I. Giới thiệu

Là vị ni trưởng được Phật khen ngợi trong kinh tăng chi chương I .

9. Trong các vị nữ đệ tử… có thắng trí mau lẹ, tối thắng là Bhaddà Kundalakesà.

 

II. Từ trưởng lão ni kệ – Tiểu bộ kinh

(XLVI) Bhadda Kundalakess (Therì. 134)

Trong thời đức Phật hiện tại, nàng sanh ra ở Rajagaha (Vương Xá), trong gia đình vị thủ khố của nhà vua, và được tên là Bhaddà. Lớn lên và luôn luôn có người hầu hạ, nàng thấy ngang qua khe cửa, Satthuka, con vị giáo sĩ của vua, một kẻ cướp bị dẫn đi hành hình, theo lệnh của vua. Nàng bỗng yêu Satthuka và nằm trên giường nàng nói: ‘Nếu ta không được chàng, ta sẽ chết’. Người cha vì thương nàng, nên hối lộ cho những người lính và đưa Satthuka đến gặp nàng. Satthuka khởi lòng tham đồ trang sức của nàng nên nói với nàng là khi bị dẫn đến ‘hòn núi của kẻ trộm’, chàng có phát nguyện: Nếu chàng được tha, chàng sẽ làm lễ cúng tạ ơn và nhờ nàng sửa soạn lễ tạ. Muốn được chàng bằng lòng, nàng vâng theo ý muốn của Satthuka, tự trang điểm với các đồ trang sức, lên xe đi với chàng và cùng đi đến ‘hòn núi của kẻ trộm’ Satthuka không cho người hầu hạ đi theo, lấy đồ trang sức cúng dường, và leo lên núi một mình với nàng, nhưng không nói lời thân ái với nàng. Do thái độ của chàng, nàng tìm ra được mưu kế của chàng. Rồi Satthuka bảo nàng cởi áo ngoài ra, dùng áo gói đồ trang sức nàng đang mang theo, Nàng hỏi chàng nàng có làm điều gì sái quấy chăng, và chàng trả lời: ‘Nàng thật ngu si ta đến đây có phải để làm lễ cúng dường đâu! Ta chỉ đến đây để lấy đồ trang sức của nàng’. Nàng nói: ‘Này chàng thân yêu, các đồ trang sức này của ai, và đồ trang sức nào thuộc của em’. Chàng nói: ‘Ta không biết gì về sự phân chia này’. Nàng nói: ‘Thôi được, chàng thân yêu, nhưng chàng cho em một sở nguyện, cho em mang đồ trang sức và được hôn chàng! Satthuka bằng lòng và nàng ôm hôn chàng đàng trước, rồi ôm chàng hôn đàng sau, và trong khi ấy xô chàng ngã xuống vực núi. Một Thiên nhân ở trên núi, thấy nàng làm vậy liền khen rằng:

Không phải là lúc nào,

Ðàn ông cũng khôn hơn!

Nữ nhân khi lanh lẹ,

Cũng tỏ khôn ngoan hơn,

Không phải là lúc nào,

Ðàn ông cũng khôn hơn!

Nữ nhân cũng khôn ngoan,

Chỉ nghĩ một phút giây!

Rồi Bhaddà suy nghĩ: ‘Nay ta không thể về nhà được khi sự việc đã xảy ra như vậy. Vậy từ đây ta sẽ xuất gia’. Rồi nàng xuất gia theo phái Ni-kiền Tử. Họ hỏi nàng: ‘Nàng ưng xuất gia đến mức độ nào?’ Nàng trả lời: ‘Tôi muốn xuất gia vào hạng tối thượng!’ Rồi họ nhổ tóc của nàng và khi tóc nàng dài và quăn lại, nàng được gọi là Bhaddà tóc quăn. Nhưng trong khi nàng tập sự học hỏi giáo lý của phái Ni-kiền Tử, nàng biết rằng giáo lý ấy không có gì đặc biệt. Nàng từ giã chúng Ni-kiền Tử, tìm học những bậc minh sư có danh tiếng và cuối cùng không ai có thể tranh luận với nàng. Nàng vun lên một đống cát gần cửa đi vào làng, trồng lên một nhánh cây diêm phù, bảo mấy đứa con nít xem ai nhổ lên nhánh cây ấy. Sau một tuần không có ai nhổ lên cành cây, nàng liền đem cành cây ấy đi một nơi khác.

Thế Tôn trong khi đi thuyết giảng, đến tinh xá Jetavana gần Sàvatthi, đúng lúc Bhaddà tóc quăn trồng nhánh cây ấy tại cửa thành Sàvatthi. Tôn giả Sàriputta vào thành, thấy cành cây ấy, muốn nhiếp phục nàng, bảo các đứa con nít dẫm lên cành cây ấy, để mở đầu cuộc tranh luận, nàng nghĩ rằng cuộc tranh luận sẽ không có kết quả nếu không có quần chúng đỡ đầu. Vì vậy nàng quy tụ một số đông quần chúng đến chứng kiến cuộc tranh luận giữa nàng và Tôn giả Sàriputta. Trước hết Tôn giả Sàriputta để cho nàng hỏi và Tôn giả trả lời, cho đến khi nàng không còn gì để hỏi nữa và ngồi im lặng.

