Bài viết sưu tầm và lắp ghép ở nhiều nguồn , chủ yếu chỉ muốn người đọc có thể hiểu tổng quan về nội dung muốn đề cập đến.

I. Tìm hiểu qua về Thần thông và biến hóa trong Phật giáo

Thần thông và biến hóa trong Phật giáo

Sự biểu hiện cụ thể thần thông Phật giáo là đem sức cảm ứng, đem giáo pháp mà an tâm và tạo niềm tin cho người ta, từ đó người ta vơi đi hay dứt đi cái khổ nhất thời trên bước đường tu tập tìm về Đại giải thoát.

Những phép lạ và thần thông của Đức Phật trong kinh điển Phật giáo

Thần thông (Abhijina-Abhinna. nguyên nghĩa là trí tuệ siêu nhiên, được hiểu là năng lực siêu phàm do tu tập Thiền định mà có được (nói chung, không riêng chỉ Phật giáo.. Các vị đạt thần thông được gọi là thành tựu giả (Siddha.. Vào thế kỷ XII, một vị cao tăng Ấn Độ có viết một cuốn sách về hành trạng của 84 vị có thần thông từ thế kỷ VIII đến thế kỷ XII, nhan đề là Carturraciti-Siddha-Pravitti (Keith Dowman và H. W. Shumann dịch ra Anh ngữ.

Đặc biệt, ở Tây Tạng có rất nhiều truyền thuyết và sách nói về thần thông của nhiều vị tu sĩ và người bình thường thuộc nhiều giới khác nhau. Theo quan điểm Phât giáo, những vị có thần thông không hẳn là những vị đạt ngộ và những vị đạt ngộ không hẳn là những vị có thần thông.

Đức Phật từng phê phán bác các thần thông và khuyên các đệ tử không nên thể hiện thần thông.

Đức Phật sử dụng thần thông, phép lạ như thế nào

Kinh điển Phật giáo thường nói đến sáu loại thần thông (lục thông – Sad-abhijnah) là:

1. Thần túc thông (năng lực hiện thân tùy ý tại bất cứ nơi đâu,

2. Thiên nhãn thông (năng lực thấy cảnh huống vui khổ của tất cả chúng sinh,

3. Thiên nhĩ thông (năng lực nghe được mọi âm thanh của chúng sinh,

4. Tha tâm thông (năng lực biết được tâm ý của chúng sinh,

5. Túc mạng thông (năng lực biết được thọ mạng của mình và của chúng sinh từ muôn nghìn kiếp,

6. Lậu tận thông (năng lực đoạn trừ phiền não, sinh tử.

Những vị không tu thiền định Phật giáo cũng có thể đạt được năm thần thông đầu, ngoại trừ thần thông thứ sáu là Lậu tận thông. Thần túc thông, Thiên nhãn thông và Lậu tận thông còn được gọi là Tam minh (Trisno Vidyah – Tisso Vijja), nhằm trỏ khả năng giáo hóa, cứu độ của Đức Phật và các Thánh đệ tử của Ngài.

Kinh điển mô tả các phép biến hóa trên như là một phương tiện để ca ngợi khả năng siêu việt của các bậc chứng ngộ, nhưlà một miêu tả ước lệ, tượng trưng cho sự diệu dụng của trí tuệ siêu phàm.

Tại sao Tôn Ngộ Không thần thông quảng đại nhưng vẫn phải phục tùng Đường Tăng?

Do có thần thông nên có thể thực hiện các phép biến hóa. Kinh điển Phật giáo thường dựa theo tín ngưỡng dân gian của Ấn Độ thời xưa, thường miêu tả năng lực của các vị đạt ngộ (Phật, Bồ tát, A la hán) bằng các phép biến hóa gì là thần biến (Virkurvana). Các bộ Du già Sư Địa Luận, Pháp Hoa Huyền Tán, Giáo Thừa Pháp Số, Đại Tạng Pháp Số, Chân Ngôn Quảng Minh Mục… liệt kê 18 phép biến hóa, tuy nội dung đôi chỗ khác nhau nhưng tựu trung gồm việc hóa thân phía trên bốc lửa, phía dưới tuôn nước, biến nước thành lửa,lửa biến thành nước, hóa thân khắp nơi, đi đứng, ngồi trên hư không, phóng ánh sáng, an tâm chúng sinh khiến tiêu trừ bệnh tật, tai họa…

Cần nhớ rằng kinh điển mô tả các phép biến hóa trên như là một phương tiện để ca ngợi khả năng siêu việt của các bậc chứng ngộ, nhưlà một miêu tả ước lệ, tượng trưng cho sự diệu dụng của trí tuệ siêu phàm. Đức Phật từng phê phán bác các thần thông và khuyên các đệ tử không nên thể hiện thần thông. Ngài khẳng định thần thông cao nhất là thần thông hiểu pháp và truyền đạt pháp. Đạo Phật nhằm đưa con người đến trí giải thoát, đến cứu cánh Đại giải thoát khỏi khổ đau của sinh tử luân hồi, chứ không phải nhằm khiến một số ít người mù được thấy, người què được đi, người chết được sống lại, biến đá thành cơm, biến nước thành rượu…Đức Phật và các Thánh đệ tử thường đến thăm người bệnh , người sắp mất để truyền cảm ứng tâm linh giúp những vị này qua đi sự đau đớn khiến tâm rối loạn.

Sự biểu hiện cụ thể thần thông Phật giáo là đem sức cảm ứng, đem giáo pháp mà an tâm và tạo niềm tin cho người ta, từ đó người ta vơi đi hay dứt đi cái khổ nhất thời trên bước đường tu tập tìm về Đại giải thoát.

72 phép biến hoá của Tôn Ngộ Không thần thông quảng đại

Một phụ nữ đau khổ gần như điên loạn vì đứa con vừa chết đến cầu cứu Đức Phật, Ngài giúp bà hiểu rõ luật vô thường mà vơi đi sự đau khổ, chứ không làm cho đứa bé sống lại. Ngài chế ngự con voi dữ, chế ngự kẻ hung bạo bằng sự thể hiện năng lực từ bi tự tại của Ngài chứ không phải Ngài biến mất đi hay phóng thân lên không trung hay thực hiện những biến hóa khác.

Sự biểu hiện cụ thể thần thông Phật giáo là đem sức cảm ứng, đem giáo pháp mà an tâm và tạo niềm tin cho người ta, từ đó người ta vơi đi hay dứt đi cái khổ nhất thời trên bước đường tu tập tìm về Đại giải thoát.

Bàng Ấn

II. Nguyên nhân Đức Phật không muốn các đệ tử sử dụng thần thông

Biết được tác hại nhiều hơn lợi ích nên Đức Phật không muốn đệ tử dùng thần thông cho dù là mục đích sử dụng chúng là xuất phát từ tâm ý tốt hay xấu đi chăng nữa.

