Đây là vị nam cư sĩ được Phật khen ngợi trong kinh tăng chi chương 1 pháp :

4. Trong các vị đệ tử nam cư sĩ … nhiếp phục một hội chúng nhờ Bốn nhiếp pháp, tối thắng là Hatthaka Alavaka.

 

I. 1 câu chuyện về Hatthaka

https://www.rongmotamhon.net/xem-sach_nhung-de-tu-tai-gia_gpgscksm_show.html

Mọi người thường nhầm tưởng rằng công việc của những Tăng Ni là thực hành và giảng dạy Giáo Pháp, trong khi đó, phần việc của các nam nữ cư sĩ là thực tập năm giới và hỗ trợ, chu cấp những gì thiết yếu cho hàng Tăng Ni. Đây là một niềm tin thiếu chính xác và thật sự nguy hiểm. Điều đó đã dẫn đến sự sai lạc về Giáo Pháp ở những quốc gia, mà niềm tin trên được phổ biến và chấp nhận rộng rãi. Mục tiêu của Đức Phật là phát triển một hội chúng đệ tử gồm xuất gia và tại gia, nam cùng với nữ, những người đã được học tập Giáo Pháp tường tận, thực hành Giáo Pháp trọn vẹn cũng như là biết chia sẻ và học hỏi Giáo Pháp lẫn nhau.1 Trong khi Đức Phật ca ngợi Anathapindika (Cấp-Cô-Độc), vì sự bố thí rộng khắp của ông, thì Ngài đã dành riêng lời khen ngợi cao nhất cho Citta của Macchikasanda và Hatthaka của Alavi bởi vì cả hai đều đã khéo léo và không ngừng bố thí một thứ quý giá hơn những thứ vật chất rất nhiều -đó chính là Giáo Pháp.2

Một người đệ tử tại gia xuất sắc khác là Hatthaka của Alavi, con trai của vua xứ Alavi. Hatthaka lần đầu gặp Đức Phật khi ông đang đi dạo trong một buổi tối mùa Đông. Ngạc nhiên khi thấy một người khổ hạnh chỉ khoác trên mình một tấm y mỏng và nằm nghỉ trên nền đất cứng, Hatthaka đã hỏi Phật: “Ngài có thấy hạnh phúc không?”

Đức Phật trả lời, “Này gia chủ, ta hạnh phúc.”

“Nhưng thưa Ngài”, Hatthaka hỏi, “Mặt đất thì cứng và gió thì lạnh, sao Ngài có thể thấy hạnh phúc được?”

Đức Phật hỏi lại ông: “Mặc dù sống trong một căn nhà được khéo lợp, ấm cúng, cùng với một chiếc giường thoải mái và được hai người vợ chăm sóc, có thể nào do tham lam, sân hận, sợ hãi hay tham vọng mà một người đàn ông có thể cảm thấy không vui không?”

“Có”, Hatthaka trả lời, “điều đó là hoàn toàn có thể.”

“Vậy thì” Đức Phật nói, “Ta đã thoát khỏi mọi tham lam, sân hận, sợ hãi và tham vọng, nên cho dù ta ngủ ở đây hay trong một ngôi nhà ấm cúng, ta luôn hạnh phúc, luôn rất hạnh phúc.”8

Hatthaka không nổi tiếng nhiều vì sự hào phóng hay những hiểu biết của ông về Pháp, mà là khả năng thu hút mọi người thích thú Giáo Pháp. Có một lần, ông dẫn năm trăm người, tất cả đều rất tha thiết được thực hành Giáo Pháp, đến để gặp Phật. Khi ấy Phật đã hỏi ông:

“Làm sao con có thể khiến cho nhiều người thích thú với Giáo Pháp như vậy?”

Hatthaka trả lời: “Bạch Thế Tôn, con làm điều đó bằng cách sử dụng bốn nhiếp pháp mà chính Ngài đã dạy con. Khi con biết rằng người này có thể thâu nhiếp nhờ bố thí, thời con thâu nhiếp người ấy với bố thí. Khi con biết rằng người này có thể thâu nhiếp nhờ ái ngữ, thời con thâu nhiếp người ấy với ái ngữ. Khi con biết rằng người đó cần phải thâu nhiếp nhờ lợi hành (làm việc tốt cho họ), thời con thâu nhiếp người ấy với lợi hành và khi con biết rằng người đó có thể thâu nhiếp nhờ đồng sự (đối xử với họ bình đẳng), thời con thâu nhiếp người ấy với đồng sự.”