Rồi Tôn giả hỏi nàng: ‘Thế nào gọi là một?’ Nàng Bhaddà tóc quăn thú nhận không thể trả lời được. Tôn giả nói, một chút như vậy mà nàng không trả lời được, thì nàng có thể biết thêm được gì? Rồi Tôn giả giáo giới cho nàng và nàng xin quy y Tôn giả.Tôn giả Sàriputta khuyên nên quy y Thế Tôn, bậc Ðạo Sư loài Người và Trời. Nàng vâng lời, chiều lại đi đến yết kiến Thế Tôn khi ngài đang thuyết pháp. Sau khi đảnh lễ nàng đứng một bên, Thế Tôn thấy căn cơ nàng đã thuần thục liền nói:

Dầu nói ngàn câu kệ,

Nhưng không chút lợi ích,

Tốt hơn nói một câu,

Nghe xong được tịnh lạc.

(Pháp cú 101)

Khi đức Phật nói xong bài kệ này, nàng chứng được quả A-la-hán với pháp tín thọ, nghĩa tín thọ.

Nàng xuất gia, thọ giới với quả A-la-hán và chính đức Phật trao đại giới cho nàng. Rồi nàng đi đến tinh xá Tỷ-kheo-ni, sống an lạc hạnh phúc. Nàng sung sướng phấn khởi nói lên những bài kệ:

107. Trước ta sống một y,

Tóc cạo, thân mang bùn,

Không lỗi xem có lỗi,

Có lỗi xem là không.

108. Ban ngày rời tinh xá,

Trên ngọn núi Linh Thứu,

Ta thấy Phật vô uế,

Dẫn đầu chúng Tỷ-kheo.

109. Quỳ gối ta đảnh lễ,

Ðối diện ta chắp tay,

Hãy đến này Bhaddà,

Ta được thọ đại giới.

110. Ta đi khắp Angà,

Mogadhà, Vajjì,

Quốc độ Kosala,

Mười lăm năm không nợ,

Ăn đồ ăn quốc độ.

111. Làm được nhiều công đức,

Tín nam này có tuệ,

Cho Bhaddà chiếc y,

Thoát khỏi mọi triền phược.

 

 

III. Thông tin tiếng Anh

https://www.ancient-buddhist-texts.net/English-Texts/Foremost-Elder-Nuns/09-Kundalakesa.htm

009 Kundalakesa, Wat Pho by Anandajoti Bhikkhu

Introduction to the Story about the Elder Nun Kuṇḍalakesā

Kundalakesa
Elder Nun Kuṇḍalakesā’s Story
at Wat Pho, Bangkok

Bhaddā Kuṇḍalakesā’s story is one of the longer ones, showing a very capable and confident young woman. She began her career in the normal way under Buddha Padumuttara, and was also one of the seven sisters born to King Kiki.

In her last life she was reborn in a merchant’s family on the same day her future husband was born, though the signs accompanying his birth were very inauspicious, and they nearly had him put to death there and then.

The boy however grew up in safety, but from an early age was a kleptomaniac, stealing whatever he could get his hands on, no matter how many times his parents scolded him and tried to guide him rightly, and eventually, as he had no further talent, his Father gave him the means to become a professional thief, and left him to his fate.

The young man eventually broke into nearly every house in the city, and when the King found out, he gave the Mayor only one day to find the person responsible or die himself. The Mayor caught the thief, and when he was brought before the King he was sentenced to death.

For reasons not properly explained in the story here, when Bhaddā saw him on his way to execution, she fell in love, and begged for his release, which her Father organised. He was brought back to the house to be her partner. Even then his passion for theft couldn’t be assuaged, and he planned to kill Bhaddā and take her ornaments.

Bhaddā, however, turned out to be quick in wits and disposed of him before he disposed of her. Not able to return home after his death she renounced and became a Jaina nun. We notice here that nuns of other sects had their own hermitages and must have been a common sight in ancient India; these hermitages are mentioned again in the following story.
She excelled in debate and toured the country challenging others to debate with her, and finally came to Sāvatthī. There she met with Ven. Sāriputta who easily defeated her and asked her to meet with the Buddha. She went as asked, and the Buddha taught her in one verse, at the conclusion of which she attained Liberation, and went forth again in the nuns’ Community.

It was because of this display of her quick and ready wit that she was placed in foremost position amongst those who were quick in deep knowledge. Her male counterpart was Ven. Bāhiya Dārucīriya. 

9. The Story about the Elder Nun Kuṇḍalakesā

right click to download mp3

AN 1.5.9
Text:

Etad-aggaṁ bhikkhave mama sāvikānaṁ bhikkhunīnaṁ
khippābhiññānaṁ, yad-idaṁ Kuṇḍalakesā. 

This is the foremost of my nun disciples, monastics, amongst those
who are quick in deep knowledge, that is to say, Kuṇḍalakesā.

AA 1.5.9
The Commentarial Story:

In the ninth story, “Amongst those who are quick in deep knowledge,” it shows why the Elder Nun Bhaddā Kuṇḍalakesā, amongst those who were quick in deep knowledge, was said to be foremost.

Her Aspiration and Good Deeds

At the time of the Buddha Padumuttara she was reborn in a good family home in Haṁsavatī. She listened to the Teacher talk about Dhamma, and saw the Teacher place a certain nun as being foremost amongst those who are quick in deep knowledge, did a great deed and aspired for that position herself.

Various Good Deeds

She was reborn amongst gods and humans only for one hundred thousand aeons.

In the time of the Buddha Kassapa, in the home of Kiki, the King of Kāsi, she was one of seven sisters. She established the ten precepts for twenty-thousand years and lived as a celibate, and made a dwelling place for the Community.

She was then reborn amongst gods and humans only during one period when there was no Buddha.

Her Last Life

When this Gotama Buddha arose she was conceived in a merchant’s family in the city of Rājagaha, and they gave her the name Bhaddā, Auspicious.

That very day in the city the King’s chaplain’s son was born. From the moment of his birth, beginning with King Bimbisāra’s residence, and throughout the whole city weapons blazed forth.