Ngày xưa, Đức Phật thành tựu đầy đủ tất cả các loại thần thông và những vị thánh đệ tử của Ngài đều có thể sử dụng được một số loại thần thông. Trong đó, ba loại thần thông được Đức Phật nhắc đến nhiều trong các bài giảng pháp của Ngài là: thiên nhãn thông, thiên nhĩ thông, thần túc thông, túc mạng thông, tha tâm thông và lậu tận thông.

Trong 40 năm giảng Pháp, dù thế nào, Ngài cũng hạn chế trong việc sử dụng chúng như là một cách biểu diễn năng lực đặc biệt nhằm đáp ứng tâm lý tò mò, hiếu kỳ với điều lạ lùng, khác người của số đông dân chúng, vì Ngài thấy điều này không đem lại lợi ích thiết thực nào cả.

Câu chuyện Đức Phật không muốn đệ tử dùng thần thông

Sử dụng thần thông vì lời thách đố

Có trưởng giả Maluta vì không tin vào năng lực của Phật cũng như các đệ tử của Ngài nên thách đố họ lấy được chiếc bát quý bằng bạc treo cao 20 thước. Theo cách đó, ông cho rằng chỉ có như thế thì mọi người mới kính nể còn không sẽ không tin vào năng lực của Ngài.

Mặc cho những lời khiêu khích Đức Phật bay lên lấy chiếc bát thì các vị đệ tử đã ngăn lại vì họ cho rằng chiếc bát bằng bạc đó không đáng để Ngài phải thi triển thần thông.

Trưởng giả Maluta thấy mọi người thờ ơ với sự thách thức của mình liền có những lời chê bai, chỉ trích đối với những sa môn, đạo sĩ và không tin vào thần thông.

Thấy vậy, ngài Tân Đầu Lư Phả La Đọa xin phép Tôn giả Mục Kiền Liên dùng thần thông để lấy chiếc bát để chứng thực và muốn cho mọi người tin vào Phật. Việc này khiến cả kinh thành chấn động, kinh ngạc trước thần thông kỳ diệu của vị đệ tử Phật.

Những người theo ngoại đạo dần dần quy ngưỡng về Trúc Lâm Tinh Xá. Nhưng khi vua Bình Sa xin gặp Phật và trình bày về việc sau khi đệ tử Phật dùng thần thông lấy chiếc bát khiến dân chúng xôn xao không yên, Đức Phật quở trách Ngài Mục Kiền Liên cùng các đệ tử và chỉ dạy không được dùng thần thông để thể hiện như vậy, chỉ được dùng thần thông để giáo hóa chúng sinh chứ không ngoài mục đích nào khác. Mời bạn tham khảo: Phật dạy 9 hành vi gây giảm phước báo, 3 đời nghèo khó cần tránh xa

Dùng thần thông cho lợi ích cá nhân

Một câu chuyện khác kể về nhân duyên Đức Phật quở trách.

Khi Đức Phật hạ thế cõi người sau ba tháng giảng Pháp cho mẫu thân Maya Devi ở cung trời Đâu Suất, vô số chư Thiên cùng đi theo cung tiễn Đức Phật hạ giới và hàng chục nghìn người chờ đón cung nghinh Ngài trở lại cõi người.

Trong đó có vị đệ tử nữ Đệ nhất thần thông Liên Hoa Sắc một vị ni đã gần đạt giác ngộ, bà không thể nhìn thấy Đức Phật vì bị đám đông che khuất. Lúc này hàng triệu Phật tử cúng kính đỉnh lễ, ai cũng muốn được lại thật gần để thấy rõ Ngài.

Không gian chật chội, dường như không thể di chuyển và không tiếp cận được Đức Phật nên bà nghĩ ra cách đó là hóa thân thành một vị vua vũ trụ. Lúc này bà trở thành một vị vua lộng lẫy với hoàng bào, trang sức lấp lánh khiến đám đông xung quanh kinh ngạc.

Họ thấy vậy nên đã lần lượt giãn rộng đường, mở lối cho bà có thể tiền lại gần chiêm bái Đức Phật. Mọi người kính cẩn nhường đường cho bà và nhờ vậy, bà có thể lễ lạy và cúng dường tất cả trang sức của mình lên Đức Phật.

Tuy nhiên, vị Tỳ kheo Udayi (Charkha) đã cười lớn nói với mọi người rằng: “Vị vua này cải trang này chắc chắn là ni sư Udpala, vì tôi có thể ngửi thấy mùi hoa ưu đàm từ bà”.

Đức Phật khi hay biết chuyện đã khiển trách ni sư: “Trước mặt Đức Phật, đừng vì lợi ích cá nhân mà tùy tiện phô diễn thần thông thay vào đó, một vị ni sư cần trì giữ hạnh khiêm cung và tác phong giản dị, để mọi chúng sinh đều được truyền cảm hứng và tự nhiên phát khởi niềm lòng kính ngưỡng trong tâm”.

Lý do Phật dùng thần thông ở mức tối thiểu

Khi hiểu thần thông là gì chắc chắn ai trong chúng ta cũng cảm thấy tò mò và ham thích muốn những người có khả năng này biểu diễn cho mình xem như là cách để chứng thực rằng họ có thể bay lượn hay di chuyển đồ vật giống như những bộ phim chúng ta từng xem.

Điều này chỉ thỏa mãn tính tì mò, ham mê những điều mới lạ, khác những hiểu biết thông thường của mình mà thôi. Huống gì là những người có khả năng này mà không được sử dụng thì quả là khó chịu.

Có thể thấy, chỉ trong tình huống cần thiết, Đức Phật mới sử dụng thần thông một cách từ tốn, vì sao Ngài lại nghiêm khắc không muốn đệ tử của mình sử dụng nó?

Dễ khiến mọi người không tin chính pháp

Khả năng thần thông cũng như việc đánh thức con mắt thứ 3 là khả năng đến tự nhiên khi một người diệt được Tham (lam), Sân (hận), Si (ngu si) trong quá trình tu tập. Nhưng đó là một việc rất khó và ít ai vượt qua các giai đoạn khó khăn trước đó để đạt được thành tựu này. Mời bạn tham khảo: Thần thông là gì, có thật không? Có nên đánh thức con mắt thứ 3 không?

Vì thế, nếu lấy số người ít ỏi có khả năng đó để lấy uy với số đông sẽ không thể đủ thông tin giải thích được hết. Giống như việc ta thấy một người đứng ở đỉnh vinh quang mà ta ngưỡng vọng nhưng không biết họ đã khổ luyện đến mức nào.

Khi không hiểu và người thường bắt đầu thần thánh hóa những gì họ không làm được sẽ dẫn câu chuyện đi theo hướng khác. Sinh ra ngưỡng mộ những người có khả năng thi triển biến hóa thần thông vì cho đó là những khả năng đặc biệt từ những người siêu xuất. Từ đó, nếu ai có dụng tâm xấu muốn lèo lái người ngưỡng mộ họ theo mục đích gì cũng được và tiêu biểu nhất đó là khiến họ hiểu sai về chính pháp.