Rõ ràng khi mọi người tham dự các buổi chia sẻ về Giáo Pháp do Hatthaka tổ chức, họ luôn nhận được sự chào đón nồng nhiệt khiến cho họ cảm thấy được yêu mến và được tôn trọng. Chính vì vậy họ sẽ trở lại và dần quan tâm nhiều hơn đến Giáo Pháp. Đức Phật đã ca ngợi sự khéo léo của Hatthaka:

“Lành thay, Hatthaka, lành thay, đây là cách để thâu nhiếp mọi người.”

Sau khi Hatthaka rời đi, Đức Phật nói với các Thầy: “Hãy thọ trì rằng Hatthaka của Alavi thành tựu được tám phẩm chất vi diệu và tuyệt vời này. Ông ấy có lòng tin, đức hạnh, tận tâm và biết xấu hổ, ông nghe nhiều, hào phóng, có trí tuệ và khiêm tốn.”9

Đức khiêm tốn là nét nổi bật trong tính cách của Hatthaka. Trong khi một số người tự hào về sự giàu có của họ hoặc bị thúc đẩy bởi sự tự đề cao mình trong việc khuyến dụ người khác vào Giáo Pháp, Hatthaka luôn giữ im lặng và không tự phụ. Ông làm tất cả những gì có thể để giúp mọi người thích thú với Giáo Pháp, và điều đó hoàn toàn xuất phát từ lòng quan tâm của ông đến họ, chứ không phải để tạo nên danh tiếng cho bản thân. Vào một dịp khác, khi Hatthaka nghe các Thầy cho biết rằng Đức Phật đã ca ngợi nhiều phẩm chất tốt đẹp của ông, ông nói:

“Con hy vọng rằng không có người cư sĩ nào có mặt lúc Đức Phật khen con.”

Các Thầy đã chắc chắn với ông rằng khi đó không có người cư sĩ nào khác và sau đó, khi các Thầy về thưa lại điều này với Đức Phật, Ngài đã nói:

“Lành thay, lành thay. Thiện nam tử đó thật là một người khiêm tốn. Ông ấy không muốn các thiện pháp của mình được người khác biết đến. Khiêm tốn là một phẩm chất tốt đẹp khác của Hatthaka.”10

Khi Hatthaka mạng chung, ông được tái sinh làm một thiên tử, và vào một đêm, ông đã đến thăm Đức Phật. Đức Phật hỏi liệu ông có hối hận điều gì hay không và thiên tử Hatthaka trả lời:

“Con chết đi và chỉ hối hận vì cảm thấy rằng mình chưa bao giờ được thấy đức Thế Tôn đủ, được nghe Giáo Pháp đủ và được phụng sự cho Giáo Pháp đủ.”11

II. Từ Đại Phật Sử

4.    HATTHAKŒLAVAKA of Uposatha Habit

  • His Past Aspiration

The future HatthakǎÄavaka was reborn into a worthy family in the City of HaÑsǎvatī, during the time of Buddha Padumuttara. On one occasion, when he was listening to the Buddha’s sermon, he saw a lay disciple being named the foremost among those lay

 

 

1434

 

disciples who were accomplished in the practice of the four ways of kind treatment to others2. He emulated that man, and, making an extraordinary offering, he aspired to that distinction. The Buddha prophesied that his aspiration would be fulfilled.

(b) His Last Existence as Prince ΀avaka

The future HatthakǎÄavaka was reborn in the good destinations for the entire one hundred thousand world-cycles. During the time of Buddha Gotama he was reborn as Prince ŒÄavaka, son of King ŒÄavaka, in the city of ŒÄavī.

(In this connection, the background events beginning with the sporting expedition of King ŒÄavaka, to the establishment in the Uposatha precepts of Prince ŒÄavaka, his attainment of anǎgǎmī-phala, and his following of five hundred lay disciples who were established in the Uposatha precept, have been described fully in Chapter 33. The reader is advised to refer to the relevant pages therein.)

