Phụ Lục Của Chương 17 – Bài Giải Thích Liên Quan Đến Gotama Buddhavaṃsa

Phụ Lục Của Chương 17 – Bài Giải Thích Liên Quan Đến Gotama Buddhavaṃsa

dai phat su tron bộCuốn sách này trình bày tác phẩm đầu tiên của công trình phiên dịch bộ sách ĐẠI PHẬT SỬ gồm 6 cuốn bằng tiếng Miến ra 8 cuốn bằng tiếng Anh, dựa vào bộ kinh Pãli “Mahā Buddhavamsa”, do Thượng tọa Mingun biên soạn.

Cuốn 1 này là dịch phẩm hoàn chỉnh bằng tiếng Anh kèm theo những chú thích và bình giải xoay quanh câu chuyện Đạo sĩ Sumedha.

Cuốn này chia làm hai phần”

– Phần đầu trình bày soạn phẩm của soạn giả

– Phần hai có nhan đề “The anudipani” hay Phụ chú giải”, gồm những bài giải thich chi tiết và sự liệt kê những điểm giáo lý trong phần đầu.

Tỳ Khưu Minh Huệ biên dịch

Mùa an cư năm 2000

Dưới đây chỉ là nội dung trích ra từ Tập II , III, IV, và 1 phần tập V

Cuộc đời Đức Phật – Đại Phật Sử


PHỤ LỤC CỦA CHƯƠNG 17

Bài giải thích liên quan đến Gotama Buddhavaṃsa

 

Như vậy, chúng tôi đã mô tả tên, họ, dòng tộc, v.v… của hai mươi bốn vị Phật, từ Đức Phật Dīpaṅkara đến Đức Phật Kassapa trong bộ Buddhavaṃsa bằng tiếng Pāḷi và những bộ Chú giải có liên quan theo thứ tự về lịch sử.

Về lịch sử của Đức Phật Gotama (Gotama Buddhavaṃsa) chúng tôi hiện đang bàn đến, chúng tôi đã cố gắng biên soạn nó một cách đầy đủ nhất dựa vào bộ Budhavaṃsa bằng tiếng Pāḷi và Chú giải cũng như những đoạn trích dẫn có liên quan rút ra từ những bộ kinh Pāḷi và những bộ Chú giải khác.

Nói về lịch sử Đức Phật Gotama, độc giả nếu muốn có thể đọc phần nguyên gốc do chính Ngài thuyết ra. Do đó, chúng tôi sẽ diễn nghĩa hai mươi bốn câu kệ ấy.

Theo lời thỉnh cầu của Đại đức Sāriputta, Đức Phật Gotama đã thuyết giảng cặn kẽ phần Buddhavaṃsa liên quan đến hai mươi bốn vị Phật từ Đức Phật Dīpaṅkara đến Đức Phật Kassapa; Ngài đã tưới xuống cơn mưa pháp như dòng sông trên trời đang chảy tràn, rồi tiếp tục thuyết giảng về những sự kiện liên quan đến chính Ngài bằng hai mươi bốn câu kệ khi  Ngài đang đi kinh hành trên con đường châu  báu :

Thắng thời thuyết pháp lần thứ nhất

 

1)     Ahametarahi Sambuddho

Gotamo Sakyavaḍḍhano

padānaṁ padahitvāna

patto Sambodhimuttamaṁ.

Này Sāriputta, Ta, con cháu của dòng tộc Gotama, một dòng tộc đã làm cho hoàng triều Thích ca hưng thịnh, sau sáu năm tinh tấn hành thiền (padhāna) đã chứng đắc Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.

 

2)    Brahmunā yācito santo

Dhammacakkaṁ pavattayiṁ

aṭṭharasannaṁ koṭīnaṁ

paṭṭhamābhisamayo ahu.

