TRUNG BỘ KINH – BÀI KINH SỐ 22
Ví dụ con rắn
- TOÁT YẾU
Alaggadùpama Sutta – The simile of the snake.
A bhikkhu named Arittha gives rise to a pernicious view that conduct prohibited by the Buddha is not really an obstruction. The Buddha reprimands him and, with a series of memorable similes, stresses the dangers in misapplying and misrepresenting the Dhamma. The sutta culminates in one of the most impressive disquisitions on non-self found in the Canon.
Ví dụ con rắn
Một tỳ kheo tên Arittha khởi lên tà kiến cho rằng hành vi mà Phật cấm thực sự không phải là chướng ngại (cho giải thoát). Phật quở trách ông, và nói nhiều với nhiều ví dụ đáng nhớ, Ngài nhấn mạnh những nguy hiểm của việc áp dụng sai và giải thích Pháp một cách sai lạc. Cao điểm kinh này là một trong những thiên trường luận khởi sắc nhất về vô ngã được thấy trong Kinh tạng.
- TÓM TẮT
Do tỳ kheo Arittha khởi lên tà kiến “dâm dục không chướng ngại đạo như Phật đã nói.” Phật quở và dạy kinh này, gồm các phần: mục đích chính của việc học Pháp; các cách nắm giữ sai lạc; nguy hiểm của dục; các kiến xứ và nguy hiểm của kiến chấp.
- A) Phật quở Arittha xuyên tạc lời Ngài dạy. Ngài đã nhiều lần dạy về nguy hiểm của dục, vậy mà Arittha vẫn ôm giữ tà kiến “dục không chướng ngại đạo”. Phật dạy, ai học pháp để hý luận và chỉ trích – như thái độ của Arittha – thì không đạt mục đích việc họ pháp và sẽ đau khổ lâu dài. Lại nữa, học pháp cần nắm vững ý nghĩa với trí tuệ, nếu nắm không vững, tức hiểu sai, sẽ vô cùng tai hại, như bắt rắn đằng đuôi bị rắn quay đầu cắn. Phật ví dụ pháp Ngài dạy như chiếc bè để qua sông, không phải để ôm giữ. Ngay cả Pháp cũng nên bỏ, huống hồ phi pháp [như các dục].
- B) Kế tiếp Ngài dạy sáu kiến xứ, năm kiến xứ đầu là 5 uẩn tức nội thân, kiến xứ thứ sáu là ngoại giới hay đối tượng của năm uẩn, những gì được thấy, nghe, cảm, biết (kiến văn giác tri) qua sáu giác quan. Tất cả cần phải chân chính thấy là không phải “tôi”, “của tôi” hay “tự ngã của tôi”. Thấy như vậy gọi là thấy như thật với trí tuệ, sẽ đoạn trừ tham ái chấp thủ, đạt vô thượng an ổn khỏi các khổ ách. Nếu thấy có “tôi” và “của tôi” thì sẽ đau khổ khi mất mát do vô thường, biến hoại. Cái gì vô thường là khổ. Cái gì đã vô thường, khổ thì không nên xem là “tôi” và “của tôi”. Trong sáu kiến xứ, nếu thấy không gì là tôi hay của tôi, thì gọi là “xả pháp”, trong khi phần trên nói dạy từ bỏ dục gọi là “xả phi pháp”.
- C) Vì bất cứ gì ta yêu mến đều không bền, thay đổi, nên “dục thủ” là khổ. Kiến thủ, Ngã luận thủ – chấp có ngã – cũng vậy đều là những hình thức chấp ngã, đều đưa đến khổ.
III. CHÚ GIẢI
Nói “dục không chướng ngại đạo” là nói ngược lại một trong Bốn Vô úy của Phật.
Tự ngã của tôi: một linh hồn trường cửu vẫn tồn tại sau khi chết.
- PHÁP SỐ
Ba thủ: dục, kiến, ngã luận.
Ba pháp ấn: vô thường, khổ, vô ngã.
Bốn quả sa môn
Năm uẩn
Sáu kiến xứ: sắc, thọ, tưởng, hành, thức, và kiến xứ thứ sáu bao gồm tất cả những gì thấy nghe hay biết.
- KỆ TỤNG
- Mục đích học Pháp
1. Khởi nguyên của kinh này
Tà kiến A-ri-tha
“Dục không chướng ngại gì
Như Thế tôn thuyết giảng.”
Phật gọi đến quở trách:
“Học pháp cần tư duy
Quán sát với trí tuệ
Để đạt được mục tiêu
Mà pháp ấy nhắm đến.
Nếu người học Pháp ta
Cốt để mà chỉ trích
Và khoái khẩu biện luận
Nắm giữ pháp sai lạc
Sẽ đau khổ lâu dài
Không đạt đến mục tiêu.2. Ta đã nhiều lần dạy
“Dục vui ít khổ nhiều
Nguy hiểm càng nhiều hơn.”