In the morning the chaplain went to the King’s family and asked if the King had slept comfortably. The King said: “How can I sleep comfortably today, Teacher, when all night we saw the weapons in the King’s residence blazing forth and we have become fearful?”

“Great King, do not worry for this reason, not only in your home did weapons blaze forth, it was so throughout the whole city.”

“What is the reason, Teacher?”

“In our home was born a child under the thieves’ star, he will become an enemy to the whole city, this is the portent concerning him, there is no danger for you, but if you wish, let us bear him off.”

“There being no intention to harm us, there is no need to bear him off.”

The chaplain, thinking: ‘My son has come bearing his own name,’ named him Sattuka, Little Enemy.

Bhaddā grew up in the merchant’s home, and Sattuka grew up in the chaplain’s home.

From the time he was able to play by running around here and there whatever he saw in any place he had wandered to, he took all of it away, and filled up his Mother and Father’s home with it.

His Father, although giving him a thousand reasons, was not able to restrain him.

Later, as he reached maturity, understanding it was an impossibility to restrain him in any way, he gave him a pair of blue robes, and put into his hands all the requisites for housebreaking and a grapple, and sent him off, saying: “You can make a living through doing this work.”

From that day forward, after throwing his grapple, ascending residences of good families, making a breach, and taking the goods that other families had stored there, as if he had put them there himself, he departed. There was not a home in the whole city that was not plundered by him.

One day as the King was travelling about the city in his chariot, he asked his charioteer: “Why is it that there appears to be a breach in every house in this city?”

“God-King, in this city there is a thief named Sattuka who, having broken through the wall, carries off the property of the good families.”

The King summoned the Mayor, and said: “It seems that in this city there is such and such a thief, why have you not grabbed him?”

“We, God-King, are not able to find the thief together with the stolen property.”

“If today you capture the thief you can live; but if you do not capture him, I will issue a Royal command.” 

“Yes, God-King,” and the Mayor sent men all over the city, and after Sattuka had broken through a wall, and was making off with others’ goods, they captured him together with the stolen property and brought him to the King.

The King said: “Take this thief out through the south gate and execute him!”

The Mayor gave his assent to the King, and having that thief flogged with a thousand strokes at each of the crossroads, he went out  by the southern gate. 

Her Marriage

At that time the merchant’s daughter Bhaddā, after opening the window because of the uproar of the populace, while looking around, saw the thief Sattuka being brought out, and holding her two hands over her heart, went and lay down on the couch with her head held low.

She was the family’s only daughter and her relatives were not able to endure even a trifling contortion of her face.

Then her Mother, seeing her lying on the couch, asked: “What are you doing, Dear?”

“Do you see this thief they have prepared and brought out to be executed?”

“Yes, Lady, we do see him.”

“If I get him I will live, but if I don’t get him there is surely death for me.”

They, being unable to convince her in any way, considered: “Life is better than death.”

Then her Father went into the Mayor’s presence, and gave him a thousand in a bribe, saying: “My daughter is infatuated with this thief, please free him through some means or other.”

He, saying: “Very well,” assenting to the merchant, grabbed the thief, and delayed at the funeral bier until the sun was setting. Then, as the sun set, he drove a certain man from the prison, and loosening Sattuka’s bonds, he sent Sattuka to the merchant’s home. Having the other man bound with Sattuka’s bonds, he drove him through the southern door and had him executed.

The merchant’s servants grabbed Sattuka and took him to the merchant’s residence.

Seeing him, the merchant, thinking: “I will fulfil my daughter’s desire,” had Sattuka bathed in scented water, adorned with all decorations, and sent him to the mansion.

Bhaddā, thinking: “My desire is fulfilled,” decorated herself with innumerable decorations and amused herself with him.

Sattuka, after a few days had passed, thought: “Her decorative articles will be mine, but by what means is it fitting to grab her ornaments?”

At a time they were sitting comfortably together, he said to Bhaddā: “There is a word of mine I would like to speak.”

The merchant’s daughter, like one who had received a thousand coins, with a satisfied mind, said: “Speak freely, Noble Sir.”

“You thought: ‘His life was saved because of me,’ but when they grabbed me on the mountain from where they throw down thieves I prayed to the god living there, imploring: ‘If I receive my life, I will make an offering to you.’ Because of that my life was saved, quickly get an offering ready.”

Bhaddā, thinking: ‘I will fulfil his desire,’ prepared the offering, decorated herself with all decorations, mounted a vehicle with her husband, and went to the mountain from where they throw down thieves, began to ascend, thinking: ‘I will make an offering to the god of the mountain.’

Sattuka thought: ‘With all of us ascending I will not be able to grab her ornaments,’ so after having her take the offering-vessel, he ascended the mountain. 

But while speaking with Bhaddā he spoke no endearing words, and from his gestures she understood his intention.

Then he said to her: “Bhaddā, cast off your robe, and make a bundle here of all the ornaments heaped up on you.”

“Husband, what is my fault?”

“Why, fool, do you think I have come to make offerings?” he said, making a sign.

“Having torn the liver out of that god I could give an offering in this place, but I have come desiring your ornaments.”

“Noble Sir, but whose are the ornaments, and whose am I?”

“We do not know of such a thing, as your property is one thing, and my property is another.”

“Very well, Noble Sir, but let me fulfil one wish, let me give you in all your finery a hug from in front and from behind.”

Saying: “Very well,” he accepted.

Understanding his acceptance, she hugged him from the front, made like she was hugging him from behind, and threw him from the mountain from where they throw down thieves.

He fell through the air and was crushed to pieces.

Seeing the wondrous nature of her deed, the goddess who dwelt on the mountain spoke this verse expounding her virtue:

“Not on every occasion is it a man that is wise,
a women is wise also, she is wise now and then.