Này con, Sāriputta, theo lời thỉnh cầu của Phạm thiên Sahampati vào tuần lễ thứ tám sau khi Ta thành Phật, Ta đã thuyết bài Chuyển pháp luân ở tại khu rừng nai, ở Isipatana, Baranasī. Trong dịp ấy, lần đầu tiên có một trăm tám chục triệu (mười tám koṭi) Phạm thiên, dẫn đầu là Trưởng lão Koṇḍañña, đã giác ngộ Tứ Diệu Đế và chứng đắc giải thoát.

Thắng thời thuyết pháp lần thứ hai

 

3)   Tatho parañca desente

naradevasamāgame

gananāya na vattabbo

dutiyābhisamayo ahu.

 

Này con, Sāriputta, sau thời pháp về bài kinh Dhammacakka, khi Ta thuyết bài pháp về Maṅgala sutta, trong hội chúng gồm nhân loại, chư thiên và Phạm thiên đang tranh luận với nhau về những điều hạnh phúc, thời pháp ấy sẽ là Thắng thời lần thứ hai của vô số nhân loại, chư thiên và Phạm thiên để giác ngộ Tứ Diệu Đế và thành đạt giải thoát.

(Thắng thời thuyết pháp lần thứ hai này sẽ xảy ra sau thời pháp về Buddhavaṁsa. Điều này cũng áp dụng cho những câu kệ sau).

Thắng thời thuyết pháp lần thứ ba

 

4)  Idhevāhaṃ etarahi

ovadiṁ mama atrajaṁ

gananāya na vattabbo

tatiyābhisamayo ahu.

Mười ba năm sau khi Ta thành đạo, Ta sẽ giáo giới đứa con trai của ta là vị tỳ khưu trẻ Rāhula, bằng cách thuyết thời pháp Cula Rahulovada tại khu rừng Andhavana ở Sāvatthi. (Vào lúc ấy cũng vậy), vô số nhân loại, chư thiên và Phạm thiên đến để giác ngộ Tứ diệu đế và thành đạt giải thoát).

Đại hội Thánh Tăng lần thứ nhất (Savaka Sannipāta)

 

5)   Ekosi Sannipāto me

savakānaṁ mahesinaṁ

addhatelasasatānaṁ

bhikkhūnāsi samāgamo.

 

Này con Sāriputta, một đại hội Thánh Tăng lần thứ nhất đã được tổ chức (vào ngày rằm tháng Magha), đó là một cuộc hội họp gồm một ngàn hai trăm vị tỳ khưu A-la-hán đã đoạn tận các lậu hoặc.

(Sự kiện này nói về sự thuyết pháp của Đức Phật về Ovada Pātimokkha – những lời giáo huấn về phận sự của vị tỳ khưu tại đại hội Thánh Tăng, có bốn đặc điểm. Đó là ngày đại đức Sāriputta đắc được đạo quả A-la-hán).

Những lợi lạc do Đức Phật đem lại

6)   Virocamāno vimalo

bhikkhusaṅghassa majjhago

dadāmi pattitaṃ sabbaṁ

manīva sabbakāmado.

Này Sāriputta con, Ta cũng giống như chư Phật quá khứ, đầy đủ các ân đức vô lượng của chư Phật, và thoát khỏi mọi phiền não, chiếu sáng rực rỡ giữa chúng Tăng và như ngọc Cintamaṇi có khả năng làm thành tựu tất cả mọi ước muốn, làm thành tựu mọi ước muốn của nhân loại, chư thiên và Phạm thiên về những hạnh phúc trong thế gian và xuất thế gian.

7) Phalamākaṅkhamānānaṁ

bhavacchanda jahesinaṃ

catusaccaṁ pakāsemi

anukampaya pāṇinaṃ.

Này con Sāriputta, vì lợi ích của nhân loại, chư thiên và Phạm thiên muốn chứng đắc bốn tầng Thánh đạo và đoạn trừ luyến ái đối với dục hữu. Vì lòng bi mẫn, Ta đã thuyết giảng Tứ Diệu Đế (để giúp họ thành tựu ước muốn).

