là ba trí của tâm siêu việt căn trần thức, tự thân an tịnh soi sáng các loại chúng sanh an vui, đau khổ trong ba đường sáu nẻo một cách rõ ràng như thấy trái xoài trong lòng bàn tay. Bồ tát Thích Ca sau khi rời khỏi hoàng cung thành Ca Ty La Vệ tu theo hướng dẫn của các vị thầy Bà la môn, sáu năm khổ hạnh nơi rừng già tham vấn, học đạo, hành đạo cuối cùng vẫn chưa tìm ra con đường giải thoát cho mình và cho toàn thể nhân loại. Nhớ lại thời thơ ấu trong buổi lễ hạ điền dưới đường cày của vua cha có nhiều sinh vật chết, xót thương ngài đến cây trâm cổ thụ, ngồi tham thiền quán niệm hơi thở chứng được sơ thiền ly sanh hỷ lạc…sau đó ngài phát minh lý Trung đạo xuống sông Ni Liên Thiền tắm, xong đi trì bình độ ngọ, năm người bạn cùng tu với ngài cho rằng ngài đã thối chí tu hành khổ hạnh, nên chán nản bỏ đi. Sau đó ngài đến gốc cây bồ đề lấy cỏ làm toà ngồi tham thiền nhập định. Ngài đã tuyên thệ sẽ không rời bỏ nơi này, cho đến khi tìm thấy con đường giải thoát, dù thân có bị hư hoại đi chăng nữa thì vẫn không thay đổi ý định. Sau 49 ngày đêm ròng rã thiền định, cuối cùng ngài chiến thắng được ma vương va diệt trừ tất cả phiền não, chứng được tam minh, thành tựu quả vị Bồ đề chánh đẳng chánh giác, không còn trở lui sanh tử, luân hồi nên cũng gọi là Tam đắc: ba điều chứng đắc của một vị đại thánh giả cao quý đáng được xưng tôn. Chữ Minh Hạnh Túc trong mười danh hiệu Phật, chính là tam minh. Tam minh cũng là ba trong sáu thần thông của Phật. Ba thông còn lại là Thiên nhĩ thông, Tha tâm thông, Thần túc thông. Từ tâm của vị thánh giả chứng đắc tam minh có thể phát triển vô lượng trí tuệ ba la mật thần thông quảng đại.
Đây là quả chứng kỳ diệu của Đức Thế Tôn về trí tuệ siêu thế trên cơ sở thiền định theo con đường Trung đạo, nhận thức thấu đáo các pháp duyên sanh vô ngã, siêu thoát khổ đau sinh tử. Về sau ngài khai thị cụ thể qua Tứ diệu đế, Thập nhị nhân duyên, trong đó Vô minh – Ái và Thủ được lưu ý như là nguyên nhân chủ yếu của ngã chấp rơi vào ảo kiến phát sinh phiền não kiết sử.
Vậy người muốn chứng đắc tam minh phát triển thần thông Như Lai lực vô sở uý như Phật phải làm sao? Trong Kinh Kandara, Trung bộ tập 2, Đại tạng kinh Việt Nam, Đức Phật dạy du sĩ Kandara con trai người huấn luyện voi noi tiếng tại Campa, trên bờ hồ Gaggara cùng với đại chúng Tỳ kheo thiền quán về tứ niệm xứ: Thân, Thọ, Tâm, Pháp, nhiệt tâm tỉnh giác để nhiếp phục tham ưu ở đời, thành tựu giới uẩn, đoạn trừ năm triền cái tham dục, san hận, hôn trầm dã dượi, trạo cử và thùy miên, kinh qua tứ thiền với tiến trình chuyển hoá tâm lý. Từ thiền thứ tư với tâm định tĩnh, thanh tịnh, trong sáng, không cấu nhiễm, không phiền não, nhu nhuyến, dễ sử dụng, vững chắc bất động, như vậy vị ấy hướng tâm đến tam minh. Vị ấy tuệ tri như thật về Tứ diệu đế, diệt sạch các lậu hoặc, giải thoát mọi hệ luỵ khổ đau, vị ấy khởi lên hiểu biết: “Sanh đã tận, phạm hạnh đã thành, việc cần lam đã làm; sau đời hiện tại không còn trở lui cõi đời này nữa”.
