I. Giới thiệu chung

Trưởng lão Kimbila ( kimila) – vị hoàng thân dòng Sakya xuất gia chung với Tôn giả Ānanda

Từ https://www.palikanon.com/english/pali_names/ku/kimbila.htm

A Sākiyan of Kapilavatthu. He was converted with Bhaddiya and four other Sākyan nobles at Anupiyā, shortly after the Buddha’s visit to Kapilavatthu (Vin.ii.182; DhA.i.112f). The Theragāthā Commentary says (ThagA.i.235f; Thag.118, 155f, According to DhA.i.117, Kimbila became an arahant soon after ordination together with Bhagu; see also J.i.140 and AA.i.108) that while at Anupiyā the Buddha, in order to arouse Kimbila, conjured up a beautiful woman in her prime and then showed her to him passing into old age. Greatly agitated, Kimbila sought the Buddha, heard the Doctrine and, having entered the Order, in due course won arahantship. Kimbila seems to have maintained throughout his early friendship with Anuruddha, dwelling with him and Nandiya, now in this wood or park, now in that. The Buddha visited them at Pācīna-vamsadāya when he was going away, disgusted with the recalcitrant monks of Kosambī. (Vin.i.350; J.iii.489; see also Upakkilesa Sutta, M.iii.155ff and ThagA.i.275f). They were in the Gosingasālavana when the Buddha preached to them the Cūla-Gosinga Sutta, at the conclusion of which, Dīgha Parajana Yakkha sang the praises of all three (M.i.205ff). Their number was increased by the presence of Bhagu, Kundadhāna, Revata and Ananda, on the occasion when the Buddha preached the Nalakapāna Sutta in the Palāsavana at Nalakapāna (M.i.462ff).

In three different places in the Anguttara Nikāya (A.iii.247; 339; iv.84) record is made of a conversation between Kimbila and the Buddha, when Kimbila asks how the Dhamma could be made to endure long after the Buddha’s death and what were the causes which might bring about its early disappearance. The conversation took place in the Veluvana (Niceluvana?) in Kimbilā. According to the Anguttara Commentary (AA.ii.642), however, it would appear that the Kimbila mentioned here was not Kimbila the Sākyan but another. We are told that this Kimbila was a setthiputta of Kimbilā. He joined the Order and acquired the power of knowing his previous births. He recollected how he had been a monk at the time when Kassapa Buddha’s religion was falling into decay, and seeing how the Faith was neglected by its followers, he made a stairway up a cliff and lived there as a recluse. It was this memory of his previous life which prompted Kimbila’s question.

Elsewhere (S.v.322f ) the Buddha is reported as questioning Kimbila at the same spot on the question of breathing. Kimbila remains silent though the question is put three times. Ananda intervenes and suggests that the Buddha should himself furnish the answer so that the monks may learn it and profit thereby.

In the time of Kakusandha Buddha, Kimbila had been a householder; after the Buddha’s death he erected a pavilion of salala-garlands round his cetiya (ThagA.i.235). He is probably to be identified with Salalamandapiya Thera of the Apadāna (Ap.i.333).

The Dhammapada Commentary (DhA.i.115; iv.126) mentions a story which shows how delicately nurtured Kimbila was. One day, in a discussion with his friends, Anuruddha and Bhaddiya, as to where rice came from, Kimbila remarked that it came from the granary (kotthe).

