TRUNG BỘ KINH – BÀI KINH SỐ 18
Mật hoàn
Madhupinkika Sutta – the honey ball.
The Buddha utters a deep but enigmatic statement about “the source through which perceptions and notions tinged by mental proliferation beset a man.” This statement is elucidated by the venerable Mahakaccàna, whose explanation is praised by the Buddha.
Viên mật.
Phật thốt lên một lời phát biểu sâu sắc nhưng khó hiểu về “cái nguồn gốc từ đấy các nhận thức và quan niệm đầy thiên kiến ám ảnh một con người.” Lời phát biểu ấy được tôn giả Đại Ca chiên diên làm sáng tỏ, và sự giải thích của tôn giả được Phật khen ngợi.
Gậy cầm tay, một người dòng Sakka, đến hỏi Phật có quan điểm thế nào, giảng thuyết những gì. Phật dạy, Ngài giảng cái thuyết “không tranh luận với bất cứ ai, vì các tưởng (nhận thức) không còn ám ảnh vị bà la môn sống không có tham dục, hoài nghi, trạo hối, không có tham ái đối với hữu hay phi hữu.”
Khi nghe vậy, người kia không hiểu, tỏ vẻ bất mãn bỏ về. Các tỳ kheo xin Phật giải thích, Ngài dạy thêm: “Nếu một người không có thái độ hoan hỷ, đón mừng, chấp trước đối với những hý luận vọng tưởng, thì đấy là đoạn tận các tùy miên tham, sân, nghi, kiến, mạn, hữu tham, đoạn tận đấu tranh bằng lời, bằng gươm giáo; đoạn tận ly gián ngữ, vọng ngữ. Các bất thiện ấy được tiêu diệt không có dư tàn”.
Tôn giả Ca chiên diên triển khai lời dạy vắn tắt của Phật như sau:
Do xúc – sự gặp gỡ giữa căn, trần, thức – có thọ; do thọ có tưởng; do tưởng có suy tầm; do suy tầm có hý luận khởi lên. Nhân hý luận ấy, một số vọng tưởng ám ảnh con người. Nếu không có xúc thì không có thọ; không có thọ thì không tưởng; không tưởng thì không suy tầm; không suy tầm thì không hý luận vọng tưởng. Không hý luận vọng tưởng thì không có đấu tranh, và các ác bất thiện pháp [tham, sân, si, mạn, nghi, kiến, hữu tham] được tiêu diệt không dư tàn.
III. CHÚ GIẢI
Gậy cầm tay Dandapàni, có tên như vậy vì ông ta thường cầm gậy bịt vàng đi khắp nơi với vẻ tự cao. Ông theo cánh của Đề bà đạt đa, người phá tăng. Câu hỏi của ông có vẻ khiêu khích, câu trả lời của Phật phần đầu là để đối lại thái độ khiêu khích ấy.
Bà la môn nói trong câu này chỉ A la hán, hoặc chính bản thân Phật.
Hý luận vọng tưởng, papanca – sannà – sankhà, được dịch là “mental proliferation”, thiên kiến. Luận giải nguồn gốc của hý luận vọng tưởng là tham (đối với sắc pháp), mạn (“tôi là”) và kiến (chấp thường), qua đó tâm thức “trau chuốt” kinh nghiệm bằng cách giảng giải nó theo tiêu chuẩn “tôi” và “của tôi”.
Tóm lại, Kinh này cốt hiển thị vòng sinh tử là 12 xứ – sáu căn tiếp xúc sáu trần. Nếu căn trần đừng ráp lại, thì hết sinh tử.
Năm pháp: Nguồn gốc hý luận vọng tưởng là Xúc (căn trần thức gặp gỡ), thọ, tưởng, tầm, hý luận.
Sáu căn: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý.
Sáu trần: Sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp.
Sáu thức: nhãn thức, nhĩ thức, tỷ thức, thiệt thức, thân thức, ý thức.
Bảy tùy miên: tham, sân, kiến, nghi, mạn, hữu tham, vô minh.
Mười hai xứ: sáu căn và sáu trần.
Mười tám giới: 6 căn, 6 trần, 6 thức.
-ooOoo-
Tìm hiểu Kinh tạng Nikaya – Tâm học là cuốn sách Online giới thiệu về bộ kinh Nikaya , các bản dịch và chú giải được Tâm Học soạn từ các nguồn đáng tín cậy trên mạng internet.
Tuy nhiên đây vẫn là sách chỉ có giá trị tham khảo , mang tính chủ quan của tác giả Tâm học.
Hits: 46