(c)   HatthakǎÄavaka being named as The foremost Lay Disciple

One day, HatthakǎÄavaka, the Uposatha-habituate, accompanied by five hundred lay disciples, visited the Buddha. After making obeisance to Him, he sat in a suitable place. When the Buddha saw the big following of very sedate manners that came with HatthakǎÄavaka, He said: ‚ŒÄavaka  you  have a  big following; what sort of  kind treatment do you extend to them?‛ And HatthakǎÄavaka replied: ‚Venerable Sir, (1) I practise charity towards those persons who would be delighted by my act of charity. (2) I use pleasant words to those who would be delighted by pleasant words. (3) I give necessary assistance to those who are in need of such assistance and who would be delighted by my assistance.

(4) I treat those as my equals in respect of those who would be delighted by such treatment.

With reference to that conversation between the Buddha and HatthakǎÄavaka, on one occasion, during the Buddha’s residence at the Jetavana monastery when He was conferring titles to outstanding lay disciples, He declared:

Bhikkhus, among My lay disciples who kindly treat their followers in four ways, HatthakǎÄavaka is the foremost.‛

III. 1 chút về lai lịch tên gọi trong Đại Phật Sử 

Sau khi Đức Phật cảm hóa Dạ Xoa Aavaka

Những câu hỏi khác của Āḷavaka  sau khi chứng đắc Thánh quả Nhập lưu – Sotāpatti

Giờ  đây  Āḷavaka  đã  khắc  nghi  trong  tâm  chữ  Paññā  (Trí  tuệ) trong câu trả lời thứ tư của bài kệ, “paññāya parisujjhati – do trí tuệ người ta thanh lọc các pháp ô nhiễm trong chính mình” được Đức  Phật đọc lên. Dạ xoa (vị ấy đã là bậc thánh Nhập lưu) ước muốn hỏi thêm những câu kệ khác, sự pha trộn các vấn đề khác thuộc thế gian và xuất thế gian, bằng trí thông minh của mình, vị ấy đọc lên sáu dòng kệ sau:

 

Kathaṃ su labhate paññaṃ?

Kathaṃ su vindate dhanaṃ?

Katham su kiṭṭiṃ pappoti?

Katham mittāni ganthati?

Asmā lokā paraṃ lokaṃ kathaṃ pecca na socati?

 

(Bạch Đức Thế Tôn!) Bằng cách nào để đạt được hai loại trí là hiệp thế và siêu thế? Làm thế nào để đạt được hai loại tài sản là hiệp thế và siêu thế? Làm thế nào để đạt được danh tiếng? Làm thế nào để thân cận với bạn bè? Bằng cách nào mà người ta không sầu khổ khi mạng chung từ thế giới này sang thế giới khác?

Qua  câu  kệ  này,  dạ  xoa  Āḷavaka  muốn  hỏi  những  vấn  đề  liên quan đến năm điều sau đây:

  1.   Phương cách để có được trí tuệ.
  2. Phương cách để có được tài sản.
  3. Phương cách để có được danh tiếng.
  4. Phương cách để có được bạn bè.
  5. Phương cách để thoát khỏi sầu khổ trong kiếp sau.

 

Vì muốn giảng cho dạ xoa một cách đúng pháp rằng có bốn pháp giúp thành tựu hai loại trí hiệp thế và siêu thế ( muốn trả lời câu hỏi thứ nhất), Đức Phật tuyên thuyết câu kệ sau:

 

Saddhāno aroahataṃ,

dhammaṃ nibbānapattiyā.

sussūsaṃ labhate paññaṃ,

appamatto vicakkhaṇo.

(Này  Āḷavaka!)  Người  có  niềm  tin  sâu  đậm  trong  mười  việc phước và ba mươi bảy Bồ đề phần là những pháp giúp chứng đắc Niết bàn, do chư Phật Toàn giác, chư Phật Độc giác và Thinh văn A-la-hán giảng dạy; người tôn kính lắng nghe bậc trí, có chánh niệm và nhất tâm, và suy xét tường tận về hai loại lời nói thiện ngữ (subhāsita) và ác ngữ (asubhāsita) thì sẽ có được hai loại trí là hiệp thế và siêu thế.