(Đây là bằng chứng về cách mà Đức Phật đem lại lợi ích cho tất cả chúng sanh bằng cách thuyết giảng Tứ Diệu Đế).

8)  Dasavīsasahassānaṁ

Dhammābhisayo ahu

ekaddvinṇam abhisamayo

gananāto asaṅkhiyo.

Này con Sāriputta, (do kết quả của sự thuyết giảng về Tứ Diệu Đế như vậy) những chúng sanh có trí, số lượng từng mười ngàn hoặc hai mươi ngàn, lượt này đến lượt khác, đã được giải thoát số lượng vô số kể.

9)  Vitthārikaṃ bāhujaññaṃ

iddham phītaṃ suphullitaṁ

idha mayhaṁ sakyamunino

Sāsanaṁ suvisodhitaṁ

Này con Sāriputta, Ta – hậu duệ của hoàng tộc Thích ca, đã từ bỏ thế gian để trở thành vị Sa-môn và thuyết pháp, Giáo pháp này, sāsana, sẽ tỏa rộng khắp ba cõi (gồm nhân loại, chư thiên và Phạm thiên) rồi nhiều chúng sanh giác ngộ, Pháp sẽ hưng thịnh vô cùng, thanh tịnh và rực rỡ.

 

10)    Anāsavā vitarāgā

santacittā samāhitā

bhikkhunekāasatā sabbe

parivārenti man sadā.

Này con Sāriputta, Ta luôn luôn được vây quanh bởi đông đảo các vị tỳ khưu đã thoát khỏi các lậu hoặc, đã đoạn diệt tham ái (rāga), với tâm an tịnh có định tâm trong sáng như ngọn đèn dầu cháy sáng vững chắc giữa không trung lặng gió.

11)    Idani ye etarahi

jahanti mānusaṁ bhavaṁ

appattamānasā sekhā

te bhikkhū vinnugarahitā.

 

Này con Sāriputta, trong lúc Ta còn tại tiền, có những vị tỳ khưu đã phải mạng chung với thân phận của những bậc hữu học (sekha) chưa chứng đắc đạo quả A-la-hán. Họ bị các bậc trí chê trách.

 

12) Ariyañjasaṁ thomayantā

sada dhammaratā janā

bujjhissanti satimanto

saṁsārasaritaṁ gatā.

Này con Sāriputta, những người có chánh niệm hằng tán dương những ân đức của Bát Thánh Đạo và vui thích trong pháp cả ngày lẫnđêm, sẽ có thể vượt qua đại dương luân hồi trong vòng một số kiếp nhất định, và thành đạt giải thoát qua sự giác ngộ Tứ Diệu Đế.

Nơi ra đời v.v…

 

13)     Nagaraṁ Kapilavatthu me

Rajā Suddhodano pitā

mayhaṃ janettikā Mātā

Māyādevīti cuccati.

 

Này con Sāriputta, Ta ra đời tại Kapilavatthu, cha là vua Suddhodana và mẹ là hoàng hậu Māyā.

 

14)     Ekunatiṁ savassāni

agāraṁ ajjhahaṁ vasiṁ

rammo surammo subhako

tayo pāsādamuttamā.

Này con Sāriputta, ta đã từng là người cai trị vương quốc Kapilavatthu trọn hai mươi chín năm, sống trong ba cung điện : Rama, cung điện mùa đông với ngọn tháp chín tầng; Suramma, cung diện mùa hè với tháp nhọn có năm tầng; và Subha, cung điện có tháp nhọn bảy tầng dành cho mùa mưa.

15)     Cattarīsasahassāni

nāriyo samalaṅkatā

Bhaddakañcana nāma nāri

Rahulo nāma atrajo.

Này Sāriputta con, suốt thời gian Ta trị vì, thường có bốn chục ngàn cung nữ trang điểm xinh đẹp, chánh hậu là Bhadda Kaccānā và con trai tên là Rahula.