Dần dần, những người không đủ trí tuệ sẽ không tin vào chính pháp, lại chuyển qua sùng bái cá nhân, sùng bái sự thần kì thì rất nguy hiểm. Vì lúc này họ dường như trở thành người vô trí, mặc cho đối phương muốn dẫn dụ gì cũng được khi họ tin rằng người đó là Thánh, Thần.

Những ai thực hành đúng theo Chính pháp, xả ly mọi tham đắm, bám chấp, thêm bình an và hạnh phúc thì không để vướng mắc vào những phép lạ của thần thông biến hóa hay những lời tung hô khen ngợi tầm thường ấy.

Vì thế, có thể thấy, Thần thông diệu dụng là những giá trị lợi ích đặc thù của người tu tập theo những pháp môn nhất định nhưng nó cũng có mặt trái tiềm tàng mà không thể ai cũng có thể đủ bản lĩnh để vượt qua chúng.

Không đưa hành giả đến sự an lạc giải thoát

Đức Phật không muốn đệ tử dùng thần thông, Ngài còn khiển trách những ai tùy tiện sử dụng thần thông khi không cần thiết. Thần thông là kết quả tự nhiên sau một quá trình dụng công tu tập, nhưng thần thông, trừ Lậu tận thông, không đưa hành giả đến sự an lạc giải thoát.

Ví dụ khi có thần thông, nếu ta tức giận với kẻ nào đó không vừa ý mình, tâm sân hận nổi lên ta có thể làm hại người khác một cách dễ dàng. Trong khi ta cũng chỉ là con người, vẫn chưa loại bỏ hết được lòng đố kỵ, ghen ghét hoàn toàn.

Cuối cùng ta gây nghiệp và chịu hậu quả xấy, ta lại rơi vào vòng luẩn quẩn khi không biết cái nào quan trọng, cái nào không quan trọng, khiến cho mình dễ dàng tạo ác hơn và phiền não thêm chứ không giúp giải quyết được cội gốc đau khổ cho mình, khó có cơ hội giải thoát.

Đức Phật thành tựu đầy đủ tất cả các loại thần thông nhưng Ngài ít dùng vì muốn làm gương cho đệ tử vì biết rằng điều này không đem lại lợi ích thiết thực nào cả.Gây hại khi người dùng có tâm bất chính

Đức Phật khẳng định những thứ này chỉ là vỏ cây, cành lá không đáng cho người tu hành đã luyện được thần thông lại sinh ra hài lòng, tự mãn với khả năng của mình và tự cho rằng mình hơn người khác.

Đối với Ngài, làm việc có đạo đức, giúp người, giúp đời mới là ưu tiên hàng đầu. Chỉ khi nào thành tựu giải thoát phạm hạnh thì đó mới là mục đích rốt ráo, là lõi cây, bền vững, tối thượng, đáng cho ta trân quý giữ gìn (Trung bộ kinh, số 29: Đại kinh ví dụ lõi cây).

Các loại thần thông, phép lạ như Biến hóa thần thông, Tha tâm thần thông chẳng những không mang lại nhiều lợi ích cho người sử dụng mà còn gây ra nhiều tác hại một khi người dùng có tâm ý bất chính, sử dụng với mục đích xấu.

Nhất là những ai phần “con” còn nhiều hơn phần “người” họ sẽ lợi dụng những ai có khả năng thần thông để thỏa mãn lòng tham lam, sân hận của mình, chẳng hạn như hại người chiếm đoạt của cải, phục vụ hoặc tiếp tay cho kẻ xấu ác, hay vì thù oán mà gây hại cho người.

Đối với người chưa dứt hết phiền não tham, sân, si như hầu hết chúng ta thì việc lạm dụng thần thông để thỏa mãn cái tôi, thỏa mãn tư dục là điều rất dễ xảy ra.

III. Thần thông không thắng được nghiệp lực

1/ Thần thông có khả năng cứu được nghiệp lực không?

Thời xưa vua Ba Tư Nặc rất quý dòng họ Thích nên đòi cưới con gái dòng họ này. Bấy giờ Thích Ma Ha Nam mới đem cô gái con của người nô tỳ dâng cho vua. Vua rất hài lòng và sanh hạ được một thái tử đặt tên là Lưu Ly. Khi còn nhỏ, Thái tử Lưu Ly được gửi sang dòng họ ngoại để học bắn cung cùng với năm trăm trẻ con dòng họ Thích. Một hôm, dòng họ Thích chuẩn bị mời Thế tôn vào cúng dường và thuyết pháp trong một giảng đường mới xây cất rất khang trang. Thái tử Lưu Ly dắt năm trăm đứa trẻ cùng học vào giảng đường này và leo lên ngồi vào tòa sư tử dành sẵn cho đức Phật. Những người dòng họ Thích trông thấy như vậy rất tức giận, lôi thái tử Lưu Ly xuống đánh một trận rồi mắng chửi thậm tệ nói là đồ con của người nô tỳ. Thái tử khi đó nói với cận vệ của mình là Hiếu Khổ rằng: “Họ Thích hủy nhục ta đến như thế này, sau này nếu ta có nối ngôi vua thì ngươi nên nhắc lại chuyện này để ta báo hận”. Từ đó, mỗi ngày Hiếu Khổ tâu với thái tử ba lần là hãy nhớ mối nhục từ dòng họ Thích. Khi vua Ba Tư Nặc qua đời, Thái tử Lưu Ly nối ngôi vua, Hiếu Khổ lại nhắc vua mối nhục trước. Vua Lưu Ly bèn tập hợp bốn bộ binh để đi chinh phạt dòng họ Thích. Các Tỳ kheo nghe được như vậy liền thưa lên đức Phật. Đức Phật đến ngồi nơi một gốc cây khô trụi lá nằm bên vệ đường nơi Vua Lưu Ly sẽ đi qua. Từ đằng xa trông thấy, vì rất kính trọng đức Phật nên vua xuống ngựa và đến thưa:

– Có những cành cây lá xum xuê tươi tốt như loại cây ni câu lưu… sao Ngài không đến đó ngồi mà lại ngồi dưới cây khô này?

Đức Phật đáp: “Bóng mát của thân tộc là hơn hẳn bóng mát của các loại cây bên ngoài”. Tức là Phật đề cao thân tộc cho vua Lưu Ly biết. Vì vua là họ ngoại với dòng họ Thích, còn Hiếu Khổ chỉ là người dân ngoài thân tộc. Vua Lưu Ly hiểu được ý của đức Phật nên trở về nước, không chinh phạt thành Ca Tỳ La Vệ nữa.