Qua câu trả lời này, Đức Phật muốn nói rằng:

  1. Đức tin (saddhā)
  2. Sự chú ý (sussūsā)
  3. Chánh niệm (appamāda)
  4. Sự suy xét (vicakkhanā) là những phương tiện để có được trí tuệ.

 

Giải thích: Chư Phật Toàn giác, chư Phật Độc giác và chư Thinh văn Phật chứng ngộ Niết bàn là nhờ mười điều phước đầu tiên và ba mươi bảy pháp Bồ đề phần, được gọi phương tiện dẫn đến Niết bàn. Chỉ người nào có niềm tin sâu sắc (saddhā) mới có thể sở hữu được hai loại trí hiệp thế và siêu thế này.

 

Tuy nhiên, sự sở hữu trí tuệ không thể có được chỉ bằng đức tin. Chỉ khi nào những bậc có đức tin trau dồi (sussūsā) bằng cách đến gần các bậc trí, hầu hạ các Ngài, lắng nghe các Ngài nói pháp, như vậy người ấy mới có thể đạt được hai loại trí tuệ này (tức là niềm tin dẫn đến Niết bàn), người ấy phải đi đến người thầy tế độ (upajjahāya) và làm tròn bổn phận của mình đối với thầy.

Khi vị thầy hài lòng việc làm tròn bổn phận của người đệ tử sẽ giảng dạy. Người đệ tử phải chăm chú lắng nghe. Việc đến gần thầy tế độ, chăm chú lắng nghe lời giảng – tất cả những điều này tạo nên từ sussūsā, cung kính vâng lời. Chỉ người nào có sussūsā mới có thể đạt được trí hiệp thế và siêu thế.

Chỉ khi nào người nghe có đức tin, sự tôn kính và tu tập thêm, appamāda (không dể duôi) và vicakkhaṇā (thẩm xét) về thiện ngữ (subhāsita) và ác ngữ (asubhāsita) người ấy mới có thể đạt được hai loại trí hiệp thế và siêu thế. Người thiếu bốn pháp, saddhā, sussūsā, appamāda và vicakkhaṇā thì không thể.

Xét về sự liên hệ giữa bốn pháp và trí siêu thế, (1) do saddhā người ta đi vào pháp hành dẫn đến trí tuệ, (2) do sussūsā người ấy cung kính lắng nghe pháp dẫn đến trí tuệ, (3) do appamāda người ấy không quên những điều đã học được, (4) do vicakkhaṇā người ấy suy xét sâu xa về những điều đã nghe, đã học khiến cho nó nguyên vẹn, không thay đổi sai lạc, mở rộng kiến thức và trí tuệ của người ấy. Hoặc (2) do sussūsa người ta cung kính dẫn đến trí tuệ, (3) do appamāda người ta ghi nhớ điều đã học khiến nó không bị quên lãng, (4)    do vicakkhaṇā người ta suy gẫm sâu xa điều đã được ghi nhớ trong tâm. Sự thực hành lập đi lập lại bốn điều này giúp người ta giác ngộ ý nghĩa cùng tột của Niết bàn nhờ Đạo quả A-la-hán. Theo cách này, sự tu tập Trí tuệ siêu thế của Đạo và của Quả cần được lưu ý.

Sau khi trả lời câu hỏi đầu tiên như vậy, Đức Thế Tôn trả lời câu hỏi thứ hai, thứ ba và thứ tư Ngài bèn tuyên đọc câu kệ sau:

Patirūpa-kāri dhuravā, uṭṭhātā vindate dhanaṃ

saccena kittiṃ pappoti dadaṃ mittāni ganthāti.

