Xuất Xứ:
Đức Phật đã thuyết giảng Pháp Thoại này khi nói chuyện với du sĩ ngoại đạo POTTHAPÀDA ở hội thảo trường, thuộc khu vườn EKASÀLAKA với hàng rào cây TINDUKA của hoàng hậu MALLIKA, tại thành SÀVATTHI (Xá Vệ).
Duyên Khởi:
Khi thời gian hãy còn quá sớm để đi khất thực, đức Phật khởi lên một ý nghĩ, là đến dự cuộc bàn luận về Chánh Kiến và Tà Kiến với đại chúng của du sĩ ngoại đạo POTTHAPÀDA tại hội thảo trường.
Chánh Kinh:
POTTHAPÀDA vấn hỏi đức Phật về vấn đề diệt tận các Tăng Thượng Tưởng
Đức Phật bác bỏ những quan niệm sai lạc về cái gọi là “linh hồn” và trình bày quan điểm của Ngài. Theo quan niệm xa xưa của một số vị Sa Môn, Bà La Môn ngoại đạo, có ba quan điểm luận thuyết như sau:
Khi các vị này khiến Tưởng nhập vào trong người thì người ấy có Tưởng. Khi kéo Tưởng ra ngoài, thì người ấy không có Tưởng.
Đức Phật giải thích tuần tự cách thức diệt trừ các Tưởng
Đức Phật bác bỏ các luận thuyết trên và giải thích chính nhờ sự tu tập, các Tưởng có sanh có diệt. Ngài trình bày các định ở Sắc Giới để chứng minh sự sanh, sự diệt của các Tưởng trong Thiền Định.
Khi đạt đến Tưởng tột đỉnh, tự mình khởi lên Tưởng rằng, “Tâm còn suy tưởng có hại mà thôi, không suy tưởng mới tốt hơn. Nếu cứ tiếp tục suy tưởng, khi những tưởng này diệt đi, thì nhưng thô tưởng khác lại khởi lên; do vậy, đừng có suy tưởng.” Do không có suy tưởng, các tưởng được diệt tận, và các thô tưởng khác không khởi lên, vị tỳ khưu ấy cảm nhận sự diệt tận các Tưởng. Như vậy, sự chứng đạt trí tuệ diệt trừ dần dần các tăng thượng Tưởng.
Đức Phật nói đến sự khác biệt giữa một Tưởng và nhiều Tưởng, về Tưởng và Trí, về Tưởng và Tự Ngã
Với một cảm thọ về sự diệt tận của một Tưởng tiếp sau một Tưởng khác, vị tỳ khưu ấy sẽ đạt đến nhiều Tưởng tuyệt đỉnh sai khác, tiếp nối nhau và cho đến Tưởng tuyệt đỉnh cuối cùng.
Do duyên với Tưởng, Trí mới sanh khởi. Tưởng sanh khởi trước, Trí mới khởi sanh sau. Do Tưởng sanh thì Trí mới sanh.
Cần phải hiểu có ba loại Ngã Chấp:
Với người còn dị kiến, niềm tin và lý tưởng sai khác nhau, thiên tư và hạnh nguyện sai khác nhau, thì thật khó biết được về “Tưởng là tự ngã” hay “Tưởng khác, Tự Ngã khác.”
Phật không bàn luận về Vũ Trụ Quan và Nhận Định Quan
Với thái độ không độc tôn và không quá khích của mình về những vấn đề bất khả thuyết của Vũ Trụ Quan và Nhận Định Quan, như thế giới là Thường hay Vô Thường, đức Phật đã không đề cập đến vì không thuộc về đích giải thoát, không thuộc về pháp căn bản của Phạm Hạnh, không đưa đến yểm ly, ly dục, thắng trí, giác ngộ, và Níp Bàn.