Nhưng khi vua kéo bốn bộ binh trở về thì cận thần Hiếu Khổ lại nhắc mối nhục trước và vua lại nổi giận lên, đem quân đi chinh phạt tiếp. Các thầy Tỳ kheo lại bạch lên Thế tôn và cũng giống như lần trước, đức Phật ngồi dưới cội cây khô trên đường vua Lưu Ly sẽ đi qua. Vua Lưu Ly thấy đức Phật liền xuống ngựa và đến bạch rằng:

– Lại có những cội cây tốt Ngài không đến ngồi mà hôm nay, vì cớ gì Ngài lại ngồi dưới cội cây khô này?

Đức Thế Tôn đáp: “Bóng mát của thân tộc là hơn người ngoài” và nói bài kệ:

“Bóng mát của thân tộc
Từ họ Thích có Phật
Đều là cành lá ta
Nên ngồi dưới cây ấy”.

Vua Lưu Ly nghĩ “Ngày nay đức Thế Tôn phát xuất từ dòng họ Thích, ta không nên chinh phạt”, nên đem quân quay trở về nước. Khi quay trở về thì lần thứ ba Hiếu Khổ lại nhắc mối nhục xưa, vua Lưu Ly nghe nổi giận và triệu tập bốn bộ binh tiếp tục đi đánh dòng họ Thích. Phật thấy hai lần ngăn cản mà không được nên lần này Ngài không cản nữa. Lúc bấy giờ, Ngài Mục Kiền Liên là đệ tử có thần thông đệ nhất xin Phật cho Ngài dùng thần thông để cứu dòng họ Thích, bằng cách dời dòng họ Thích sang phương khác tránh nạn.

Đức Phật bảo: Thầy có thể đem túc duyên của dòng họ Thích ném sang phương khác được không?

Ngài Mục Kiền Liên đáp: Thật không thể đem túc duyên đặt vào thế giới phương khác được.

Đức Phật nói: Thôi thầy hãy về chỗ ngồi đi.

Ngài Mục Kiền Liên bạch Phật: Nay con có thể dời thành Ca Tỳ La Vệ này để lên hư không để tránh cái nạn này.

Đức Thế Tôn hỏi: Thầy có thể dời túc duyên dòng họ Thích để trên hư không được chăng?

Ngài Mục Kiền Liên đáp: Thưa không, bạch Thế Tôn.

Đức Phật nói: Vậy thầy hãy về chỗ mình đi.

Ngài Mục Kiền Liên rất nhiệt tình bạch Phật một lần nữa: Bạch Đức Thế Tôn, cho phép con lấy cái lồng sắt thưa chụp lên thành Ca Tỳ La Vệ thì vua Lưu Ly không đến được.

Đức Thế Tôn bảo: Thế nào Mục Kiền Liên? Thầy có thể lấy lồng sắt thưa để mà chụp lên túc duyên chăng?

Ngài Mục Kiền Liên đáp: Thưa không, bạch Thế tôn.

Lúc bấy giờ, đức Phật mới bảo Ngài Mục Kiền Liên: Nay thầy hãy trở về chỗ ngồi đi, hôm nay họ Thích túc duyên đã chín muồi và nay sẽ thọ báo.

Có chỗ khác chép lời đức Phật nói: Này Mục Kiền Liên, ta biết ông có khả năng trí đức che chở cho nước Xá Di, nhưng chúng sanh có bảy việc không thể tránh khỏi. Đó là: sanh, già, bệnh, chết, tội, phước và nhân duyên. Bảy điều này dù ta muốn tránh cũng không thể được. Dù oai thần của ông có thể làm được chuyện đó, nhưng túc nghiệp tội lỗi làm sao tránh được.

Và cuối cùng, vua Lưu Ly vào thành giết dòng họ Thích. Ngài Mục Kiền Liên tuy đã được Phật nói về túc duyên không thể tránh, nhưng vì nóng lòng không thể ngồi yên nên Ngài đã dùng thần thông thu 500 người của dòng họ Thích vào trong cái bát của ngài và bay sang phương khác. Sau khi trận chiến kết thúc, Ngài mở cái bát ra thì 500 người họ Thích đã hóa thành máu. Trong Kinh diễn tả người dân trong thành Ca Tỳ La Vệ chết máu chảy thành dòng sông. Đức Phật quán sát vua Lưu Ly vì gây nghiệp tàn sát quá nặng nên sẽ chịu quả báo trong thời gian không lâu nữa. Ngài báo trước cho các Thầy tỳ kheo rằng: “Nay vua Lưu Ly và quân lính này sẽ chẳng còn ở đời bao lâu nữa, sau bảy ngày sẽ bị tiêu diệt hết”, có nghĩa là phải thọ báo và chịu chết. Vua Lưu Ly nghe Phật nói về quả báo thì rất tin và lo sợ, bảo các quần thần coi xem bên ngoài lý do chết của mình có phải là trộm giặc, nước, lửa, tai biến xâm phạm hay không. Các quần thần thưa là không có các nạn đó. Phạm chí Hiếu Khổ khuyên vua cứ yên tâm mà vui chơi, đừng nên lo sợ. Nhưng vua tin lời đức Phật nói là không sai nên đếm từng ngày và lo sợ. Tính qua sáu ngày mà chưa có hề hấn gì, đến buổi sáng ngày thứ bảy vẫn không có vấn đề gì cho nên vua rất mừng rỡ. Vì không kềm nổi nên vua dẫn các cung nữ đến bên bờ sông Ca Di Na vui chơi rồi nghỉ ở đó. Bất ngờ nửa đêm mây kéo đến, gió to mưa lớn và mọi người không thể rút lui kịp cho nên bị nước cuốn trôi hết, tất cả đều bị chết và đọa vào địa ngục A tỳ. Những người thân của vua còn ở trong thành không đi chơi, đêm đó cũng bị sét đánh và cháy hết cả cung điện. Các Thầy tỳ kheo thấy dòng họ Thích bị tàn sát như vậy cho nên mới thưa hỏi về túc duyên.

Bấy giờ, Đức Phật bảo các thầy Tỳ kheo: Ngày xưa trong thành La Duyệt có một làng đánh cá. Khi ấy đời sống hết sức đói nghèo và người dân phải ăn rễ cây, một đấu vàng đổi được một đấu gạo. Trong làng có một cái ao tắm rất nhiều cá, dân trong làng đều đến bắt cá để ăn. Dưới ao có hai loại cá, một loại tên là Câu Tỏa và loại thứ hai tên là Lưỡng Thiệt. Hai loại cá này bị bắt ăn như vậy nên hai con cá đầu đàn mới bảo với nhau: “Chúng ta đối với những người này trước tiên không có lỗi lầm, tại họ ở trên đất bằng còn ta ở dưới nước, nhưng nhân dân này lại ăn nuốt chúng ta. Nếu sau này có một chút phước đức gì thì chúng ta sẽ dùng nó để báo oán trở lại”. Lúc bấy giờ trong làng có một đứa bé mới 8 tuổi không đánh cá, cũng không hại mạng của cá, nhưng lúc thấy những người khác đánh giết cá và thấy con cá bị chết trên bờ thì đứa bé này hết sức hoan hỷ. Cuối cùng, đức Phật kết luận rằng: “Tỳ kheo nên biết, các Thầy chớ xem rằng nhân dân trong thành La Duyệt Kỳ bấy giờ là ai khác, nay họ chính là những người trong dòng họ Thích, con cá Câu Tỏa hồi đó, nay là vua Lưu Ly, và con cá Lưỡng Thiệt nay là phạm chí Hiếu Khổ. Đứa bé thấy cá chết trên bờ mà vui thích lúc đó, nay chính là ta. Dòng họ Thích lúc ấy là người dân ngồi ăn cá, do nhân duyên này nên vô số kiếp vào địa ngục, nay chịu sự trả này. Ta lúc ấy vì thấy cá chết mà hoan hỷ vui cười cho nên nay bị quả báo đau đầu giống như đá đè, ví như lấy đầu mà đội núi Tu Di vậy”. Cuối cùng Đức Phật khuyên các Thầy tỳ kheo nên giữ gìn hành động của thân, miệng và ý.