(Này Āḷavaka!) Người thực hiện hai điều này dẫn đến tài sản thế tục lẫn tâm linh phù hợp với nơi chốn và thời gian; người do tinh tấn không từ bỏ phận sự của mình, và cũng như năng động về thể chất, chắc chắn có được hai loại tài sản. (Nửa câu kệ đầu, Đức Phật trả lời rằng hai loại tài sản có thể đạt được qua ba yếu tố: theo pháp hành phù hợp với thời gian và nơi chốn, dẫn đến tài sản, có sự tinh tấn của thân và tâm). Qua lời nói chân thực an lành, người ta có thể đạt đến danh tiếng tốt rằng “Đây là người nói sự thật” (hay) do sự chứng đắc ý nghĩa cùng tột của Niết bàn mà người ta đạt đến danh tiếng, mọi người sẽ nói rằng: ” Người ấy là Đức Phật.” “Người ấy là Phật Độc Giác.” “Người ấy là Thinh văn đệ tử Phật.” (Dòng kệ thứ ba này trả lời cho câu hỏi thứ ba). Người không bỏn xẻn mà toàn tâm toàn ý bố thí đến một người nào đó cái mà người ấy cần thì sẽ tạo được nhiều bạn bè (Qua dòng kệ thứ tư này, câu hỏi thứ tư được trả lời).

Ở đây, phương pháp để đạt đến tài sản trong thế gian qua sự thực hành đúng pháp, sự tinh tấn của tâm và thân có thể được lưu ý từ câu truyện Bổn sanh nổi tiếng – Cūḷa-seṭṭhi Jātaka , kể về một người trở nên giàu có trong vòng bốn tháng bằng cách lấy con chuột chết làm vốn và lợi tức thu được là 200 ngàn.

Nói về sự thành tựu tài sản tinh thần, cần tìm hiểu về câu chuyện của trưởng lão Mahā Tissa.

Giải thích: Vị trưởng lão cao tuổi Mahā Tissa ở Ceylon, nguyện thực hành pháp Đầu đà với ba oai nghi – đi, đứng và ngồi và ngài thực hiện viên mãn. Bất cứ khi nào cảm thấy uể oải thì Ngài nhúng cái nệm bằng rơm trong nước rồi đặt nó trên đầu và lội xuống nước đến ngang cổ để diệt trạng thái hôn trầm (thina-middha) của mình. Sau mười hai năm, Ngài chứng đắc Đạo quả A-la-hán.

Sau khi trả lời bốn câu hỏi đầu tiên như vậy, trong đó những pháp thuộc thế tục và tinh thần dành cho người tại gia và người xuất gia được kể chung. Giờ đây Đức Phật muốn giải đáp câu hỏi thứ năm. Do đó, Ngài đọc lên câu kệ sau:

 Yass’ete caturo dhammā, saddhassa gharaṁ esino.

Saccaṃ dhammo dhīti cāgo, sa ve peccan socati.

 

Người có đức tin và tầm cầu lợi ích cho gia đình, trong người ấy có hiện hữu bốn pháp đó là chân thật (sacca), trí tuệ (dhamma), sự tinh tấn của thân và tâm (dhīti), xả thí (cāga), thật vậy, người này không lo buồn cho sự ra đi của mình sang thế giới bên kia.

Sau khi trả lời câu hỏi thứ năm như vậy, Đức Phật muốn sách tấn dạ xoa Āḷavaka và đọc lên câu kệ rằng:

 

Ingha aññe’pi pucchassu,

puthū samāṇa brāhmaṇe.

Yadi saccā damā cāgā,

khantyā bhiyyo’dha vijjati.

 

(Này dạ xoa Āḷavaka!) Trong thế gian này nếu có đức tánh nào thù thắng hơn sacca (hai loại chân thật) để thành đạt danh tiếng; nếu có đức tánh nào thù thắng hơn dama (tự chế) qua sự thận trọng là một phần của sự vâng lời khôn ngoan để thành đạt trí thế tục và tâm linh; nếu có đức tánh nào thù thắng hơn cāga (xả thí) để kết bạn; nếu có đức tánh nào thù thắng hơn khantī (nhẫn nại) dưới dạng tinh tấn nơi thân và tâm để tạo ra tài sản thuộc thế tục và tâm linh. Nếu có đức tánh nào thù thắng hơn các pháp sacca, dama, cāga, và khantī để loại trừ sầu khổ cho đời sau, hoặc nếu ngươi nghĩ có những đức tánh thù thắng hơn bốn pháp này, để thỏa mãn ngươi nên hỏi những người khác, những vị Sa-môn và Bà-la-môn như Purāna Kassapa, v.v… những kẻ lầm lạc cho rằng họ là những vị Phật Chánh đẳng Chánh giác.