Not on every occasion is it a man that is wise,
a women is wise also, if she but think for a moment.”

Her First Ordination and Teaching

Then Bhaddā thought: ‘Because of this I am not able to return again to my home. I will go from here and go forth in some going forth or other,’ and she went to the Nigaṇṭha’s monastery and requested to go forth amongst the Nigaṇṭhas.

Then they said this to her: “What manner of going forth?”

She said: “Please give your supreme going forth.”

Saying, “Very well,” they pulled out her hair with the shell of a palm nut and gave her the going forth. 

But her hair grew back in ringlets and wavy curls, and because of that, the name Kuṇḍalakesā, Curly Hair, arose.

She learned all the skills in the place of her going forth, and knowing: ‘There is no further distinction beyond this,’  wandering from village to town to capital city, wherever there were learned men, she went there and learned all the arts they knew.

And in many places, because she was so learned no one was able to give a reply to her.

Then not seeing anyone who was able to dispute with her, in whatever village or town she entered, she piled up sand at the gate, and set up a branch of a rose-apple tree right there, saying: “Whoever is able to refute my word, he should trample down this branch,” and she informed the children standing nearby.

No one trampled it down even after seven days.

Then taking it, she departed.

Her Conversion and Attainment

At that time our Fortunate One had been reborn in the world and was living in Jeta’s Wood at Sāvatthī.

Then Kuṇḍalakesā, after gradually reaching Sāvatthī, and entering the city in the same way as before, set her branch in the sand, informed the children and left.

At that time Ven. Sāriputta, the General of the Dhamma, after the Community of monks had already entered the city, saw the Rose-Apple branch in the sand heap while entering the town alone, and asked: “Why is this placed here?”

The children, without omitting anything, told him the reason.

“That being so, take it and trample on it, children.”

They listened to the Elder’s word but some didn’t dare to trample on it, while some others, after trampling on it in an instant, crushed it to powder.

Kuṇḍalakesā, while leaving after taking her meal, saw the branch trampled down and asked: “Who did this deed?”

Then they told her the General of the Dhamma had caused it to be done.

She thought: ‘He must be knowing his own strength else he wouldn’t dare to have had the branch trampled down, he must surely be a great man! But I am insignificant in comparison, and I will not shine, and yet thinking: ‘After entering the village, it is right to inform the people,’ that is what she did.

It should be understood that all eighty thousand families residing in that city in their various neighbourhoods were informed.

The Elder, after the meal duties, sat down at the root of a certain tree. Then Kuṇḍalakesā, surrounded by the populace, went into the presence of the Elder, exchanged greetings and stood on one side.

She asked: “Reverend Sir, did you have the branch trampled down?”

“Yes, I had it trampled down.”

“That being so, reverend Sir, let there be a discussion on our doctrine, together with yours.”

“Let it be so, Bhaddā.”

“But who should ask, and who should answer?”

“Our questions are ready, you can ask according to your understanding.”

Consent having been given by the Elder she asked everything according to the doctrine she understood, and the Elder answered it all, and having asked everything, she fell silent.

Then the Elder said to her: “You asked many things, but we will ask only one question.”

“Ask away, reverend Sir.”

“What is said to be one?”

Kuṇḍalakesā said: “I don’t know, reverend Sir.”

“If you don’t know even that much, how will you know anything else?”

She fell at the Elder’s feet right there and said: “I go to you for refuge, reverend Sir.”

“There is no coming to me for refuge, the Greatest Person in the world with its gods dwells in a monastery nearby, go to Him for refuge.”

She said: “I will do so, reverend Sir.”

In the evening time, at the time the Teacher was teaching Dhamma, she went into the presence of the Teacher, worshipped with the fivefold prostration and stood at one side.

The Teacher, by way of subjugating her volitional processes, spoke this verse found in the Dhammapada:

“Even though one possesses a thousand lines from verses which are unbeneficial, they are surpassed by one line of verse, which, having heard, one is calmed.”

At the conclusion of the verse, just as she was standing there, after attaining Liberation together with the analytic knowledges, she asked for the going forth.

The Teacher agreed to her going forth, and she went to the nunnery and went forth.

Later this discussion arose in the midst of the four assemblies:  “Great is this Bhaddā Kuṇḍalakesā, in that she attained Liberation at the end of just four lines of verse!”

For this reason the Teacher, as the occasion had arisen, placed this Elder Nun in the foremost position amongst those who were quick in deep knowledge.

 

b) Phần do google dịch

Giới thiệu Câu chuyện về Ni trưởng Kuṇḍalakesā

Kundalakesa
Câu chuyện của Ni trưởng Kuṇḍalakesā
tại Wat Pho, Bangkok

Câu chuyện của Bhaddā Kuṇḍalakesā là một trong những câu chuyện dài hơn, cho thấy một phụ nữ trẻ rất đảm đang và tự tin. Cô bắt đầu sự nghiệp của mình theo cách bình thường dưới thời Đức Phật Padumuttara, và cũng là một trong bảy chị em sinh ra của Vua Kiki.

Trong kiếp cuối cùng, cô được tái sinh trong một gia đình thương gia vào đúng ngày chồng tương lai của cô được sinh ra, mặc dù những dấu hiệu đi kèm với sự ra đời của anh ta là rất xấu, và họ gần như khiến anh ta chết ở đó và sau đó.

Cậu bé tuy lớn lên trong sự an toàn, nhưng ngay từ nhỏ đã là một kẻ ăn cắp vặt, ăn trộm bất cứ thứ gì có được, bất kể cha mẹ cậu đã mắng mỏ bao nhiêu lần và cố gắng hướng dẫn cậu đúng, và cuối cùng, cậu không còn nữa. tài năng, Cha của anh đã cho anh ta phương tiện để trở thành một tên trộm chuyên nghiệp, và phó mặc anh ta cho số phận của mình.