Qua câu chuyện trên quý vị thấy thần thông là đáng sợ hay nghiệp lực là đáng sợ? Nghiệp lực thật là đáng sợ! Ngày xưa mới đọc qua câu chuyện này thì chính quý thầy cũng thắc mắc. Khi vua Lưu Ly kéo quân đánh dòng họ Thích, tại sao đức Phật không báo tin cho dòng họ Thích biết trước để trốn đi. Nhưng sau đó, mình tự đặt lại câu hỏi: Giả sử đức Phật cho dòng họ Thích biết trước là vua Lưu Ly sẽ sang đánh phá thì liệu dòng họ Thích có trốn được định nghiệp đã gây tạo hay không? Quý vị nghĩ có thoát khỏi được hay không? Nếu ai khéo một chút sẽ thấy, chính vua Lưu Ly và quân lính đã được đức Phật cho biết trước là sau bảy ngày nữa thì họ phải chịu quả báo ác nghiệp, bị tiêu diệt và chết. Khi biết trước như vậy thì vua và quân lính cũng đã tính cách để tránh nhưng mà đâu có trốn được! Nếu họ ra bờ sông thì bị nước cuốn chết hết, còn ở tại cung điện thì cũng bị sét đánh và cháy rụi. Nếu có thể dùng thần thông trốn được định nghiệp thì lẽ ra khi được đức Phật cho biết trước, vua Lưu Ly phải trốn tránh được và không bị chết. Và cũng vậy, giả sử dòng họ Thích có được Phật cho biết trước đi nữa cũng đâu có thể trốn được định nghiệp mà mình đã tạo. Nếu dòng họ Thích biết trước mà trốn khỏi cái định nghiệp mình đã tạo thì sẽ không bị vua Lưu Ly giết và 500 người dòng họ Thích được Ngài Mục Kiền Liên thu vào trong bát và đem sang phương khác lẽ ra phải còn sống. Nhưng sau trận đánh rồi, ngài Mục Kiền Liên mở bát ra thì thấy 500 người đó đã hóa thành máu. Qua đó cho thấy, thần thông không thể cứu được định nghiệp. Chính đức Phật đã dùng phương tiện để cứu giải, có nghĩa là Ngài đã đến cội cây và ngồi hai lần để cản vua không cho đi qua, nhưng cuối cùng cũng không cứu được định nghiệp của dòng họ Thích. Như vậy những nghiệp nhẹ, những cái bất định nghiệp thì có thể chuyển hóa được, nhưng định nghiệp thì khó chuyển cho nên thần thông không có khả năng chuyển được nghiệp mình đã tạo.

Quý vị thường nghe câu chuyện Ngài Mục Kiền Liên cứu mẹ. Khi còn sống, mẹ Ngài tạo nhiều ác nghiệp nên khi chết phải đọa làm quỷ đói. Ngài đã dùng thần thông để tìm mẹ thì thấy bà sanh trong loài ngạ quỷ rất là đói khổ cho nên Ngài đi khất thực, được một bát cơm bèn mang đến dâng cho mẹ. Khi dâng cơm thì mẹ Ngài một tay che cơm, một tay bốc ăn, nhưng cơm vừa đưa tới miệng thì hóa thành than lửa không thể ăn được. Lúc bấy giờ Ngài đau lòng, về thưa với đức Thế tôn và được đức Phật chỉ dạy nên thiết trai cúng dường và cầu chư tăng tu hành thanh tịnh để chú nguyện cho mẹ ngài. Sau đó mẹ Ngài được sanh thiên.

Chúng ta thấy, nếu thần thông có khả năng cứu được nghiệp lực thì tại sao Ngài Mục Kiền Liên lại không dùng thần thông để thổi tắt lửa cho mẹ Ngài ăn cơm, hoặc tại sao Ngài không dùng thần thông để cõng mẹ Ngài thoát ra khỏi kiếp ngạ quỷ để đi sang phương khác? Mà khi thấy mẹ như vậy thì Ngài lại khóc và bất lực trước nghiệp lực của mẹ. Quý vị nghĩ thế nào về thần thông của Ngài Mục Kiền Liên và nghiệp của mẹ Ngài đã tạo? Rõ ràng, thần thông dù rất cao nhưng cũng không thể cứu được nghiệp lực.

Chúng ta tu hành, nếu chú trọng cầu thần thông mà thần thông lại không cứu được nghiệp, không giúp cho mình giải khổ được, thì cầu để làm gì? Phải đặt lại vấn đề để suy gẫm mới thấy thần thông là cái phụ chứ không phải cái chính để chúng ta cầu.