 

Khi Đức Phật đọc xong câu kệ thì dạ xoa Āḷavaka bạch với Đức Thế Tôn bằng câu kệ, nửa câu kệ đầu giải thích rằng vị ấy đã đoạn diệt hoài nghi (do chứng đắc Đạo Tuệ), hoài nghi rằng liệu vị ấy có nên hỏi Purāma Kassapa, v.v… hay không và câu kệ thứ hai giải thích lý do khiến vị ấy không có ý định hỏi:

 

Kathaṃ nu dāmi puccheyyam

puthū samaṇa-brahmaṇe.

Yo’haṃ ajja pajānāmi

yo attho samparāyiko.

 

(Bạch Đức Thế Tôn!) Giờ đây (đệ tử của Ngài tên  Āḷavaka) đã cắt đứt tất cả hoài nghi bằng lưỡi dao của Đạo trí Nhập lưu (sotāpatti- magga-ñāna), tại sao con còn phải hỏi những Sa-môn và Bà-la-môn mà tự cho mình là Đức Phật Toàn Giác (Thực vậy, con không nên hỏi họ vì con đã thoát khỏi phiền não trói buộc của hoài nghi (vicikicchā). Vì Đức Thế Tôn đã khuyến giáo con, con tên Āḷavaka là đệ tử của người, ngày hôm nay đã tự thân biết rõ, tất cả những lời khuyến giáo của Đức Thế Tôn về sự thành tựu trí tuệ, thành tựu tài sản và thành tựu danh tiếng và sự kết bạn, những đức tánh dẫn đến không khổ ưu trong kiếp sau. (Thế nên, con không cần phải hỏi những người khác để được thỏa mãn).

Giờ đây, dạ xoa Āḷavaka đọc lên bài kệ sau đây để cho thấy rằng trí tuệ mà vị ấy đạt được có nguồn gốc từ Đức Phật:

 

Atthāya vata me Buddho

vāsāy’āḷaviṃ āgāmā.

Yo’haṃ ajja pajānāmi,

yattha dinnaṃ Mahāppahalaṃ.

 

Đức Thế Tôn, Đức Phật Toàn Giác do lòng bi mẫn đã đi đến kinh đô Alavi để trải qua suốt mùa an cư để đem lại lợi ích thế tục và tinh thần cùa con. Vật thí với tâm tịnh tín được cúng dường đến Đức Phật Toàn Giác có những phước báu to lớn trong cõi trời, cõi người cho đến Niết bàn. Đức Phật Toàn Giác xứng đáng được thọ lãnh những vật thí quý báu nhất, mà giờ đây con được biết một cách thấu đáo.

Sau khi đã đọc lên câu kệ nói rằng bây giờ vị ấy đã có được phương tiện phát  triển  lợi ích cho  mình.  Āḷavaka lại  đọc lên câu  kệ này để bày tỏ mong ước muốn đem lại lợi ích cho những kẻ khác:

So aham vicrissāmi,

gāmā gāmaṃ purā puraṃ.

Namassamāno sambuddhaṃ,

Dhammassa ca suddhammataṃ.

(Bạch Đức Thế Tôn!) Bậc có hào quang chiếu sáng rực rỡ như mặt trời. Con Āḷavaka,   đệ tử của Ngài (từ hôm nay trở đi vào ngày mà con gặp bậc Đạo sư), thành kính chấp tay đưa lên đầu, sẽ đi từ cõi trời này đến cõi trời khác, từ thành phố chư thiên này đến thành phố chư thiên khác công bố vang khắp về những ân đức của Đức Phật, Chúa tể của ba cõi, và ân đức của Pháp gồm có mười thành phần là bốn Đạo, bốn Quả, Niết bàn và toàn thể Giáo pháp của Ngài, chứa những phương cách thiện xảo để giải thoát khỏi vòng đau khổ (và những ân đức của Tăng , tám hạng Thánh Tăng, những bậc cẩn trọng đi theo pháp hành quý báu của ba pháp học).

Đó là lúc mà bốn biến cố sau đây đồng thời xảy ra:

  1. Kết thúc câu kệ của Āḷavaka.
  2. Trời vừa rạng sáng.
  3. Câu kệ của Āḷavaka được đón nhận bằng sự hoan hô vang dội.
  4.   Những người hầu của vua giao nộp hoàng tử Āḷavaka đến lâu đài của dạ xoa Āḷavaka.