Một Sākiyan của Kapilavatthu. Ngài đã được cải đạo cùng với Bhaddiya và bốn quý tộc Sākyan khác tại Anupiyā, ngay sau chuyến viếng thăm của Đức Phật đến Kapilavatthu (Vin.ii.182; DhA.i.112f). Chú giải Theragāthā cho biết (ThagA.i.235f; Thag.118, 155f, Theo DhA.i.117, Kimbila đã trở thành một vị A la hán ngay sau khi xuất gia cùng với Bhagu; xem thêm Ji140 và AA.i.108) rằng khi ở Anupiyā Đức Phật, để khơi dậy Kimbila, đã gợi ý cho một người phụ nữ xinh đẹp đang trong thời kỳ hoàng kim và sau đó đưa cô ấy cho ngài xem khi đã bước vào tuổi già. Vô cùng kích động, Kimbila đã tìm kiếm Đức Phật, nghe Giáo lý và, khi đã nhập hàng, tất nhiên đã đạt được quả vị A la hán. Kimbila dường như đã duy trì trong suốt tình bạn thuở ban đầu của mình với Anuruddha, sống với anh và Nandiya, bây giờ trong khu rừng này hoặc công viên, bây giờ ở trong đó. Đức Phật đến thăm họ tại Pācīna-vamsadāya khi Ngài đi xa, ông chán ghét những tu sĩ ngoan cố của Kosambī. (Vin.i.350; J.iii.489; xem thêm Upakkilesa Sutta, M.iii.155ff và ThagA.i.275f). Họ ở trong Gosingasālavana khi Đức Phật thuyết giảng cho họ bài Kinh Cūla-Gosinga, ở phần kết của bài kinh này, Dīgha Parajana Yakkha đã hát ca ngợi cả ba vị (Mi205ff). Số lượng của họ tăng lên nhờ sự hiện diện của Bhagu, Kundadhāna, Revata và Ananda, vào dịp Đức Phật thuyết giảng Kinh Nalakapāna trong Palāsavana tại Nalakapāna (Mi462ff). Dīgha Parajana Yakkha hát ca ngợi cả ba vị (Mi205ff). Số lượng của họ tăng lên nhờ sự hiện diện của Bhagu, Kundadhāna, Revata và Ananda, vào dịp Đức Phật thuyết giảng Kinh Nalakapāna trong Palāsavana tại Nalakapāna (Mi462ff). Dīgha Parajana Yakkha hát ca ngợi cả ba vị (Mi205ff). Số lượng của họ tăng lên nhờ sự hiện diện của Bhagu, Kundadhāna, Revata và Ananda, vào dịp Đức Phật thuyết giảng Kinh Nalakapāna trong Palāsavana tại Nalakapāna (Mi462ff).

Ở ba nơi khác nhau trong ghi chép Anguttara Nikāya (A.iii.247; 339; iv.84) được tạo ra về một cuộc trò chuyện giữa Kimbila và Đức Phật, khi Kimbila hỏi làm thế nào Giáo pháp có thể được thực hiện để tồn tại lâu sau khi Đức Phật nhập diệt và những nguyên nhân nào có thể dẫn đến sự biến mất sớm của nó. Cuộc trò chuyện diễn ra tại Veluvana (Niceluvana?) Ở Kimbilā. Tuy nhiên, theo Bình luận Anguttara (AA.ii.642), có vẻ như Kimbila được đề cập ở đây không phải là Kimbila người Sākyan mà là một vị khác. Chúng tôi được biết rằng Kimbila này là một nơi định cư của Kimbilā. Anh ta gia nhập Dòng và có được sức mạnh biết được những lần sinh trước của mình. Anh ta nhớ lại mình đã từng là một nhà sư như thế nào vào thời điểm tôn giáo của Đức Phật Kassapa đang suy tàn, và thấy Đức tin bị các tín đồ bỏ quên như thế nào, ông đã làm một cầu thang lên một vách đá và sống ở đó như một người ẩn dật. Chính ký ức về kiếp trước của anh ấy đã gợi lên câu hỏi của Kimbila.

Ở nơi khác (Sv322f), Đức Phật được cho là đang chất vấn Kimbila tại cùng một điểm về câu hỏi về hơi thở. Kimbila vẫn im lặng dù câu hỏi được đưa ra ba lần. Ananda can thiệp và gợi ý rằng chính Đức Phật nên cung cấp câu trả lời để các tu sĩ có thể tìm hiểu nó và thu lợi từ đó.

Vào thời của Đức Phật Kakusandha, Kimbila đã từng là một gia chủ; sau khi Đức Phật nhập diệt, ông đã dựng một gian hàng gồm các vòng hoa salala xung quanh cetiya của mình (ThagA.i.235). Ông có lẽ được đồng nhất với Salalamandapiya Thera của Apadāna (Ap.i.333).

Chú giải Kinh Pháp Cú (DhA.i.115; iv.126) đề cập đến một câu chuyện cho thấy Kimbila đã được nuôi dưỡng cẩn thận như thế nào. Một ngày nọ, trong cuộc thảo luận với những người bạn của mình, Anuruddha và Bhaddiya, về nguồn gốc của gạo, Kimbila nhận xét rằng nó đến từ vựa lúa (kotthe).