Ngày xưa ông Uất đầu lam phất là vị tiên nhân tu đạt được ngũ thông, được vua Tần bà sa la rất kính trọng và mời cúng dường mỗi ngày. Vì chỗ ông ở cách cung vua rất xa nên mỗi lần đến cung vua thì ông dùng thần thông bay tới. Một hôm vua có việc đi vắng nên dặn hoàng hậu ở nhà sớt bát cúng dường. Theo tập tục Ấn Độ xưa, khi kính trọng ai, để bày tỏ lòng chí thành thì phải kính lễ, lúc lạy xuống đầu và mặt tiếp xúc với chân người đó. Khi tiên nhân Uất đầu lam phất đến thì hoàng hậu cũng đúng như phép, sụp lạy và để mặt bà chạm vào chân của tiên nhân. Nhưng khi chạm vào chân thì ông Uất đầu lam phất động tâm cho nên mất thần thông, khi về phải đi bộ trở về núi. Khi tới thì rất là nhanh nhưng khi về nghe nói phải mất tới mấy tháng mới về lại núi được. Vì mất thần thông nên ông rất hối hận, quyết tâm đến bên gốc cây tu luyện để cầu được thần thông trở lại. Khi nhất tâm, cố gắng chuyên chú thì có một con chim kêu, ông tưởng nó đang tâm tình với nhau nên bị loạn ý, không thể nào thu nhiếp tâm ý để hồi phục thần thông được. Lúc bấy giờ ông bỏ cội cây, đến bên bờ suối để tập trung nhiếp định cầu lại thần thông. Khi ông nghe các loài cá quậy giỡn ở dưới, ông cũng động niệm nghĩ chúng tự tình với nhau nên cuối cùng việc luyện tập của ông cũng không thành công. Vì tập trung cầu hồi phục thần thông mà không được cho nên ông tức giận và thề: “Sau này ta sẽ làm một con chồn bay để ăn hết tụi bay” vì cái tội làm cho ông loạn ý, tu không được. Sau đó ông vào rừng sâu, tìm một chỗ yên vắng tập trung và hồi phục được thần thông đã mất. Sau khi chết ông sanh lên cõi trời phi tưởng phi phi tưởng xứ và ở đó một thời gian. Khi hết tuổi thọ, vì lời thề xưa cho nên ông đọa xuống làm một con chồn bay. Lòng uất hận ngày xưa giờ vẫn còn nên con chồn bay và ăn giết cá chim rất nhiều. Vì gây vô lượng tội ác như vậy nên sau khi chết, con chồn bay này  đọa vào địa ngục rất lâu dài và chịu vô số hình khổ đau đớn bởi nghiệp đã tạo đó.

Nếu dùng thần thông mà thoát được nghiệp thì lẽ ra ông Uất đầu lam phất phải dùng thần thông để trốn, không vào địa ngục. Nhưng sau khi có được thần thông lại, ông cũng không hóa giải được lời thề cũ. Hết phước cõi trời thì ông theo lời thề đó trở xuống làm con chồn bay tạo nghiệp ác và phải đọa địa ngục. Vậy thần thông đâu có giúp cho ông thoát khỏi nghiệp và hết khổ? Nó không thể thắng được nghiệp lực, không thể hóa giải được nghiệp lực, vậy thì mình nên sợ thần thông hay nên sợ nghiệp lực?

Bây giờ xét kỹ lại, khi tu mà bị chim cá quấy rối nên ông nổi giận và thề ngày sau sẽ làm con chồn bay ăn hết loài chim cá. Đó là vì trong bất giác, trong cơn bực tức nhất thời không kịp kiểm soát nên đã lỡ lời mà buông ra lời nói như vậy thôi. Đã là lỡ lời thì lẽ ra sau khi hết giận, ông phải biết lỗi mình đã lỡ nói lời ác sẽ dẫn đến quả báo không tốt để ăn năn và thành tâm sám hối, thì chính cái tâm ăn năn sám hối đó mới giúp cho ông chuyển đổi, không còn theo nghiệp đó mà làm con chồn bay để tạo thêm nghiệp ác. Bởi vì lúc bấy giờ nghiệp chỉ mới khởi từ ý, chưa phát ra thân và miệng. Nếu trong lúc bất giác nhất thời đó mà biết ăn năn sám hối thì không có cơ hội phát ra miệng và thân làm, cho nên không kết được thành nghiệp. Như vậy chúng ta thấy, ông có thần thông nhưng cũng không hóa giải được nhân sẽ tạo nghiệp là lời thề đó, huống chi là những nghiệp đã tạo rồi, mà khi quả đã chín muồi và phải thọ quả báo thì làm sao có thể dùng thần thông mà thoát được. Chính thần thông mà không thể chuyển được một nghiệp nhân nhỏ trong tác ý thì làm sao có thể chuyển được nghiệp nhân đã thành hình?

Quý vị xét lại, nếu trong một lúc bất giác nào đó, quý vị lỡ có tâm bực tức và thề giống ông Uất đầu lam phất và sau đó tỉnh táo lại, quý vị sẽ biết đó là một niệm không tốt, mình phải thành tâm sám hối ngay cái niệm xấu ác đó. Khi sám hối thì mình không còn theo, mà không theo thì không còn tạo nghiệp, không còn đi thọ khổ trong vòng luân hồi nữa. Mà ăn năn sám hối thì có nhất thiết cần đến thần thông mới làm được hay không? Đâu cần! Chỉ cần có trí tuệ, biết rằng cái nghĩ khởi lên trong khi giận đó là nhất thời, là sai, là nhân dẫn đến tạo nghiệp và thọ khổ thì phát một tâm ăn năn sám hối, không theo niệm đó để tạo nghiệp thì liền khỏi. Còn cho dù là tiên nhân, đắc được thần thông mà không biết cách hóa giải niệm ác của mình ngay khi mới phát khởi thì cuối cùng vẫn theo nghiệp, tạo nghiệp và thọ lấy quả báo.

Qua đó quý vị thấy, thần thông đâu có khả năng chuyển hay tiêu trừ được nghiệp, cho nên nó không phải là cái chính để chúng ta tu theo và mong cầu được. Chúng ta tu hành không cần thần thông vẫn tu được, chỉ cần chuyển sửa ngay ba nghiệp thân, khẩu và ý để tiêu trừ nghiệp, đó là cái thiết thực nhất. Cái chính là chuyển ngay từ ý nghiệp, ý không nghĩ xấu ác thì miệng không nói lời ác và thân sẽ không làm, ngay đó chúng ta đã dừng được nghiệp ác. Đó là dừng được cái nhân, mà nhân đã không có thì quả khổ làm sao có? Còn thần thông là cái không thể chuyển được nghiệp, không giúp cho mình hết khổ mà còn khiến chúng ta dễ bị lầm lạc. Vậy trong khi tu hành, quý vị thấy mình có nên cầu để được thần thông không? Như đã phân tích, nó chỉ là cái nhất thời, không có lợi ích gì cho mình mà mình lại phải tốn một thời gian rất dài để có được. Dồn hết công sức thời gian để mong cầu một cái không có lợi ích như vậy thì cái nhìn của mình có được đầy đủ hay chưa? Biết như vậy rồi trong khi tu hành, chúng ta không nên chú trọng cầu thần thông để rồi phải bị lầm lạc.

Tóm kết lại cho quý vị thấy, trong hàng đệ tử Phật, Ngài Mục Kiền Liên là người có thần thông bậc nhất, nhưng cuối đời Ngài cũng phải trả một cái định nghiệp từ đời trước.