 

Khi những người hầu của đức vua (từ kinh đô Āḷavi) nghe tiếng hoan hô vang rền, họ tự nghĩ rằng: “Tiếng vang như vậy không thể xảy ra với bất cứ nhân vật nào ngoài Đức Phật. Có thể rằng Đức Phật đã đến rồi chăng?” Nhìn thấy ánh hào quang của Đức Phật, họ đi vào lâu đài của dạ xoa không chút sợ hãi. Vào trong lâu đài, họ gặp Đức Phật đang ngồi còn dạ xoa Āḷavaka đang đứng chấp hai tay chấp trong thái độ tôn kính.

 

Sau khi thấy vậy, những người hầu của đức vua mạnh dạn trao hoàng tử cho dạ xoa Āḷavaka nói rằng: ” Thưa đại dạ xoa! Chúng tôi mang  hoàng  tử  Āḷavaka  bé  nhỏ  này để  dâng  nộp  cho  ngài.  Bây giờ ngài  có  thể  ăn  hoàng  tử  nếu  ngài  muốn.”  Vì  dạ  xoa  Āḷavaka  đã  trở thành bậc thánh Nhập lưu rồi nên cảm thấy hổ thẹn.

 

Āḷavaka dịu dàng bồng lấy hoàng tử bé nhỏ rồi dâng hoàng tử đến Đức Phật bạch rằng: “Bạch Đức Thế Tôn! Con xin dâng vị hoàng tử đến Ngài. Con xin bố thí hoàng tử này đến Ngài. Chư Phật hằng nhân từ và bảo vệ chúng sanh vì lợi lạc của họ. Bạch Đức Thế Tôn! Xin Ngài hãy tiếp nhận đứa bé này, vì hạnh phúc và lợi ích cho cậu ấy.” Dạ xoa đọc lên câu kệ này:

Imaṃ kumāraṃ satapuññalakkhaṇaṃ

sabba’ṅgupetaṃ paripuṇṇavyañjanaṃ

Udaggacitto sumano dadāmi te.

paṭiggaha lokahitāya cakkhuma.

Bạch Đức Thế Tôn! Bậc Ngũ nhãn! Phấn chấn và hạnh phúc, con  Āḷavaka  với  tâm  tịnh  tín  xin  dâng  Đức  Thế  Tôn  hoàng  tử Āḷavaka, người có hơn một trăm tướng do bởi những việc phước trong quá khứ, người có đầy đủ tứ chi lớn nhỏ và thân tướng được phát triển. Chư Phật chăm sóc chúng sanh hằng đem lại lợi ích cho họ. Xin Ngài bi mẫn nhận lấy hoàng tử để đem lại lợi ích cho cậu ấy.

Đức Phật đón nhận lấy hoàng tử Āḷavaka. Ngài thọ nhận như vậy để ban phước và sự lợi ích là trường thọ và khỏe mạnh cho dạ xoa và hoàng tử. Đức Phật đọc lên ba câu kệ, mỗi câu bỏ bớt một dòng (để dành cho người khác điền vào). Chỗ trống trong mỗi câu kệ được dạ xoa điền ba lần thành dòng kệ thứ tư để an trú hoàng tử trong Tam Quy. Những câu kệ chưa đầy đủ được đọc lên bởi Đức Phật và được điền vào đầy đủ bởi Dạ xoa như sau:

 

(1)   Đức Phật:  Dīghāyuko hotu ayaṃ kumāro.

tuvañ ca yakkha sukhito bhavāhi.

Avyādhitā lokahitāya tiṭṭhatha

        Yakkha: ayaṃ kumāro saranam upeti Buddhaṃ.

 

(2)      Đức Phật: Dīghāyuko hotu ayaṃ kumāro.

tuvañ ca yakkha sukhito bhavāhi.

Avyādhita lokahitāya tiṭṭhatha.

Yakkha: ayaṃ kumāro saranam upeti Dhammaṁ.

 

(3)  Đức Phật: Dīghāyuko hotu ayaṃ kumāro.

tuvañ ca yakkha sukhito bhavāhi.