Trong Kinh 42 chương, chương 8, có vị Sa môn hỏi Phật: – Kính bạch Đức Thế Tôn, do nhân duyên gì biết được túc mệnh, đến được chỗ chí đạo? Phật dạy: – Lóng sạch tâm mình, giữ vững ý chí thì đến được chỗ chí đạo. Ví như lau gương trừ bụi còn lại ánh sáng. Dứt lòng tham dục, không sự mong cầu thì sẽ biết được túc mệnh.
Rõ ràng muốn biết được túc mệnh phải lóng sạch tâm mình, dưt lòng tham dục. Tức phải thọ trì giới pháp. Giữ được giới pháp phải là người có lý tưởng phát bồ đề tâm hướng thượng, ý chí dõng mãnh thực hành thiền định cho phát sinh trí tuệ vô lậu.
Có người nói, Đức Thế Tôn khi chưa thành tựu chánh đẳng chánh giác, Ngài có đến giới đàn thọ giới đâu, Ngài chỉ tu thiền định vẫn biết được túc mệnh. Ngày nay báo chí đưa tin có một số người vừa sinh ra vừa biết nói đã nhớ lại đời trước! Những người ấy chỉ biết một số đời, không biết được tất cả đời trước của bản thân và tất cả chúng sinh; cái biết ấy cũng không duy trì được suốt đời nếu không tu thiền định. Giới pháp Phật áp dụng cho người loạn tâm tạp nhiễm thiếu chúc định, đức Bồ tát Thích Ca từ khi xuất gia đến thành đạo; tu theo ngoại đạo thiền đến tu thiền theo pháp trung đạo, Ngài phát minh tâm lý luôn chú định, Ngài luôn hướng tâm đến giác ngộ giải thoát khổ đau sinh tư cho bản thân và cho nhân loại chúng sinh, thì thọ trì giới làm chi, giới đàn đâu để thọ!
Người muốn đắc thiền nhãn minh phải làm sao? Trong Kinh 42 chương, chương 15, có vị Sa môn hỏi Phật: – Kính bạch Đức Thế Tôn, những gì rất mạnh, rất sáng? Đức Phật dạy: – Nhẫn nhục là rất mạnh, vì chẳng ôm lòng ác, lại thêm khang kiện; kẻ nhẫn nhục không làm ác, tất được người tôn quý. Tâm cấu diệt hết sạch, không còn vết nhơ, ấy là rất sáng, bao nhiêu sự vật trong mười phương, từ khi chưa có trời đất đến nay, không có vật nào không thấy, không biết.
Trí Phật được ví như vầng hào quang soi chiếu khắp cùng pháp giới vô ngại, việc biết được bản thân ngài và tất cả chúng sinh đến tận cùng mai sau là lẽ đương nhiên. Ngày nay khoa ngoại cảm, văn chương, triết học, chính trị cũng đoán định được ngày mai của thế giới nhân sinh, nhưng không quá một trăm năm, không hiểu biết tường tận từng chúng sinh như Phật. Ngài hiểu rõ mình và mỗi chúng sinh sẽ sinh về nơi đâu, dòng họ nào, tính cách, học thức, đạo đức, sống chết ra sao!
Người muốn đắc thiên nhãn minh nhẫn nhục trong mọi trường hợp cho tâm lý trong sáng mạnh mẽ vươn lên đỉnh cao chân thiện mỹ. Trong Kinh Hoa nghiêm, Phật cũng dạy đệ tử dùng tư tưởng xuất thế gian dung hoá các tư tưởng tốt của thế gian trang nghiêm vũ trụ. Tâm xuất thế gian là tâm không còn vết nhơ, vẫn đuc, thanh khiết, trong sáng như mặt nước hồ thu phản chiếu cảnh vật. Đức Phật từng nhẫn nại chịu đói khát, nắng mưa và tiếng mai mĩa, suy tôn hạ bệ của người đời, không than van oán trách. Ngài luôn giữ vững lập trường tu thân, hành đạo, kết quả cứu độ chúng sinh qua các cách truyền tâm pháp yếu từ kinh nghiệm tự thân không biết mỏi. Theo gương Phật, người muốn đắc thiên nhãn minh phải nhẫn nhục, trì giới, thiền định cho trí tuệ siêu thế phát sáng.