Trong sử kể lại, một hôm trên đường đi khất thực và giáo hóa, Ngài Xá Lợi Phất và Ngài Mục Kiền Liên mỗi người cách nhau một khoảng xa thì gặp ngoại đạo Ni kiền tử đón đường. Gặp Ngài Xá Lợi Phất, chúng hỏi: “Trong chúng chánh mạng có Sa Môn quả hay không?” Có nghĩa nó hỏi trong chúng Ni kiền tử có chứng được bốn quả Thanh Văn không? Ngài Xá Lợi Phất là bậc trí tuệ đệ nhất cho nên Ngài không nói có hay không. Nếu nói không thì bị chúng đánh mà nói có thì trái với đạo, cho nên Ngài nói: “Chúng chánh mạng Sa Môn quả không, chúng Thích Ca Sa Môn quả có. A la hán còn tham dục thì đời không có người ngu si”. Ngài nói một dọc như vậy chúng nghe không kịp, tưởng ngài khen nên chúng tha cho đi. Quý vị có hiểu Ngài Xá Lợi Phất nói gì không? Phân tích thì Ngài nói đúng với Phật Pháp, nhưng Ngài không nói rõ. Ngài nói “chúng chánh mạng Sa Môn quả không” nghĩa là trong chúng Ni kiền tử không có quả Sa Môn, không có bốn quả vị Thanh Văn, “chúng Thích Ca Sa Môn quả có”, có nghĩa là trong chúng xuất gia hàng đệ tử Phật thì có chứng được bốn quả Thanh Văn, còn nếu cho rằng ngoại đạo Ni kiền tử còn tham dục mà chứng được bốn quả Thanh Văn thì đời này không có người ngu si. Bậc A la hán mà còn tham dục thì đời không có ngu si. Trên thực tế ở đời vẫn có ngu si thì A la hán phải sạch tham dục. Mà chúng chánh mạng tức là ngoại đạo Ni kiền tử này còn tham dục mà đòi chứng được A la hán thì chuyện đó không có bao giờ.

Tới phiên gặp Ngài Mục Kiền Liên, nó đón đường lại và hỏi như trên: “Trong chúng chánh mạng có Sa Môn quả không?”. Thường ngày Ngài Mục Kiền Liên hay dùng thần thông để chiết phục ngoại đạo. Vì thời bấy giờ ở Ấn Độ người ta chú trọng thần thông, nếu giáo hóa mà không có thần thông thì người ta không tin, nên duy chỉ có Ngài Mục Kiền Liên là người đặc biệt được đức Phật cho phép sử dụng thần thông để giáo hóa những người ngoại đạo. Ngài đã chứng A la hán nghĩa là Ngài đã có đạo thông, đã thông suốt về đạo, cái chính đã được thành hình nên khi dùng thần thông không bị lầm. Lúc ấy Ngài Mục kiền liên đáp một cách rất thẳng thắn: “Chúng chánh mạng thì làm gì có Sa Môn quả”. Nghe vậy, chúng tức giận xúm lại đánh ngài đến ngất xỉu, thân thể chảy máu. Khi đó Ngài Xá Lợi Phất đã đi được một đoạn, quay lại nhìn không thấy bạn mình nữa cho nên trở lại tìm thì thấy Ngài Mục Kiền Liên đã bị đánh ngất xỉu. Ngài Xá Lợi Phất dùng y Tăng già lê cuốn lại và đem về. Các Thầy tỳ kheo thấy vậy rất thương cảm nên đến thăm và hỏi rằng: “Hằng ngày Ngài thường dùng thần thông để bay đi tự tại và chiết phục được ngoại đạo, thần thông của Ngài cao hơn ngoại đạo nữa, sao lúc đó Ngài không dùng thần thông bay đi mà lại đứng lại để cho ngoại đạo đánh đến như vậy?”. Ngài Mục Kiền Liên đáp: “Nghiệp lực đáo thời, thần chi nhất tự, thượng bất nan ức, huống phát thông tai”, có nghĩa là khi nghiệp lực đã tới rồi thì một chữ thần còn không kịp nhớ, làm sao mà phát thông cho kịp. Sau trận bệnh đó thì Ngài tịch.

Thường chúng ta cũng thắc mắc tại sao Ngài nói sự thật mà lại bị bọn ngoại đạo đánh đến như vậy, tại sao thường ngày Ngài dùng thần thông để chiết phục ngoại đạo, thần thông của Ngài cũng vượt xa ngoại đạo nữa mà lúc này Ngài lại phải chịu một sự đánh đập như vậy, quá là vô lý. Chúng ta có tâm như vậy là có tâm tốt đối với Ngài Mục Kiền Liên và tốt với chánh pháp, nhưng vì chúng ta quan trọng thân này quá mà quên rằng nghiệp đã tạo rồi thì không thể dùng sức thần thông để có thể hóa giải được. Một điểm quan trọng nữa, chúng ta cảm thấy không bằng lòng khi thấy ngoại đạo đánh Ngài Mục Kiền Liên như vậy là bởi vì mình chỉ thấy trên quả mà không biết nhân. Ngày hôm nay sở dĩ Ngài Mục Kiền Liên bị sự đánh đập như vậy là do trong tiền kiếp, Ngài đã từng làm nghề chài lưới giết rất nhiều cá và từng đốt rất nhiều tổ ong cho nên bây giờ phải trả quả báo như vậy. Khi nghiệp đã chín muồi thì không thể dùng thần thông để trốn thoát được, nếu trốn thoát được thì đâu có công bằng với luật nhân quả. Nghiệp đã tạo với người mà bây giờ dùng thần thông để trốn thì đó là mình trốn nợ và không công bằng.

Vậy tổng kết lại cho quý vị thấy, Ngài Mục Kiền Liên không thể dùng thần thông để thổi tắt lửa cho mẹ ăn cơm được, không thể dùng thần thông để cõng mẹ đi sang phương khác để thoát khỏi cái nghiệp ác mà bà đã tạo. Rồi một lần nữa, Ngài Mục Kiền Liên đã nhiệt tình dùng thần thông để cứu năm trăm người dòng họ Thích vào trong bát và bay sang phương khác, nhưng cuối cùng cũng không thành công. Và cho đến chính bản thân Ngài, khi nghiệp đã chín muồi thì cũng phải thọ báo và không thể trốn thoát được định nghiệp. Qua đó, chúng ta thấy rất rõ ràng, thần thông không thể chuyển được nghiệp cho chính mình, cũng không thể dùng thần thông mà giải nghiệp cho người thân của mình được. Nghiệp đã tạo thì dù là tình thân như cha mẹ, anh em ruột thịt cũng không thể thay thế cho nhau được. Cho nên muốn hết khổ thì chúng ta phải tu ngay ba nghiệp để chuyển nghiệp chứ không phải mong cầu có thần thông để chuyển nghiệp. Bởi vì thần thông không thể giúp cho mình tiêu nghiệp được.

2/ Đạo thông mới chuyển được nghiệp.