Người đàn ông trẻ tuổi cuối cùng đã đột nhập vào gần như mọi ngôi nhà trong thành phố, và khi nhà vua phát hiện ra, anh ta chỉ cho Thị trưởng một ngày để tìm ra kẻ chịu trách nhiệm hoặc tự chết. Thị trưởng đã bắt được tên trộm, và khi hắn bị đưa ra trước mặt Nhà vua, hắn đã bị kết án tử hình.

Vì những lý do không được giải thích đúng trong câu chuyện ở đây, khi Bhaddā nhìn thấy anh ta trên đường đi hành quyết, cô đã yêu và cầu xin sự thả anh ta, và cha cô đã tổ chức. Anh được đưa về nhà làm đối tác của cô. Ngay cả khi đó niềm đam mê trộm cắp của anh ta vẫn không thể nguôi ngoai, và anh ta đã lên kế hoạch giết Bhaddā và lấy đồ trang trí của cô.

Bhaddā, tuy nhiên, hóa ra rất nhanh trí và xử lý anh ta trước khi anh ta loại bỏ cô. Không thể trở về nhà sau khi ông qua đời, cô đã từ bỏ và trở thành một nữ tu Jaina. Chúng ta nhận thấy ở đây rằng các nữ tu của các giáo phái khác đã có những ẩn thất riêng của họ và hẳn là một cảnh tượng phổ biến ở Ấn Độ cổ đại; những ẩn thất này được đề cập lại trong câu chuyện sau đây.
Cô ấy xuất sắc trong việc tranh luận và đi tham quan khắp đất nước thách thức những người khác tranh luận với cô ấy, và cuối cùng cô ấy đã đến Sāvatthī. Ở đó cô đã gặp Ven. Sāriputta người đã dễ dàng đánh bại cô và yêu cầu cô đến gặp Đức Phật. Cô ấy đã đi như được hỏi, và Đức Phật đã dạy cô ấy trong một bài kệ, khi kết thúc bài kệ đó, cô ấy đã đạt được Giải thoát, và lại tiếp tục trở lại trong Cộng đồng các ni cô.

Chính vì sự thông minh nhanh nhạy và sẵn sàng này của cô ấy mà cô ấy được xếp vào vị trí quan trọng nhất trong số những người có kiến ​​thức sâu rộng nhanh chóng. Đối tác nam của cô là Ven. Bāhiya Dārucīriya.

9. Câu chuyện về Ni trưởng Kuṇḍalakesā

nhấp chuột phải để tải mp3

AN 1.5.9
Văn bản:

Etad-aggaṁ bilitieshave mama sāvikānaṁ b
munhunīnaṁ khippābhiññānaṁ, yad-idaṁ Kuṇḍalakesā.

Đây là điều quan trọng nhất của các đệ tử nữ tu của tôi, những người xuất gia, trong số những
người nhanh chóng hiểu biết sâu rộng, đó là Kuṇḍalakesā.

AA 1.5.9
Câu chuyện bình luận:

Trong câu chuyện thứ chín, “Trong số những người hiểu biết sâu rộng”, nó cho thấy lý do tại sao Trưởng lão Ni sư Bhaddā Kuṇḍalakesā, trong số những người hiểu biết sâu rộng, được cho là quan trọng nhất.

Khát vọng và hành động tốt của cô ấy

Vào thời Đức Phật Padumuttara, bà tái sinh trong một gia đình tốt ở Haṁsavatī. Cô ấy nghe Sư phụ nói về Giáo pháp, và thấy Sư phụ coi một nữ tu sĩ nào đó là bậc nhất trong số những người có kiến ​​thức sâu rộng, đã làm một việc lớn và tự mình khao khát vị trí đó.

Nhiều việc làm tốt

Cô ấy được tái sinh giữa các vị thần và con người chỉ với một trăm nghìn aeon.

Vào thời Đức Phật Kassapa, tại quê hương của Kiki, Vua của Kāsi, cô là một trong bảy chị em gái. Cô ấy đã thiết lập mười giới luật trong hai mươi nghìn năm và sống như một người độc thân, và tạo ra một nơi ở cho Cộng đồng.

Sau đó, cô được tái sinh giữa các vị thần và con người chỉ trong một thời kỳ không có Đức Phật.

Cuộc sống cuối cùng của cô ấy

Khi Đức Phật Gotama này xuất hiện, cô được thụ thai trong một gia đình thương nhân ở thành phố Rājagaha, và họ đặt cho cô cái tên Bhaddā, Auspicious.

Ngay ngày hôm đó tại thành phố, con trai của vị tuyên úy của Nhà vua được sinh ra. Ngay từ khi sinh ra, bắt đầu từ nơi ở của Vua Bimbisāra, và vũ khí khắp thành phố rực sáng.

Vào buổi sáng, vị tuyên úy đến gia đình nhà vua và hỏi xem nhà vua đã ngủ thoải mái chưa. Vua nói: “Làm sao con có thể ngủ thoải mái hôm nay, thưa Thầy, khi suốt đêm, chúng con thấy vũ khí trong dinh Vua rực cháy và chúng con trở nên sợ hãi?”

“Đại vương, đừng lo lắng vì lý do này, vũ khí không chỉ trong nhà của ngài bùng cháy, mà còn khắp thành phố.”

“Lý do là gì, thưa thầy?”

“Trong nhà của chúng ta sinh ra một đứa trẻ dưới ngôi sao của bọn trộm, nó sẽ trở thành kẻ thù của toàn thành phố, đây là người đứng đầu liên quan đến nó, không có nguy hiểm cho bạn, nhưng nếu bạn muốn, hãy để chúng tôi mang nó đi.”