II. Trưởng lão tăng kệ – Tiểu bộ kinh Nikaya

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh ở Kapilavatthu (Ca-tỳ-la-vệ), trong một gia đình một vị vua dòng họ Thích-ca, tên là Kimbila, ngài hưởng được tài sản rất nhiều. Bậc Ðạo Sư thấy được thiền quán của ngài chín muồi khi ngài ở Anupiya, để khích lệ ngài, Thế Tôn cho hiện lên một nữ nhân rất đẹp trong tuổi trẻ và làm cho ngài thấy nữ nhân ấy từ tuổi trẻ bước qua tuổi già. Kimbila thấy vậy rất xúc động và nói lên bài kệ:

118. Như bị lời trù yếm,

Tuổi già đến áp đảo,

Dung sắc bị đổi khác,

Nhưng cũng dung sắc trước;

Vị ấy như thế nào,

Không có gì thay đổi,

Nhưng ta chớ tự ngã,

Có gì đã đổi khác.

Nghĩ đến lẽ vô thường, ngài cảm thấy dao động mạnh, và đi đến bậc Ðạo Sư, nghe pháp, xuất gia và sau một thời gian, chứng quả A-la-hán. Ngài nhấn mạnh cái nhìn thường hằng trước của ngài đối với sự vật, và nói lại bài kệ, này như nói lên chánh trí của ngài.

III. tipitaka.fandom.com

https://tipitaka.fandom.com/wiki/Thera_1.118:_Kimbila

Chapter I.
 Single Verses

118. Kimbila

Reborn in this Buddha-age at Kapilavatthu in the family of a Sākiyan (king)rāja, and named Kimbila,[1] he inherited immense wealth. The Lord(Buddha) saw the maturity of his insight while staying at Anupiyā, and in order to arouse him, conjured up a beautiful woman in her prime, and showed her to him passing to old age. Then Kimbila greatly shaken uttered this verse:


[118] Abhisatthova nipatati||
Vayo rūpaɱ aññamiva tatheva santaɱ,||
Tasseva sato avippavasato||
Aññasseva sarāmi attānan’ ti.|| ||


[118] As reminded by some power, age over her falls.
Her shape is as another, yet the same.
Now this my self, who never have left myself,
Seems other than the self I recollect.


He thus, considering the fact of impermanence, was yet more strongly agitated, and going to the Lord(Buddha) heard the Path(Dhamma), believed, entered the Monk’s order, and in due course won arahantship(enlightenment). Upon that he emphasized how he had formerly looked on things as permanent by repeating the verse, by that confessing aññā(supreme attainment).


[1] Also spelt (Br.) Kimila and Kimmila. He was converted, with five other young Sākiyan nobles, in the first week of the Buddha’s mission, according to the Vinaya narrative. There the method adopted for his conversion is not given. Kimbila is represented in the Majjhima as maintaining his early friendship with the senior Thera Anuruddha. living with him, and a third, Nandiya (Ps. XXV ), now in this wood or park, now in that (Vinaya Texts, ii. 309, iii. 228; Majjh., i. 205, iii. 155; see also CXXXVIII.). Anupiyā was a town in the Malla republic (Vinaya Texts, iii. 224).


1.12-8 [118] Commentary on the stanza of Kimilatthera

The stanza starting with Abhisatto va nipatati constitutes that of the venerable Thera Kimila. What is the origin? This one also having done devoted deeds of service toward former Buddhas, doing meritorious deeds, in this and that existence, was reborn in a family home at the time of the Blessed One Kakusandha. On having attained the age of intelligence, when the Master entered parinibbāna, he made a reverential offering in the manner (ākāra) of a pandal (maṇḍapa) with garlands of Saḷala flowers in dedication to His relics. On account of that act of merit, he was reborn in the Tāvatiṃsa heaven, and now and then, wandering about his rounds of repeated rebirths among divine and human beings, sprang up in the family of the Sākiyan sovereign in the city of Kapilavatthu, when this uddha arose. His name was Kimila. On having come of age, he lived endowed with the prosperity of wealth. On having seen the thorough maturity of his knowledge, the Master, residing at Anupoya, for the purpose of bringing about his remorse, specially crested a good-looking feminine beauty (itthirūpaṃ), who stood in her first youth, showed her in front of him: later, He made her to be seen gradually as if overcome by such dwindlings as old-age and disease. On having seen her, the yong prince Kimila, in order to make manifest his excessive remorse, spoke a stanza.