Đức Phật không trả lời về thế giới Vô Thường hay Thường Tồn, Hữu Biên hay Vô Biên, Sinh Mạng và Thân Thể là một hay sai khác, Như Lai tồn tại hay không tồn tại sau khi tịch diệt, v.v… Đức Phật chỉ đề cập đến Tứ Đế, bốn chân lý Khổ, Tập, Diệt, Đạo. Vì những vấn đề này thuộc về đích giải thoát, đưa đến Ly Dục, thuộc về pháp căn bản của Phạm Hạnh, và an vui Níp Bàn.
Khi dứt Pháp Thoại với POTTHAPÀDA thì cũng phải lẽ, nên Đức Thế Tôn từ chỗ ngồi, đứng dậy ra về. Và với phương pháp như thực, chân chánh, dùng Pháp làm cơ bản và quy tắc đã làm cho POTTHAPÀDA buộc miệng tán thành Đức Phật trước những du sĩ ngoại đạo hiện diện tại đấy.
Hai phương cách thuyết giảng của đức Phật
Hai ngày sau, CITTA HATTHISÀRIPUTTA và du sĩ ngoại đạo POTTHAPÀDA đi đến đảnh lễ đức Phật và nghe pháp. Đức Phật đã nói với CITTA HATTHISÀRIPUTTA và POTTHAPÀDA về hai phương cách thuyết giảng của Ngài như sau:
*Đức Phật bác bỏ mọi chủ kiến bất chánh phi lý về “Sau khi chết, Tự Ngã hoàn toàn hạnh phúc, vô bệnh”:
Pháp nhũ mà đức Phật khải thuyết nhằm diệt trừ mọi ngã chấp (ba Ngã Chấp kể trên) đã làm cho Tịnh Pháp được tăng trưởng, ngay hiện tại tự mình giác ngộ, thực chứng, thông đạt và an trú trí huệ, sung mãn quảng đại, thời khoan khoái sanh, hoan hỷ, khinh an, chánh niệm, chánh trí, lạc trú sanh khởi, và tuyệt diệt mọi khổ đau. Đó là những lời nói chân chánh hợp lý, khiến cho người thực hành theo được tự mình giác ngộ, thực chứng và an trú trí huệ, sung mãn quảng đại.
Đức Phật chỉ cách nhận định về ba Ngã Chấp theo Thời Gian
Để trả lời câu hỏi của CITTA HATTHISÀRIPUTTA về sự tồn tại của ba Ngã Chấp, đức Phật đã xác định như sau:
Tuy nhiên, tất cả những pháp kể trên chỉ là những danh tự thế gian, ngôn ngữ thế gian, danh xưng thế gian, ký pháp thế gian. Đức Phật dùng chúng, nhưng không chấp trước vào những pháp này
Sự tán thán và quy ngưỡng của POTTHAPÀDA và CITTA HATTHISÀRIPUTTA
Đức Thế Tôn khéo thuyết giảng Pháp Thoại, với nhiều phương tiện trình bày và giải thích, đã làm cho hai du sĩ ngoại đạo này tán thán, tỏ niềm tịnh tín, xin Quy Y Tam Bảo, và trọn đời quy ngưỡng.
Cuối cùng được sự chấp thuận của đức Phật, CITTA HATTHISÀRIPUTTA đã xuất gia và thọ Cụ Túc Giới. Với nhiệt tâm cần mẫn, độc cư an tịnh, không phóng dật, không bao lâu vị tỳ khưu này chứng được mục đích tối thượng mà con cháu các lương gia đã xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình, hướng đến.
Đó là Vô Thượng Phạm Hạnh ngay trong hiện tại, tự tác chứng và an trú. Sanh đã tận. Phạm Hạnh đã thành. Việc nên làm đã làm. Sau đời này, sẽ không có đời sống khác nữa.
Kết Luận:
Đại Đức CITTA HATTHISÀRIPUTTA trở thành một vị A La Hán.
Tìm hiểu Kinh tạng Nikaya – Tâm học là cuốn sách Online giới thiệu về bộ kinh Nikaya , các bản dịch và chú giải được Tâm Học soạn từ các nguồn đáng tín cậy trên mạng internet.
Tuy nhiên đây vẫn là sách chỉ có giá trị tham khảo , mang tính chủ quan của tác giả Tâm học.
Hits: 17