“Không có ý định làm hại chúng ta, không cần phải chịu hắn.”

Vị tuyên úy, nghĩ: ‘Con trai tôi đã đến mang tên của chính nó,’ đặt tên cho nó là Sattuka, Kẻ thù nhỏ bé.

Bhaddā lớn lên trong nhà của một thương gia, và Sattuka lớn lên trong nhà của tuyên úy.

Từ lúc nó có thể chơi bời chạy đi chạy lại đây đó bất cứ thứ gì nó nhìn thấy ở bất cứ nơi nào nó lang thang đến, nó đều mang đi và chất đầy nhà của Cha Mẹ nó với nó.

Cha anh, mặc dù cho anh cả ngàn lý do, nhưng không thể kiềm chế anh.

Sau đó, khi anh ta trưởng thành, hiểu rằng không thể kiềm chế anh ta bằng bất kỳ cách nào, anh ta đã đưa cho anh ta một chiếc áo choàng màu xanh lam, đưa vào tay anh ta tất cả những thứ cần thiết để làm nhà và vật lộn, rồi đuổi anh ta đi, nói: ” Bạn có thể kiếm sống nhờ làm công việc này ”.

Kể từ ngày đó trở đi, sau khi ném vật lộn của mình, đi lên nơi ở của những gia đình tốt, vi phạm, và lấy những thứ mà các gia đình khác đã cất giữ ở đó, như thể chính anh ta đã đặt chúng ở đó, anh ta rời đi. Cả thành phố không có một ngôi nhà nào không bị hắn cướp đoạt.

Một ngày nọ, khi Nhà vua đi du lịch quanh thành phố trên cỗ xe của mình, ông đã hỏi người đánh xe của mình: “Tại sao mọi ngôi nhà trong thành phố này dường như có sự vi phạm?”

“Lạy Chúa-Vua, trong thành phố này có một tên trộm tên là Sattuka, kẻ đã xuyên thủng bức tường, lấy đi tài sản của những gia đình tốt.”

Vua triệu Thị trưởng và nói: “Hình như trong thành phố này có một tên trộm như vậy và như vậy, tại sao ngài không tóm lấy hắn?”

“Chúng tôi, God-King, không thể tìm ra tên trộm cùng với tài sản bị đánh cắp.”

“Nếu hôm nay bạn bắt được tên trộm, bạn có thể sống; nhưng nếu các người không bắt được anh ta, tôi sẽ ban hành lệnh của Hoàng gia ”.

“Vâng, Chúa-Vua,” và Thị trưởng cử người đi khắp thành phố, và sau khi Sattuka xuyên thủng một bức tường, và đang làm đồ đạc với những người khác, họ đã bắt anh ta cùng với tài sản bị đánh cắp và đưa anh ta đến với Nhà vua. .

Vua nói: “Hãy đưa tên trộm này ra qua cổng phía nam và xử tử hắn!”

Thị trưởng đã đồng ý với Nhà vua, và khi tên trộm đó đánh hàng nghìn nhát dao ở mỗi ngã tư, anh ta đã đi ra ngoài.bởi cổng phía nam.

Cuộc hôn nhân của cô ấy

Lúc đó, con gái của thương gia Bhaddā, sau khi mở cửa sổ vì sự náo động của dân chúng, trong khi nhìn xung quanh, thấy tên trộm Sattuka được đưa ra, cô ấy ôm hai tay vào lòng, đi đến và nằm xuống ghế dài với cô ấy. đầu cúi thấp.

Cô là con gái duy nhất của gia đình và những người thân của cô không thể chịu đựng được dù chỉ là một sự biến dạng nhỏ trên khuôn mặt của cô.

Sau đó, Mẹ của cô ấy, nhìn thấy cô ấy nằm trên ghế dài, hỏi: “Con đang làm gì vậy, con yêu?”

“Bạn có thấy tên trộm này mà họ đã chuẩn bị và mang ra để hành quyết không?”

“Vâng, thưa phu nhân, chúng tôi có nhìn thấy anh ấy.”

“Nếu tôi có được anh ta, tôi sẽ sống, nhưng nếu tôi không có được anh ta, chắc chắn cái chết đối với tôi.”

Họ, không thể thuyết phục cô ấy theo bất kỳ cách nào, cho rằng: “Sống còn hơn chết”.

Sau đó, Cha của cô ấy đến trước mặt Thị trưởng và đưa cho ông ta một nghìn đô hối lộ, nói: “Con gái tôi say mê tên trộm này, xin hãy giải thoát cho anh ta bằng cách nào đó.”

Anh ta nói: “Rất tốt,” đồng ý với người lái buôn, tóm lấy tên trộm, và trì hoãn ở thùng tang lễ cho đến khi mặt trời lặn. Sau đó, khi mặt trời lặn, anh ta đuổi một người đàn ông nào đó khỏi nhà tù, và nới lỏng mối ràng buộc của Sattuka, anh ta gửi Sattuka đến nhà của thương gia. Để người đàn ông kia ràng buộc với mối quan hệ của Sattuka, anh ta đã đuổi anh ta qua cánh cửa phía nam và xử tử anh ta.

Những người hầu của thương nhân đã tóm lấy Sattuka và đưa anh đến nơi ở của thương gia.

Nhìn thấy anh ta, người thương gia, nghĩ: “Tôi sẽ thực hiện ước muốn của con gái mình,” Sattuka tắm trong nước thơm, trang trí bằng tất cả các đồ trang trí, và gửi anh ta đến biệt thự.

