TRUNG BỘ KINH – BÀI KINH SỐ 43
Đại kinh Phương quảng
Mahàvedalla Sutta – The greater series of questions and answers.
These two discourses take form of discussions on various subtle points of Dhamma, the former between the venerable Mahà Kotthila and the venerable Sàriputta, the latter between the bhikkhunì Dhammadinnà and the lay follower Visàkha.
Tập hợp lớn các vấn đáp.
Hai kinh này mang hình thức đàm luận những điểm tế nhị về Pháp. Kinh trước là giữa hai tôn giả Câu thi la và Xá lợi phất, kinh sau giữa tỳ kheo ni Dhammadinnà và cư sĩ Visàkha.
Tôn giả Xá lợi phất luận đàm với Ma ha Câu thi la về các điểm:
Vô lượng tâm giải thoát là do tu bốn phạm trú từ bi hỷ xả;
Vô sở hữu là do vượt trên Thức vô biên xứ, chứng trú Vô sở hữu xứ;
Không tâm giải thoát là thiền quán về sự trống rỗng, không có ngã hay ngã sở;
Vô tướng tâm giải thoát là do không tác ý tất cả tướng, an trú định vô tướng.
Cả bốn tâm giải thoát đồng nghĩa, vì nó là đặc tính của quả chứng, tức tâm giải thoát bất động, không bị động vì tham sân si. Tham sân si là nguyên nhân của giới hạn, nên không tham sân si là tâm giải thoát vô lượng; tham sân si là chướng ngại, nên không tham sân si là Không tâm giải thoát và vô sở hữu tâm giải thoát; tham sân si là cái tạo ra các tướng, nên không tham sân si gọi là giải thoát vô tướng.
III. CHÚ GIẢI
Tôn giả Ma ha Câu thi la được Phật tuyên bố là đệ nhất về trí phân tích, tài biện thuyết.
Trong thiền định, thân hành là hơi thở ra vào; khẩu hành là tầm tứ; ý hành là thọ, tưởng. Luận nói, bình thường, các căn bị ô nhiễm vì đối tượng giác quan, như một tấm gương đặt tại ngã tư đường cái; nhưng các căn của một vị ở trong Diệt định thì trong sáng như một tấm gương đặt trong hộp.
Thọ hành, àyusankhàrà, theo Luận, chỉ sinh khí, khác với cảm thọ, vì nó giữ cho thân xác một vị đã chứng Diệt thọ tưởng vẫn sống. Thiền chứng này, trong đó mọi tâm hành đều ngưng, chỉ được chứng đắc bởi một vị đã đắc quả Bất hoàn hay A la hán mà đồng thời cũng đã làm chủ tám thiền về tịnh chỉ.
Vô tướng tâm giải thoát là quả chứng. Tướng là sắc, vv.; vô tướng giới là Niết bàn, trong đó vắng bóng mọi tướng hữu vi sinh diệt. Luận giải Không tâm giải thoát, sunnatà cetovimutti, là tuệ chứng nhân và pháp đều vô ngã, không tự tính. Trong bốn tâm giải thoát, chỉ có Vô tướnggiải thoát là thuộc siêu thế. Ba giải thoát trước đấy, vô lượng là Bốn phạm trú, Vô sở hữu là định vô sắc thứ ba trong bốn vô sắc, và Không giải thoát – tuệ thấy rõ các hành là không – đều thuộc thế gian.
Tham, sân, si làm nên những hạn lượng, pamànakarana, vì chúng áp đặt giới hạn trên phạm vi và chiều sâu của tâm thức. Nhưng theo Luận giải, vì nó khiến người ta đo lường một người nào là phàm phu, Dự lưu, Nhất lai hay Bất hoàn.
Luận nói có 12 tâm giải thoát là: 4 phạm trú, 4 đạo, 4 quả. Tâm giải thoát bất động là quả A la hán. Nói tâm trống rỗng tham, sân, si, là tâm giải thoát siêu thế nhờ không tướng vì tham sân si tạo ra các tướng.
Có chín tâm giải thoát nhờ không tướng: vô sở hữu xứ và 4 đạo, 4 quả.