118. “As if specially instructed, age

dwindles away; such a beauty (rūpaṃ)

but as this (tath’eva) appears (santaṃ)

to me as another (aññamiva); because of

being thoughtful, I happened to be

mindful (sato) of her even; I consider

as if it is of another (aññassa) even

(eva).

There, abhisatto va means: as if advised and instructed by divine beings thus:– “You go quickly; do not tarry (tiṭṭha). there is such a reading also as “Abhisaṭṭho’va, (as if specially advised);” as if being desired (abhilāsāpito) by someone thus:– “You go nimbly (lahuṃ);” thus, is the  meaning. Nipatati means: falls beyond (atipatati), specially runs (abhidhāvati) does not stay (na tiṭṭhati); moment after moment arrives at dwindling and decay (khayavayaṃ); thus, is the meaning. Vayo means: different distinctive (viseva) stages (avattha) of the Body beginning from young youthfulness (bālyayobbana); here, however, his state of youth (yobbaññaṃ) is meant (adhippetaṃ). Indeed, that state of youth stood near him having become specially fallen (abhipatantaṃ) and dwindled (khiyantaṃ), Rūpaṃ means he speaks of beauty, the prosperity of physique (rūpasampadā). Rūpa, thus, however, is the body, as in such contexts as: “Aṭṭhiñca paṭicca nhāruñca paṭicca maṃsañ ca paṭicca ākāso parivārito rūpaṃ tveva saṅkhaṃgacchati (dependent upon bone, dependent upon veins also and dependent upon flesh as well the space surrounded goes but towards being calculated as physical body)” and so on. Aññamiva tatheva santaṃ means: I am myself but like that, which is similar to this beautiful body (rūpaṃ), and which is currently existing (santaṃ vijjamānaṃ) in that self-same manner; yet it stands near me as if I am some one else (aññaṃviya); thus, is the significance. Some scholars read: “Tadeva santaṃ (even that existing) “also, Tass’eva sato means: to that self-same me who am not another (anaññassa) being mindful. Avippavasato means: of one who is not absent (vippavasanta); indeed, by being absent for a long time, one who is not another also stands near him as if he is another person; this also does not exist here; thus, is the significance. Aññass’eva sarāmi attānaṃ (I consider, closely bear in my memory (upadhāremi) and well understand (sañjānāmi) this my own body as if that of another living being); thsu, is the meaning. When in this manner, he was making himself mindful of the state of impermanence former (daḷhataro) remorse arose. Having become remorseful, he approached the Master, listened to the truth (dhamma), aptly gained pious faith, became a monk, established himself in the development of spiritual insight, and attained Arahantship but before long. Hence, has it been said in the Apadāna.–

“ When Kakusandha who had driven off

His evil deeds (brāhmana) and spent

His sinless life (vusīmati) I

collected garlands of Saḷaka flowers

and made a pandal.

Having become one who had reached the

Tāvatiṃsa heaven, I gained the most

excellent mansion. I outshone other

divine beings: this is the fruitful

result of my meritorious deed.

Whether in the day or at night, I kept

standing as well as walking to and fro,

sheltered (channo) by Saḷala flowers;

this is the fruitful result of my

meritorious deed.

It was in this self-same aeon (kappa)

that I made my rather reverential

offering to Buddha. I do not remember

any evil existence; this is the fruitful

result of my reverential offering to Buddha.

My depravity had been burnt. …

Buddha’s instruction had been carried

out.”

Having, however, attained Arahantship also, the Thera reiterated (paccudāhāsi) that self-same stanza in order to make manifest his mindfulness of impermanence that had formerly risen to himself. On that account, this (stanza) was the exposition (byākarana) of the Arahantship (aññā) of this Thera.

The Commentary on the stanza of the Thera Kimila is complete.

Sách điển từ Online – Thời Phật tại thế Tâm Học 2022 : một cuốn sách dạng webs , sưu tầm các tài liệu về Cuộc đời Đức Phật , câu chuyện tại thế và tiền kiếp. Ngoài ra sách còn tra cứu những người và cuộc đời của người đó cùng thời Phật tại thế

Hits: 49

Post Views: 345