Xuất Xứ:
Đức Thế Tôn thuyết giảng Pháp Thoại này khi cùng với Bà La Môn SONADANDA trú ngụ tại thành CAMPÀ, trên bờ hồ GAGGARA, thuộc nước MAGADHA (Ma Kiệt Đà), do đức vua BIMBISÀRA trị vì.
Duyên Khởi:
Khi biết được tin đức Thế Tôn cùng với 500 vị tỳ khưu tăng lưu trú tại thành CAMPÀ, một số Bà La Môn và gia chủ cư ngụ tại đây đã cảm thấy phấn khởi. Những vị này khởi lên ý muốn được đến chiêm bái yết kiến Ngài, trong đó có Bà La Môn SONADANDA, mặc dầu số đông Bà La Môn và gia chủ đã khuyên bảo SONADANDA là không nên đi đến yết kiến đức Phật bởi vì Ngài không xứng đáng được như vậy.
Biện minh cho việc đi đến, Bà La Môn SONADANDA đã trình bày rất nhiều ưu điểm như sau trong vô lượng ưu điểm của đức Thế Tôn, cho thấy là Ngài rất xứng đáng để được tôn kính, yết kiến, và chiêm ngưỡng:
Chánh Kinh:
Cùng với đại chúng Bà La Môn đi gần đến bờ hồ GAGGARA, Bà La Môn SONADANDA khởi lên ưu tư trong tâm trí, lo sợ cuộc đối thoại này sẽ đem lại thất bại cho mình vì không biết đặt câu hỏi xứng đáng hay không biết trả lời xứng đáng khi tiếp xúc với đức Thế Tôn. Và cũng nghĩ là nếu quay trở lại, không gặp đức Thế Tôn, cũng đem đến sự thất bại; do vậy, tâm trí bị dao động và lo lắng khác thường.
Đức Thế Tôn vấn hỏi Bà La Môn SONADANDA
Với tuệ liễu tri về sự phân vân lo lắng của Bà La Môn SONADANDA, đức Phật đã đặt câu hỏi thuộc lãnh vực thông thạo về Sử Truyền của Tam Phệ Đà (Vedà), liên quan đến sự thành tựu một vị Bà La Môn, thì phải hội đủ bao nhiêu đức tánh để có được như vậy.
Bà La Môn SONADANDA trả lời đức Phật
Với câu trả lời đầu tiên, thì ông SONADANDA cho rằng, phải hội đủ cả năm đức tính như sau, thì mới được gọi là một vị Bà La Môn:
Cuối cùng, ông SONADANDA xác định cụ thể với đức Phật và với hội chúng đang ngồi đoanh vây Ngài là chỉ cần hội đủ cả hai và không thể bỏ mất một trong hai đức tánh đó, thì vẫn được gọi là một vị Bà La Môn. Kèm theo lời dẫn chứng cháu trai có tên gọi là ANGAKA, cho dù được hội đủ cả năm đức tính, nhưng Tà Hạnh phá giới (trong Ngũ Giới), thì vẫn không xứng đáng được gọi là một vị Bà La Môn.
Ông SONADANDA khẳng định hai đức tính còn lại có tính hỗ tương rất chặt chẽ. “Trí tuệ được giới hạnh làm cho thanh tịnh, giới hạnh được trí tuệ làm cho thanh tịnh. Chỗ nào có giới hạnh, chỗ ấy có trí tuệ. Chỗ nào có trí tuệ, chỗ ấy có giới hạnh. Người có giới hạnh nhất định có trí tuệ, người có trí tuệ nhất định có giới hạnh. Giới hạnh và trí tuệ được xem là tối thắng ở trên đời.”
Đức Phật xác nhận và nêu lên quan điểm của Ngài về giới hạnh và trí tuệ
(Theo đúng như trong Kinh Quả Báo Sa Môn, từ quả báo thứ 9 cho đến thứ 13). Phương pháp của đức Phật thường dùng là đối thoại, một cuộc nói chuyện rất cởi mở với đối phương. Đầu tiên Ngài đứng về phía đối phương, chấp nhận mọi danh từ, định nghĩa, quan niệm của đối phương để tìm hiểu vấn đề, nhưng dần dần Ngài hướng đối phương về quan điểm của Ngài, và cuối cùng Ngài thu phục đối phương trở lại quy ngưỡng Ngài.
Sự quy ngưỡng và cúng dường của Bà La Môn SONADANDA
Đức Thế Tôn khéo thuyết giảng, với nhiều phương tiện trình bày và giải thích, đã làm cho Bà La Môn SONADANDA tỏ niềm tịnh tín, xin quy y Tam Bảo, và trọn đời quy ngưỡng. Sau đó đã thiết lễ cúng dường vật thực đến đức Phật cùng hội chúng tỳ khưu tăng tại nhà của Ông. Và Ông cũng đã tỏ lời tác bạch với sự cung kính đảnh lễ và cúng dường đức Thế Tôn bằng cả thân ngữ ý thanh tịnh, hợp theo cung cách của một vị Bà La Môn.
Kết Luận:
Pháp nhũ được khéo giảng dạy, khích lệ, và kích thích bởi đức Thế Tôn đã làm cho Bà La Môn SONADANDA phấn khởi hân hoan với Ngài, từ nơi chỗ ngồi đã đứng dậy và từ giã ra về.
Tìm hiểu Kinh tạng Nikaya – Tâm học là cuốn sách Online giới thiệu về bộ kinh Nikaya , các bản dịch và chú giải được Tâm Học soạn từ các nguồn đáng tín cậy trên mạng internet.
Tuy nhiên đây vẫn là sách chỉ có giá trị tham khảo , mang tính chủ quan của tác giả Tâm học.
Hits: 17