Avyādhitā lokahitāya tiṭṭhatha.

Yakkha: ayaṃ kumāro saraṇam upeti Saṅghaṁ.

 

(1)      Đức Phật: Cầu cho hoàng tử Āḷavaka này được sống lâu. Này dạ  xoa  Āḷavaka!  Cầu  cho  ngươi  cũng  được  hạnh phúc cả thân lẫn tâm! Cầu cho cả hai được sống lâu, thoát khỏi chín mươi sáu loại bịnh, vì lợi ích của nhiều người.

Yakkha: Bạch  Đức  Thế  Tôn!  Hoàng  tử  Āḷavaka  xin  quy  y Đức Phật, Thế Tôn, bậc Chánh Biến Tri.

(2)      Đức Phật: Cầu cho hoàng tử Āḷavaka này được sống lâu. Này dạ  xoa  Āḷavaka!  Cầu  cho  ngươi  cũng  được  hạnh phúc cả thân lẫn tâm! Cầu cho cả hai được sống lâu, thoát khỏi chín mươi sáu loại bịnh, vì lợi ích của nhiều người.

  Yakkha: Bạch  Đức  Thế  Tôn!  Hoàng  tử  Āḷavaka  xin  quy  y Pháp gồm mười đặc tính như bốn Đạo, bốn Quả, Niết bàn và toàn bộ Giáo Pháp của Ngài.

(3)      Đức Phật: Cầu cho hoàng tử Āḷavaka này được sống lâu. Này dạ  xoa  Āḷavaka!  Cầu  cho  ngươi  cũng  được  hạnh phúc cả thân lẫn tâm! Cầu cho cả hai được sống lâu, thoát khỏi chín mươi sáu loại bịnh, vì lợi ích của nhiều người.

Yakkha: Bạch Đức Thế Tôn! Hoàng tử Āḷavaka này xin quy y Tăng gồm những bậc thánh Tăng trong ý nghĩa cùng tột (Paramattha Ariya).

 

Rồi Đức Phật trao hoàng tử lại cho các quan và bảo rằng: “Hãy nuôi dưỡng vị hoàng tử này rồi trả vị ấy về với Như Lai.”

Đặt tên hoàng tử Hatthaka Āḷavaka

 

Tên gốc của hoàng tử là Āḷavaka. Như đã trình bày, ngày dạ xoa được nhiếp phục, hoàng tử được chuyển giao từ tay của các vị quan đến tay của dạ xoa, rồi từ tay của dạ xoa đến tay Đức Phật, và từ tay Đức Phật trở về lại tay của các quan. Vì thế, hoàng tử được gọi là Hatthaka  Āḷavaka  (hay  Hatthakā-lavaka  –  Āḷavaka  là  người  được chuyền từ tay người này đến tay người khác).

Khi các quan đem hoàng tử trở về, những người nông dân, thợ rừng và những người khác đều trông thấy, họ rụt rè hỏi: “Thế là thế nào? Không phải dạ xoa không muốn ăn thịt hoàng tử vì hoàng tử quá nhỏ chăng?” Các quan bèn đáp: “Này các bạn! Đừng sợ hãi. Đức Thế Tôn đã làm cho hoàng tử thoát khỏi nguy hiểm rồi,” và kể cho họ  nghe về toàn thể câu chuyện.

Sau đó, toàn thể kinh đô Āḷavi hô vang: “Lành thay! Lành thay!” Dân chúng hướng đến nơi dạ xoa Āḷavaka hô vang dội “Đức Thế Tôn đã tạo ra sự an lành! Đức Thế Tôn đã tạo ra sự an lành!” Đến giờ Đức Phật đi vào thành khất thực, dạ xoa đi theo mang theo y và bát của Đức Phật, được nửa đường thì dừng lại nhìn Đức Phật đi khuất, vị ấy trở về cung điện của mình.

Sách điển từ Online – Thời Phật tại thế Tâm Học 2022 : một cuốn sách dạng webs , sưu tầm các tài liệu về Cuộc đời Đức Phật , câu chuyện tại thế và tiền kiếp. Ngoài ra sách còn tra cứu những người và cuộc đời của người đó cùng thời Phật tại thế

Hits: 93

Post Views: 437