Theo Luận, những cái tạo nên tướng, nimittakarana, là tham sân si vì chúng dán nhãn hiệu lên một người là phàm hay thánh, là tham hay sân hay si. Nhưng cũng có thể hiểu rằng ô nhiễm tham sân si này khiến tâm gán cho sự vật các đặc tính sai lạc như trường tồn, khả ái, có tự ngã, đẹp đẽ.
Luận giải: có 13 vô tướng tâm giải thoát là: tuệ, vì nó tẩy trừ các tướng thường, lạc, ngã; 4 định vô sắc, vì chúng không có tướng vật chất; và 4 đạo 4 quả, vì chúng không có ô nhiễm.
Cả 4 tâm giải thoát đều đồng nghĩa vì chúng đều ám chỉ quả A la hán, và vì bốn tên vô lượng, không, vô tướng, vô sở hữu đều là tên khác của Niết bàn.
Ba thọ, bốn chân lý, bốn phạm trú, bốn không, bốn tâm giải thoát, năm pháp trợ duyên cho chính kiến đưa đến giải thoát: giới, văn, thảo luận, chỉ, quán.
Tôn giả Xá lợi phất
Định nghĩa và phân biệt
Chỗ tế nhị các pháp
Với Đại Câu thi la.
Không biết bốn chân lý
Thị gọi là Liệt tuệ
Trí tuệ là thắng tri,
Liễu tri và đoạn tận.
Tuệ tri do tu tập
Thức tri biết cảm thọ
Lạc, khổ và trung tính.
Tuệ, thức có tương quan.
Ý thức biệt lập căn:
Chứng Không vô biên xứ
Từ đấy Thức vô biên
Và Vô sở hữu xứ.
Có hai điều kiện này
Đưa đến chính tri kiến:
Là tiếng của người khác,
và như lý tác ý.
Đạt Tâm, tuệ giải thoát
Nhờ chính kiến kèm thêm:
Giới, Văn, và Thảo luận,
Tịnh chỉ và Tuệ quán.
Tái sinh trong tương lai
Do vô minh, tham ái,
Thích thú các khoái lạc
Ở chỗ kia chỗ này.
Thiền thứ nhất bỏ gì:
Ác dục, bất thiện pháp,
Cùng với 5 triền cái
Tham sân ngủ hối nghi
Thành tựu 5 thiền chi
Tầm, tứ, hỷ, lạc, định.
Năm căn đối tượng khác
Nhưng cùng nương vào Ý
Do tuổi thọ mà trú
Tuổi thọ do hơi ấm,
Hai thứ duyên lẫn nhau
Như đèn với bấc, dầu.
Thọ hành khác cảm thọ:
Thọ hành là sinh mạng
Chứng Diệt thọ tưởng định
Dứt cảm thọ, còn mạng
Nên không phải chết luôn
Xuất định, lại cảm giác.
Thân chết khi từ bỏ
Thọ mạng, hơi ấm thức.
Muốn đạt tâm giải thoát
Vượt ngoài khổ và lạc
Phải xả lạc, xả khổ,
diệt hỷ ưu đã thọ,
chứng trú thiền thứ tư
với xả niệm thanh tịnh.
Muốn giải thoát Vô tướng
Cần có hai điều kiện:
Tác ý vô tướng giới
Và không tác ý gì.
Bốn tâm giải thoát này
Khác nghĩa do nhân tu
Đồng nghĩa do quả chứng:
Vô lượng do phạm trú
Quán từ bi hỷ xả;
Vô sở hữu giải thoát
Do quán Thức là không.
Đạt Không tâm giải thoát
Do quán ngã ngã sở
Trống rỗng, không có gì.
Vô tướng tâm giải thoát
Do đắc định vô tướng.
Bốn tâm ấy đồng nghĩa
Chỉ quả vị La hán
Vì ám chỉ bất động,
Không động tham sân si
Vì chính tham sân si
Mới làm nên hạn lượng,
Mới làm nên chướng ngại
Và tạo ra các tướng.
-ooOoo-
Tìm hiểu Kinh tạng Nikaya – Tâm học là cuốn sách Online giới thiệu về bộ kinh Nikaya , các bản dịch và chú giải được Tâm Học soạn từ các nguồn đáng tín cậy trên mạng internet.
Tuy nhiên đây vẫn là sách chỉ có giá trị tham khảo , mang tính chủ quan của tác giả Tâm học.
Hits: 30