Bhaddā, nghĩ: “Ước muốn của mình đã được hoàn thành,” tự trang trí cho mình vô số đồ trang trí và thích thú với anh ấy.

Sattuka, sau vài ngày trôi qua, nghĩ: “Đồ trang trí của cô ấy sẽ là của tôi, nhưng lấy đồ trang trí của cô ấy bằng phương tiện gì thì có phù hợp không?”

Tại thời điểm họ đang ngồi thoải mái với nhau, anh ta nói với Bhaddā: “Có một lời của tôi, tôi muốn nói.”

Con gái của người lái buôn, giống như người đã nhận được một nghìn đồng tiền, với tâm trí hài lòng, nói: “Hãy thoải mái nói, thưa ngài.”

“Bạn đã nghĩ: ‘Mạng sống của anh ấy được cứu vì tôi,’ nhưng khi họ tóm lấy tôi trên núi từ nơi họ ném xuống những tên trộm, tôi đã cầu nguyện với vị thần sống ở đó, cầu xin: ‘Nếu tôi nhận được mạng sống của tôi, tôi sẽ làm của lễ. cho bạn. ‘ Vì lẽ đó mà tính mạng của ta đã được cứu, hãy nhanh chóng chuẩn bị lễ vật đi. ”

Bhaddā, nghĩ: ‘Mình sẽ đáp ứng mong muốn của anh ấy,’ chuẩn bị lễ vật, trang trí cho mình mọi đồ trang trí, lên xe với chồng, và đi lên núi từ nơi họ ném xuống những tên trộm, bắt đầu đi lên và nghĩ: ‘Mình sẽ cúng dường thần núi. ‘

Sattuka nghĩ: ‘Với tất cả chúng ta, tôi sẽ không thể lấy đồ trang sức của cô ấy,’ vì vậy sau khi để cô ấy lấy bình cúng dường, anh ấy đã lên núi.

Nhưng trong khi nói chuyện với Bhaddā, anh ta không nói những lời đáng mến, và từ cử chỉ của anh ta, cô hiểu ý định của anh ta.

Sau đó, anh ta nói với cô ấy: “Bhaddā, bỏ áo choàng của bạn và làm một bó ở đây tất cả các đồ trang trí chất thành đống trên người bạn.”

“Chồng, lỗi của tôi là gì?”

“Tại sao, đồ ngốc, bạn nghĩ tôi đến để cúng dường sao?” anh ta nói, ra dấu.

“Bị xé nát lá gan của vị thần đó, tôi có thể dâng lễ vật ở nơi này, nhưng tôi lại ham muốn đồ trang sức của anh.”

“Thưa ngài cao quý, nhưng đồ trang trí là của ai, và tôi là ai?”

“Chúng tôi không biết về một điều như vậy, vì tài sản của bạn là một thứ, và tài sản của tôi là một thứ khác.”

“Rất tốt, thưa ngài quý tộc, nhưng hãy để tôi thực hiện một điều ước, hãy để tôi cho ngài một cái ôm từ phía trước và phía sau.”

Anh ấy đã nhận lời: “Rất tốt.

Hiểu được sự chấp nhận của anh, cô ôm anh từ phía trước, giống như đang ôm anh từ phía sau, và ném anh từ trên núi xuống từ nơi họ ném xuống những tên trộm.

Anh ta rơi trong không khí và bị nghiền nát thành từng mảnh.

Nhìn thấy bản chất kỳ diệu của công việc của mình, nữ thần sống trên núi đã nói câu này để bày tỏ đức hạnh của mình:

“Không phải cứ đến dịp là đàn ông khôn,
đàn bà cũng khôn, nay khôn thì thôi.

Không phải cứ đến dịp nào là đàn ông khôn,
đàn bà cũng khôn, nếu cô ấy suy nghĩ thoáng một chút ”.

Lần thụ phong đầu tiên và giảng dạy của cô ấy

Sau đó Bhaddā nghĩ: ‘Vì điều này mà tôi không thể trở về nhà của mình một lần nữa. Tôi sẽ đi từ đây và đi tiếp theo cách này hay cách khác, ‘và cô ấy đến tu viện của Nigaṇṭha và yêu cầu được đi ra giữa các Nigaha.

Sau đó, họ nói điều này với cô ấy: “Cách nào để đi ra?”

Cô ấy nói: “Xin hãy cho tối cao của bạn đi ra ngoài.”

Họ nói: “Tốt lắm”, họ nhổ tóc bằng vỏ hạt cọ và vuốt tóc cho cô ấy.

Nhưng mái tóc của cô ấy mọc trở lại thành vòng tròn và những lọn tóc xoăn gợn sóng, và vì thế, cái tên Kuṇḍalakesā, Tóc xoăn, đã xuất hiện.

Cô ấy đã học được tất cả các kỹ năng ở nơi mà cô ấy sẽ học, và biết rằng: ‘Không có sự khác biệt nào ngoài điều này,’lang thang từ làng này sang thị trấn khác đến thành phố thủ đô, hễ gặp những người đàn ông uyên bác là cô đến đó và học tất cả những môn nghệ thuật mà họ biết.

Và ở nhiều nơi, vì cô ấy quá uyên bác nên không ai có thể hồi âm cho cô ấy.

Bấy giờ, không thấy ai tranh chấp với mình, vào làng xã nào, trấn nào, bà chất đống cát trước cổng, cắm cành hồng táo ngay đó mà nói: “Ai mà chê được. lời của tôi, anh ta nên giẫm nát cành cây này, ”và cô nói với những đứa trẻ đứng gần đó.

Không ai giẫm nát nó ngay cả sau bảy ngày.

Sau đó, nhận lấy nó, cô ấy khởi hành.