Người muốn đắc lậu tận minh phải làm sao? Trong Kinh 42 chương, chương 16, Đức Phật dạy: Người ôm lòng ái dục chẳng thấy được đạo, ví như nước được lắng trong, lại lấy tay khuấy nó, mọi người cùng đến xem không thay được bóng mình. Người vì ái dục thay nhau không dứt, mà cấu trọc trong tâm nổi dậy, nên chẳng thấy đạo. Sa môn các ông phải dứt bỏ ái dục, cấu trọc. Ái dục hết rồi mới thấy được đạo.
Qua ý văn kinh này, Đức Phật dạy rằng, người muốn thành đạo phải tu thiền định diệt trừ tâm tán loạn và ái dục; khi tâm ái dục hết rồi tâm trí chiếu sáng sẽ đắc được lậu tận minh thấy được đạo.
Cấu trọc: cấu là phiền não, trọc là vẫn đục. Phiền não vẫn đục tâm tính làm cho trí tuệ siêu thế không phát sinh, Phật tánh ẩn tàng, ví như nước ao hồ trong trắng bị người quay đảo cặn cáu nổi lên ngầu đục không phát ra tác dụng chiếu soi cảnh vật.
Qua ý văn kinh này, Đức Phật dạy người muốn có tuệ giác như Phật an lạc tự tại hãy tu thiền định diệt trừ tâm rối loạn vì ái dục từ thô đến tế. Ái dục hết rồi tâm trí sáng tỏ an ổn sẽ đắc lậu tận minh thấy được đạo.
Thiền định do chữ Dhyana, Tàu dịch Thiền na hay Thiền định, nghĩa là chuyên chú tâm vào một chỗ, tức nhập tâm vào đề tài thiền quán, tư duy, tĩnh lự, kiến đế đắc. Thiền định có nhiều loại, trong và ngoài đạo Phật. Nơi đây chỉ nói đạo Phật thiền, gồm có Thiền Nam Tông, Thiền Bắc Tông và Tổ sư Thiền. Thiền Nam Tông dùng Tứ diệu đế, Thập nhị nhân duyên làm pháp tu căn bản, thực hành 37 phẩm trợ đạo rút gọn lại Bát chánh đạo. Thiền Bắc Tông chủ trương phát tâm Bồ đề, hành lục độ vạn hạnh chăm chỉ. Thiền tổ sư truyền ngoài giáo điển, chỉ thẳng tâm người thấy tánh thành Phật. Thiền này nổi tiếng kiến tánh khởi tu là chủ yếu, cũng có nhiều trường hợp khởi tu mới kiến tánh. Bất cứ chủng loại thiền nào của Phật giáo cũng phải có chánh kiến mới đi đến xuất thế gian.
Ái dục: Đức Phật giải thích trong kinh Chuyển pháp luân (Dhammacakkàppa vattana sutta): “Chính ái là nguyên nhân của sự tái sinh. Ái kết hợp với tâm tha thiết, khao khát, bám víu cái này hay cái kia (đời sống). Chính là ái đeo níu theo dục vọng ngũ trần. Ái đeo níu theo sự sinh tồn, sanh ái, luyến ái trong ý tưởng cho rằng vạn vật là trường tồn vĩnh cửu và ái đeo níu theo ý tưởng không sinh tồn, vô sinh ái, luyến ái trong ý tưởng cho rằng sau cái chết là hư vô” (Mahavagga tr. 10, Samyutta Nikàya, quyển V).
Tâm ái dục ví như biển động sóng trào nước xoáy ngầu đục (rối loạn), từ đó chúng sinh bị luân hồi sinh tử. Người thiền định diệt sạch ái dục tâm như biển lặng, nước trong soi chiếu (chánh định), lúc bấy giờ lậu tận minh xuất hiện trong tâm thiền giả.
Tóm lại, người muốn đắc tam minh như Phật, phải có lý tưởng tìm cầu hướng thượng, thọ trì giới pháp thủ hộ các căn, nhẫn nhục, thiền định đúng theo pháp Phật, không thể đi con đường khác mà đắc được tam minh.
III.- Qua trình bày sơ lược tam minh và pháp tu chứng tam minh theo kinh nghiệm tự thân của Đức Thế Tôn và lời truyền thuyết của ngài trong một số kinh điển tiêu biểu, chúng tôi thấy Phật như người đào giếng tìm mạch nước, đắc được tam minh rất khó. Đệ tử đời sau tu hành như người gia công múc nước giếng có sẵn, việc tu chứng tam minh rất dễ. Người chứng đắc tam minh sẽ trở nên vị thánh cao quý siêu thoát tử sanh lợi ích cho đời, cho đạo.