“Dục như khúc xương khô
Như vật dùng mượn tạm
Như ôm đuốc ngược gió
Như hố than đỏ hừng.”
Nếu có ai bảo rằng
“Dục không chướng ngại đạo”
Là xuyên tạc Như lai
Tại nên nhiều tổn đức
Sẽ đau khổ lâu dài.B. Con rắn và chiếc bè
3. Ví như người bắt rắn
Nắm lấy rắn đằng đuôi
Thì bị rắn quay lại
Cắn người ấy chết tươi.
Học Pháp cũng như vậy
Chấp thủ pháp sai lạc
Là thái độ nguy hiểm
Gây đau khổ lâu dài.4. Lại như kẻ dùng bè
Vượt qua dòng sông rộng
Vác bè đi nghênh ngang
Là không biết dùng bè.
Pháp ta dạy cũng thế
Như bè để qua sông
Chính pháp còn nên bỏ
Huống hồ là phi pháp?C. Sáu kiến xứ
5. Đã bỏ dục – “phi pháp”
Lại còn nên bỏ “pháp”
Phật dạy sáu kiến xứ
Là để trừ pháp chấp.
Phàm phu không học Pháp
Đối với thân năm uẩn
Sắc, thọ, tưởng, hành, thức
Và những gì nhận biết
Qua sáu ngõ giác quan
Đều xem “tôi”, “của tôi”
Và “tự ngã của tôi”
Thường hằng, không biến đổi.6. Thánh đệ tử ngược lại
Đối với cả năm uẩn
Và kiến văn giác tri
Không xem “tôi”, “của tôi”
Không thấy gì trường cửu
Đáng gọi “tự ngã tôi”
Do quán sát như vậy
Không phiền muộn, âu sầu.7. Thân, tài sản không thực
Do xem “tôi”, “của tôi”
Nên khi nó hư hoại
Kẻ phàm phu lo sầu.
Thân, tài sản không thực
Không xem “tôi”, “của tôi”
Nên khi nó hư hoại
Thánh đệ tử không sầu.8. “Tự ngã tôi trường cửu
Thế giới này thường hằng”
Ai ôm tà kiến ấy
Phải đấm ngực khóc than
Tưởng chừng như mất hết
Thế giới này vỡ tan
Khi nghe Như lai dạy
“Ái diệt là niết bàn.”9. Ai không ôm tà kiến
“Tự ngã và thế giới
Trường tồn không biến chuyển”
Kẻ ấy không sầu muộn
Không than “ta mất hết
Còn chi nữa, ta ơi”
Khi nghe Như lai dạy
“Ái diệt là niết bàn.”
D. Ba thủ
10. Bất cứ người, vật gì
Ta vô cùng yêu mến
Đều vô thường, biến hoại:
Dục thủ là khổ đau.
Chỗ nào có chấp trước
Liên hệ đến bản ngã
Đều có khổ, sầu ưu:
Ngã luận thủ là khổ.
Chấp trước một quan điểm
Dựa kiến văn giác tri
Cũng đều là chấp ngã
Dưới hình thức tinh vi.
Đã không “tôi”, “của tôi”
Mà còn có “tôi thấy”
Ấy gọi là kiến thủ
Thực hoàn toàn ngu si.E. Ba pháp ấn
11. Sắc, thọ, tưởng, hành, thức
Năm uẩn đều vô thường
Vì biến đổi, hoại diệt
Do vô thường nên khổ
Đã vô thường, đau khổ
Đừng xem “tôi”, “của tôi”.F. Năm uẩn vô ngã
12. Bởi thế, Phật đã dạy
Này hỡi các tỳ kheo
Các ngươi hãy từ bỏ
Cái không phải của ngươi:
Sắc không phải của ngươi
Ngươi nên từ bỏ sắc;
Các ngươi từ bỏ sắc,
Được an lạc dài lâu.
Thọ không phải của ngươi
Ngươi nên từ bỏ thọ;
Các ngươi từ bỏ thọ,
Được an lạc dài lâu.
Tưởng không phải của ngươi
Ngươi nên từ bỏ tưởng;
Các ngươi từ bỏ tưởng,
Được an lạc dài lâu.
Hành không phải của ngươi
Ngươi nên từ bỏ hành;
Hành nếu ngươi từ bỏ,
Được an lạc dài lâu.
Thức không phải của ngươi
Ngươi nên từ bỏ thức;
Các ngươi từ bỏ thức,
Được an lạc dài lâu.
Thánh đệ tử quán sát
Yểm ly đối với sắc
Và thọ tưởng hành thức
Nên ly tham, giải thoát.
-ooOoo-