 : một cuốn sách dạng webs , sưu tầm các tài liệu về Cuộc đời Đức Phật , câu chuyện tại thế và tiền kiếp. Ngoài ra sách còn tra cứu những người và cuộc đời của người đó cùng thời Phật tại thế
Hits: 31