Sự chuyển đổi và đạt được của cô ấy

Vào thời điểm đó, Đấng may mắn của chúng ta đã tái sinh trên thế giới và đang sống trong Rừng Jeta tại Sāvatthī.

Sau đó Kuṇḍalakesā, sau khi dần dần đến được Sāvatthī, và vào thành phố theo cách như trước, cô đặt nhánh của mình trên cát, thông báo cho lũ trẻ và rời đi.

Lúc đó Ven. Sāriputta, Tướng quân của Giáo pháp, sau khi Cộng đoàn Tỳ kheo đã vào thành phố, nhìn thấy cành Hồng Táo trên đống cát khi một mình vào thị trấn, bèn hỏi: “Tại sao cái này lại được đặt ở đây?”

Những đứa trẻ, không bỏ sót điều gì, đã nói cho anh biết lý do.

“Đó là như vậy, hãy nắm lấy nó và giẫm đạp lên nó, các con.”

Bọn họ nghe lời của Đại trưởng lão nhưng một số không dám giẫm lên, trong khi một số khác sau khi giẫm lên liền nghiền nát thành bột.

Kuṇḍalakesā, trong khi rời đi sau khi dùng bữa, nhìn thấy cành cây bị giẫm nát và hỏi: “Ai đã làm việc này?”

Sau đó, họ nói với cô rằng Tướng quân của Giáo pháp đã gây ra việc đó.

Nàng nghĩ: ‘Hắn nhất định phải biết tự lượng sức mình, khác nào không dám để cành cây giẫm xuống, hắn nhất định phải là đại nhân! Nhưng ta so với ta không đáng kể, ta cũng sẽ không tỏa sáng, vậy mà nghĩ: ‘Sau khi vào thôn, phải thông báo cho thiên hạ, đó là những gì nàng đã làm.

Cần phải hiểu rằng tất cả tám mươi nghìn gia đình cư trú tại thành phố đó trong các khu vực lân cận khác nhau của họ đã được thông báo.

Anh Cả, sau khi làm nhiệm vụ bữa ăn, ngồi xuống gốc cây nọ. Sau đó Kuṇḍalakesā, được bao quanh bởi dân chúng, đi đến trước mặt Trưởng lão, chào hỏi và đứng ở một bên.

Cô ấy hỏi: “Thưa Đức Cha, Ngài có bị giẫm phải cành cây không?”

“Vâng, tôi đã giẫm nát nó.”

“Đó là vậy, kính thưa Ngài, hãy để có một cuộc thảo luận về học thuyết của chúng tôi, cùng với của Ngài.”

“Hãy để nó như vậy, Bhaddā.”

“Nhưng ai nên hỏi, và ai nên trả lời?”

“Các câu hỏi của chúng tôi đã sẵn sàng, bạn có thể hỏi theo sự hiểu biết của mình.”

Được sự đồng ý của Trưởng lão, cô hỏi mọi thứ theo giáo lý mà cô hiểu, và Trưởng lão đã trả lời tất cả, và sau khi hỏi tất cả mọi thứ, cô im lặng.

Sau đó, Trưởng lão nói với cô ấy: “Cô đã hỏi nhiều điều, nhưng chúng tôi sẽ chỉ hỏi một câu hỏi.”

“Hãy hỏi đi, tôn kính thưa Ngài.”

“Cái gì được cho là một?”

Kuṇḍalakesā nói: “Tôi không biết, tôn kính thưa ngài.”

“Nếu bạn không biết thậm chí nhiều như vậy, làm thế nào bạn sẽ biết bất cứ điều gì khác?”

Cô ngã xuống dưới chân của Trưởng lão ngay tại đó và nói: “Tôi đến với ngài để nương tựa, tôn kính Ngài.”

“Không thể đến với ta để nương náu, Người vĩ đại nhất trên thế giới cùng với các vị thần của nó đang ở trong một tu viện gần đó, hãy đến với Ngài để nương náu.”

Cô ấy nói: “Tôi sẽ làm như vậy, tôn kính Ngài.”

Vào buổi tối, lúc Sư phụ đang giảng Pháp, cô ấy đi đến trước mặt Sư phụ, lễ lạy năm lạy và đứng ở một bên.

Vị Thầy, bằng cách điều phục các quá trình hành động của mình, đã nói câu này trong Kinh Pháp Cú:

“Mặc dù người ta sở hữu hàng nghìn dòng từ những câu thơ không hề hời hợt, họ vẫn bị vượt qua bởi một dòng của câu thơ, mà khi nghe, người ta đã bình tĩnh lại.”

Ở phần kết của bài kệ, ngay khi cô ấy đang đứng đó, sau khi đạt được Giải thoát cùng với những kiến ​​thức phân tích, cô ấy đã yêu cầu tiếp tục đi.

Sư phụ đồng ý cho cô ấy đi ra ngoài, và cô ấy đi đến ni viện và đi ra ngoài.

Sau đó, cuộc thảo luận này nảy sinh ở giữa bốn cuộc họp:“Tuyệt vời là Bhaddā Kuṇḍalakesā này, ở chỗ cô ấy đã đạt được Giải thoát chỉ sau bốn dòng thơ!”

Vì lý do này mà Sư phụ, khi có cơ hội, đã đặt Ni trưởng Trưởng lão này ở vị trí quan trọng nhất trong số những người hiểu biết sâu rộng nhanh chóng.

Sách điển từ Online – Thời Phật tại thế Tâm Học 2022 : một cuốn sách dạng webs , sưu tầm các tài liệu về Cuộc đời Đức Phật , câu chuyện tại thế và tiền kiếp. Ngoài ra sách còn tra cứu những người và cuộc đời của người đó cùng thời Phật tại thế

Hits: 71

Post Views: 754