Trích: Nội San CHUYỂN PHÁP LUÂN, 01-2004, GHPGVN.
Ngũ thông là năm thứ thần thông, hành giả tu nơi non cao, rừng vắng, nhập vào đại định chứng đắc được ngũ thần thông và cách nào để có thêm lục thông.
1. Thần túc thông:
Biến hóa nhiều phép thuật linh nghiệm, phi thường bay đi các nơi rất tự đại.
Tai có thể nghe các âm thanh ở các nơi, ở các cảnh giới, không bị trở ngại của ngôn ngữ, giống loài, có thể nghe được mọi âm thanh trên thế gian, hiểu được tiếng muôn loài.
Biết lòng dạ và suy nghĩ tư tưởng của người khác một cách rõ ràng.
Biết mạng đời của chúng sanh, biết các đời trước của chúng sanh, và của luân chuyển ra sao.
Thấy tất cả các cõi giới và các hạng chúng sanh các nơi.
Khả năng làm chủ bản thân tuyệt đối, ý nghĩ được kiểm soát, không còn vọng tưởng (suy nghĩ vẫn vơ), không còn nghi ngờ, không bị nhiễm ô dù trong hoàn cảnh nào, tâm thức tỉnh lặng, xóa bỏ mọi nghiệp chướng (tốt hoặc xấu).
Người đạt Lậu Tận Thông sau khi chết (gọi là Viên Tịch hoặc Tịch Diệt) sẽ không còn luân hồi sinh tử, sẽ ở trong một trạng thái vô cùng trong sáng, thoải mái, mà Phật giáo gọi là Niết bàn.Lậu tận thông là mục đích cuối cùng của bất cứ người xuất gia theo Đạo Phật nào.
Năm thần thông kia (ngũ thông) thì quỷ (tà giáo), thần (người có phép mầu), tiên (người sống lâu), hoặc phàm phu (là chúng ta đây) chỉ cần luyện tập đều có thể đạt được. Còn bậc Thanh Văn, Bích Chi Phật, Phật Như Lai mới có Lậu Tận Thông.
Đắc ngũ thần thông thành bậc tiên cao, tuy nhiên chưa phải là rốt ráo vì chưa cắt tuyệt luyến ái, còn ở trong tam giới – lục đạo, phải đắc thêm Lậu tận thông thì tất cả phiền não hoặc nghiệp đều dứt hết và chứng đắc quả vị hoàn toàn giải thoát và chỉ riêng chư Phật và Bồ Tát bậc A La Hán mới chứng được mà thôi.
Lại có năm loại thần thông của chúng sanh khác nhau : do ba nghiệp thân khẩu ý có sự thông dụng vô ngại, có sức biến hóa một cách tự tại.
1. Đạo thông : Thần thông của đạo pháp, nhờ chứng ngộ lý Thật tướng trung đạo, người ta được thứ thần thông ấy, như sức thần thông vô ngại của hàng Bồ Tát.
2. Thần thông : Thần thông của tâm ý nhờ ngừng vọng tâm, tu thiền định mà được thứ thần thông ấy, như sức thần thông tự tại của A La Hán.
3. Y thông : Thần thông nương theo đồ vật, nhờ nương theo đồ vật như : chất thuốc, đồ ăn, bảo bối, linh phù, thần chú, mà được thứ thần thông ấy, như phép linh biến hóa tự tại của thần tiên hoặc của các đạo nhơn, của các tu sư.
4. Báo thông ( nghiệp thông ) : Thần thông của nghiệp báo, nhờ quả báo của nghiệp lực mà được thứ thần thông đó, như sự biến hóa của chư thiên sự ẩn biến của chư Thần, chư Long.
5. Yêu thông : Thần thông của yêu quái, như chồn già, cây cối lâu năm…. Thành tinh chúng có thuật biến hóa lạ lùng
Đức Phật xưa kia nhờ Thiền định mới đạt quả vị Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, chúng ta ngày nay không thể giỏi hơn Ngài được, vì thế để đạt Lục Thông, không có gì hơn là phải Thiền.