Có thể có vị sẽ thắc mắc, Ngài Mục Kiền Liên có thần thông, lại chứng A la hán nữa thì tại sao Ngài không thoát được cái nghiệp của Ngài đã tạo? Như vậy người đã có đạo thông cũng bị trả nghiệp hay sao? Quý vị nghĩ Ngài Mục Kiên Liên có trả nghiệp hay không? Nếu mình nói là có trả thì cũng phải vì mình đang là phàm phu, dưới con mắt phàm tình thì mình thường nhìn trên hình tướng, vì chỉ thấy trên tướng cho nên thấy Ngài có bị đánh, có trả nghiệp rõ ràng. Nếu Ngài Mục Kiền Liên chỉ có thần thông mà chưa chứng A la hán thì khi bị ngoại đạo đánh như vậy, Ngài sẽ đau khổ, sẽ khởi niệm hận thù rồi chính niệm đó sẽ dẫn Ngài sanh đường ác. Như vậy là ngài đã trả nghiệp một cách trọn vẹn như bao nhiêu người phàm phu khác. Nhưng vì Ngài đã chứng A la hán, sạch hết lậu hoặc, giải thoát mọi khổ não, không còn thấy thân này là thật, cái đau là thật, nghiệp là thật cho nên khi nghiệp báo đến, tuy trên hình tướng là có trả, nhưng Ngài không còn khổ giống như phàm phu chúng ta, cho nên sau khi tịch thì Ngài nhập vào vô dư y Niết Bàn, an lạc giải thoát và không còn sanh tử nữa. Đó là trả mà không trả. Không trả mà trả, trả mà như không trả, đây chính là tinh thần đặc biệt trong nhà Thiền nói riêng và trong nhà Phật nói chung.

Minh họa một ví dụ cho quý vị dễ thấy, giả sử ngày xưa mình lỡ mắng chửi một người nào đó thậm tệ và khiến cho họ đau khổ tột cùng. Hôm nay, khi quả báo chín muồi, mình bị người khác chửi mắng thậm tệ lại giống như ngày xưa mình từng mắng chửi người khác. Nếu trong lúc này chúng ta chưa biết đạo lý thì sẽ rất đau khổ và buồn bực. Nhưng với người thâm nhập phần nào về đạo lý, biết rõ rằng tiếng chửi của người ấy phát ra trong khi nóng giận là nhất thời trong bất giác, họ đang mê nên nói lời thiếu chính xác thì chúng ta sẽ không chấp, không buồn và còn trở lại thương cho sự sân hận của người đó là rất khổ. Cao hơn nữa, quý vị thấy thân này là không thật, là giả tạm trong một thời gian ngắn, nghiệp mình không thật thì cái họ đang phát ra đó cũng từ một cái nghĩ không thật của họ, mình cũng không thật thì cái gì thọ báo.

Như vậy ngày xưa vì mê cho nên mình chửi họ, nay bị người khác chửi lại đó là chúng ta đang thọ báo và trả nghiệp một cách rõ ràng. Hôm nay vì biết đạo lý, khi nghe chửi, mình không thấy khổ như người mê mà còn sáng suốt biết thương người đang chửi. Như vậy trên hiện tướng thì mình có trả mà thực ra không trả gì hết, có khổ đâu mà trả.

Như vậy chính đạo thông mới có khả năng giải được nghiệp đã tạo, chính đạo thông mới có khả năng dừng được sức mạnh của nghiệp. Đạo thông là cái quan trọng, cái chính yếu mà người tu chúng ta cần phải để tâm lo tu hành. Còn thần thông thì không thể dùng nó để tránh được nghiệp đã tạo. Chính đức Phật là người đã trải qua nhiều số kiếp tu hành đạt đạo, có thần thông và Ngài thấy được rõ ràng sự lợi và hại của thần thông, thấy thần thông không quan trọng, dễ làm mê hoặc, làm chướng đạo tâm người khác nên Ngài không dạy chúng ta tu để cầu được thần thông. Đồng thời răn nhắc, ngăn cấm không cho chúng ta sử dụng thần thông. Nếu là người thực tâm học Phật thì chúng ta phải lưu tâm đến vấn đề này.

Giờ quý vị đã biết thần thông không thể giải được nghiệp, muốn giải được nghiệp thì chỉ có đạo thông, thông suốt được đạo lý. Mà rốt ráo đạo thông chính là sự giác ngộ, nhận lại tánh giác sẵn có nơi chính mỗi người chúng ta. Chỉ cần không theo những cái vọng giả thì tánh giác sẵn có sẽ hiện tiền. Chính khi tánh giác hiện tiền là chúng ta đã có được năng lực giác ngộ. Chính sức giác ngộ đó giúp mình chuyển được nghiệp và chuyển được thần thông. Quý vị phải nhớ tánh giác đó là ngay nơi chính mình, không phải ở bất cứ chỗ nào mà phải đi cầu xin hay luyện thần thông mới có được. Thấy được cái nào là chính, cái nào là phụ như vậy thì chuyện tu hành của mình mới không bị sai lầm. Hằng ngày chúng ta ngay nơi ba nghiệp thân, khẩu, ý của mình mà tu. Thay vì ngày xưa mình nói ác, nghĩ ác, làm ác thì chịu quả báo ác. Bây giờ biết tu rồi thì sửa lại, vừa nghĩ ác thì mình không theo, không tạo ác, không có quả báo khổ. Đồng thời nên nghĩ và làm những việc lành thì chúng ta sẽ được quả báo lành và an vui. Nếu quý vị nào phát tâm tu mạnh hơn thì hằng ngày cũng ngay nơi ba nghiệp thân, khẩu, ý của mình, chỉ là tùy theo duyên của cuộc sống mà tiêu dung những nghiệp cũ và không tạo thêm nghiệp mới, đó là đã dừng được nghiệp. Mà không tạo nghiệp thì không còn động lực đẩy mình đi trong sanh tử luân hồi, là dứt hết mọi khổ đau.

IV. Lời kết

Tóm lại , thần thông trong đạo Phật là có thật. Ở thời Phật tại thế, đã có rất nhiều câu chuyện mà Phật và các đệ tử của ngài như Mục Kiền Liên, Xá Lợi Phất, Liên Hoa Sắc … sử dụng thần thông.

Theo quan điểm của đạo Phật thì khi hành giả đắc được cảnh giới A La Hán thì sẽ chứng đắc được tam minh , kèm theo 6 loại thần thông ( lục thông). Tuy vậy mục đích chính của đạo Phật là giác ngộ và giải thoát , thần thông có quá nhiều hạn chế gây nhiều ảnh hưởng không tốt đến người sử dụng , lẫn những người khác. Thần thông không thắng được nghiệp lực , nếu đã gây nghiệp xấu ác đến hồi trả quả thì có bay lên trời , xuống biển , trốn đến bất kỳ đâu cũng vẫn phải chịu.

Sách điện từ Online – Phật học Đại cương Tâm Học 2022 . Cuốn sách do Tâm Học soạn lại từ các bài viết, sách sưu tầm được chủ yếu từ mạng Internet ( Phật học Tinh yếu – HT Giới Đức , Nền tảng Phật giáo – Tỳ kheo Hộ Tăng, các bài viết phatgiao.org.vn  , giacngo.vn , daophatngaynay.com …) . Tâm Học là trang webs của cá nhân  ; không phải chùa hay tổ chức tôn giáo . Nội dung của cuốn sách này chỉ có giá trị tham khảo.

Hits: 26

Post Views: 335