16)    Nimitte caturo disvā

assayānena nikkhamiṁ

chabbassaṃ padhācaraṁ

acariṁ dukkaraṁ ahaṁ.

 

Này Sāriputta con, sau khi trông thấy bốn điềm tướng (một người già, một người bịnh, một người chết và một vị Sa-môn), Ta đã ra đi trên con tuấn mã Kandaka. Tại khu rừng Uruvela xa xôi, Ta đã trải qua sáu năm thực hành các pháp khổ hạnh, sự khổ hạnh ấy vượt ngoài khả năng của những kẻ bình thường.

 

17)     Baranasiyaṁ Isipatane

cakkaṁ pavattinaṁ mayā

ahaṁ Gotamasambuddho

saranaṁ sabbapāṇinaṁ.

Này Sāriputta con, tại Isipatana, khu rừng Migadaya của xứ Baranasi, Ta đã quay bánh xe Pháp (Ta đã thuyết bài kinh Dhamma- cakkapavattana); thật vậy, Ta đã là nơi nương tựa của tất cả chúng sanh, là vị Phật Chánh đẳng Chánh giác với danh hiệu Gotama.

18)     Kolito Upatisso ca

dve bhikkhu aggasāvakā

Anando namupaṭhāko

santikāvacaro mama

Khemā Uppalavaṇṇā ca

bhikkhunī aggasāvikā

 

Này Sāriputta con, hai vị Thượng thủ Thinh văn là Kolita (đại đức Moggallāna) và Upatissa (đại đức Sāriputta). Vị tỳ khưu thị giả luôn luôn ở bên cạnh ta (trên hai mươi năm) để chăm lo mọi nhu cầu của ta là Ānanda. Hai vị nữ Thượng thủ Thinh văn tỳ khưu ni Khema Theri và Upalavanna Theri.

 

19)     Citto hatthāḷavako ca

aggupaṭhākupasaka

Nandamāta ca Uttarā

aggupathākupasika.

 

Này Sāriputta con, hai vị cận sự nam hằng hộ độ cho ta là Citta, một vị trưởng giả trú ngụ ở Macchi-Kasanda của nước Kosala, và Hatthalavaka (đứa con trai rất mộ đạo của vua Alavi, nước Alavi) ; hai cận sự nữ của ta là Nandamata (vị Anāgāmi trú ngụ ở Velukandaka, một thị trấn ở tỉnh Dakkhinagiri của nước Rājagaha) và tín nữ bậc thánh Khujjattara (vị Sotāpanna, người thông thuộc Tam tạng và có danh hiệu Etadagga, sinh ra từ một nữ hầu của trưởng giả Ghosaka  của xứ Kosambi, và khi đến tuổi trưởng thành, trở thành nữ hầu của hoàng hậu Samāvatī).

 

20)     Ahaṁ assatthamulamhi

patto sambodhimuttamaṃ

vyāmappabhā sada mayhaṃ

soḷasanatthamuggatā.

Này Sāriputta con, Ta đã chứng đắc A-la-hán đạo trí và thành đạt Nhất thiết trí ở dưới cội cây bồ đề (cao 100 hắc tay). Hào quang từ thân của Ta (tỏa rộng tám mươi hắc tay) luôn luôn chiếu sáng rực rỡ. Chiều cao của Ta là mười sáu hắc tay.

21) Appam vassasataṃ āyu

Idhānetarahi vijjati

tāvatā titthamānoham

tāremi janataṁ bahuṁ

Này Sāriputta con, thọ mạng hiện tại của loài người rất ngắn, chỉ một trăm năm. Ta sẽ sống bốn phần năm của thọ mạng này (80 năm) và trong suốt 45 năm Ta sẽ cứu độ chúng sanh (thoát khỏi đại dương luân hồi) đưa họ đến bờ bên kia của Niết bàn.

22) Ṭhapayitvāna Dhammukkaṁ

pacchimaṁ janabodhanam’

ahampi nacirasseva

saddhiṁ savakasaṅghato

idheva parinibbissam

aggīvāhārasaṅkhayā.