Trên lý thuyết thì có vẻ rất dễ dàng, chỉ cần diệt được Tham(lam), Sân(hận), Si(ngu si) là đủ. Nhưng thực tế thì không hẳn, trước tiên ta phải giảm thiểu cho đến từ bỏ 5 ham muốn phàm phu (Ngũ uẩn hay Năm ấm) là: tài(tiền), dục(tình yêu), danh(địa vị), thực(ăn uống), thuỳ(ngủ). Kết hợp với quán chiếu tính Không của vạn vật: tất cả là vô thường, hư ảo, được hôm nay, mai lại mất, không nên vương vấn, có thì tốt, không có thì thôi, chịu khó làm là có.
Nghĩ được như thế là ta đã dẹp được Tham lam rồi đó, khi Tham diệt thì Sân và Si cũng vơi đi ít nhìều, vì khi lòng Tham không được toại nguyện thì nổi giận (Sân) rồi làm điều thiếu suy nghĩ (Si). Để dẹp bỏ Sân thì trong khi Thiền định phải Quán Từ Bi, trải lòng thương yêu mọi loài chúng sinh, kể cả hữu hình hay vô hình, thế giới này hay thế giới khác.
Trong cuộc sống phải biết nhẫn nhịn, bị người mắng chửi thì nghĩ rằng nhờ mắng mình mà họ bớt căn thẳng, đợi khi họ nguôi ngoai thì kiếm lời khuyên nhủ, đó là hành động của bậc quân tử. Khi gặp người khác phái thì phải xóa bỏ ý nghĩ dâm ô trước, rồi mới trải lòng Từ Bi sau.
Chỉ cần dẹp bỏ Tham và Sân là chúng ta đã sáng suốt lắm rồi, cái Si không còn cơ hội tồn tại nữa. Khi Tham, Sân, Si bị tiêu diệt thì Bản chất, hay Phật tính của ta hiển lộ, Bản chất của chúng ta là: Thần Thông, Từ Bi, Trí Tuệ.
Nên nhớ chỉ cần 1 trong 5 ấm (Ngũ uẩn) trỗi lên thôi là công phu của ta lui sụt tức khắc, vì thế phải biết làm chủ chính mình, đặc biệt là Dục
Lục Thông là thanh tịnh 6 căn trong kinh Phật: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý.
Nguồn : http://nguthong.blogspot.com/2018/03/ngu-thong-va-luc-thong-la-gi-ai-va-lam.html
Khi chứng đắc A La Hán trong đạo Phật sẽ chứng được tam minh và lục thông …
Tam minh là ba khả năng của một vị đã chứng Thánh Quả A La Hán. Sau khi nhập được vào Tứ thiền hoặc đắc được Đệ tứ Thánh quả thì người đó bắt buộc phải trải qua kinh nghiệm tam minh.
• Túc mạng minh: tuệ giác sáng suốt biết rõ các kiếp sống đã qua của mình và của tất cả chúng sinh.
• Thiên nhãn minh: tuệ giác sáng suốt biết rõ các kiếp sống tương lai của mình và của tất cả chúng sinh diễn biến sinh diệt như thế nào.
• Lậu tận minh: tuệ giác sáng suốt nhận biết các pháp đoạn trừ phiền não mê lầm của mình và của tất cả chúng sinh để được an lạc.[1]
Tam minh thường xuất hiện kèm với Lục thông.
Lục Thông nghĩa là Sáu phép thần thông, biểu hiện năng lực trí tuệ của chư Phật, Bồ tát và A-la-hán.
Đối với các bậc A-la-hán khi chứng ngộ cũng chỉ có thể thấu triệt được 360 kiếp quá khứ, 360 kiếp vị lai chứ không phải là bất định. Giới hạn này tương ứng với vòng ứng nghiệp của chư vị Tỳ Kheo trong Ta Bà cõi.
Sách điện từ Online – Phật học Đại cương Tâm Học 2022 . Cuốn sách do Tâm Học soạn lại từ các bài viết, sách sưu tầm được chủ yếu từ mạng Internet ( Phật học Tinh yếu – HT Giới Đức , Nền tảng Phật giáo – Tỳ kheo Hộ Tăng, các bài viết phatgiao.org.vn , giacngo.vn , daophatngaynay.com …) . Tâm Học là trang webs của cá nhân ; không phải chùa hay tổ chức tôn giáo . Nội dung của cuốn sách này chỉ có giá trị tham khảo.
Hits: 706