 

Này Sāriputta con, Ta thắp sáng ngọn đuốc chánh pháp để những thế hệ về sau có thể tri ngộ Tứ Diệu Đế. Vào một ngày không xa, trong hội chúng các đệ tử tỳ khưu, Ta sẽ viên tịch như ngọn đuốc bị diệt tắt vì nhiên liệu đã hết, ở thế gian này tại Kusinara, thả xuống bức màn đóng lại các kiếp sanh hữu.

Hai câu kệ về Saṁvega (Kinh cảm kệ)

23)    Tāni ca atulatejāni

Imāni ca dasabalāni

ayañca gunadhārano deho

dvattiṁ savaralakkhanavicitto.

 

24) Dasa disā pabhāsetvā

sataraṁ siva sappabhā

sabbaṁ tamantarahissanti

nanu rittā sabbasaṅkhārā.

Này Sāriputta con, oai lực vô song của Ta, mười lực và con người của Ta trông rực rỡ kỳ diệu, được tô điểm như ngọn núi vàng bởi ba mươi hai hảo tướng của bậc đại trượng phu cùng với sáu bất cộng trí (asadharana-ñāṇa) và mười loại tâm lực (dasabala-ñāṇa), hào quang sáu màu chiếu ra từ thân Ta và chiếu sáng khắp các hướng như ánh sáng của mặt trời, tất cả đều diệt mất. Đó không phải là tất cả các pháp hữu vi, có mạng sống hoặc không có mạng sống, tất cả đều phù phiếm và không thường tồn, không có hạnh phúc chân thật và thực chất? (Đúng vậy, Ta khuyên các con hay trau dồi pháp thiền quán (vipassanā) quán về ba đặc tướng của các pháp hữu vi và cố gắng để thành đạt Niết bàn. Đó là giáo huấn dành cho tất cả các con, mà chư Phật Chánh đẳng Chánh giác thường khuyên dạy, bằng sự tinh cần, hãy tự mình nỗ lực để thành đạt những lời giáo huấn này).

(Ở đây kết thúc phần trình bày về những biến cố trọng đại như đã được truyền lại trong bộ Buddhavaṃsa, nguyên bản tiếng Pāḷi và bộ Chú giải của nó. Nhưng U Nu, thủ tướng của nước Miến điện, vào lúc yêu cầu tôi viết ra truyện dài về chư Phật, đã nói rằng :

‘Hãy giám sát việc biên soạn chuyên luận về lịch sử của chư Phật. Trong quá trình biên soạn, hãy thâu thập mọi chuyện liên quan đến Đức Phật, đừng bỏ sót bất cứ chi tiết nhỏ nào. Nếu một cuốn không đủ, thì hai cuốn. Nếu hai cuốn không đủ thì làm bốn cuốn, tám cuốn hoặc nhiều hơn. Điều quan trọng là tác phẩm phải đầy đủ rốt ráo.

Xét thấy lời thỉnh cầu đầy thành khẩn của ông ta, chuyên luận về Mahābuddhavaṃsa sẽ không kết thúc ở đây. Quy mô của chuyên luận sẽ được mở rộng để gồm hết những biến cố xảy ra từ lúc Đức Phật thuyết giảng thời pháp về Buddhavaṃsa và bộ sách sẽ có nhan đề là ‘Đại Phật Sử’.

Vì mục đích này, tôi phải cố gắng hết mức để biên soạn những chương về các biến có có ý nghĩa liên quan đến Đức Phật.

 

 

 



Nguồn : Source link vuonhoaphatgiao.com

Sách điển từ Online – Thời Phật tại thế Tâm Học 2022 : một cuốn sách dạng webs , sưu tầm các tài liệu về Cuộc đời Đức Phật , câu chuyện tại thế và tiền kiếp. Ngoài ra sách còn tra cứu những người và cuộc đời của người đó cùng thời Phật tại thế

Hits: 9

Post Views: 786