»» Tiểu Kinh Mãn Nguyệt

Phần I  –  Phần II  –  Phần III

I. Nội dung kinh

(Cūlapunnama sutta)
Dịch giả: Thích Minh Châu

 


(Download file MP3
– 2.06 MB – Thời gian phát: 11 phút 59 giây.)

Kính mong quý độc giả xem kinh cùng góp sức hoàn thiện bằng cách gửi email về [email protected] để báo cho chúng tôi biết những chỗ còn có lỗi.

Font chữ:


Như vầy tôi nghe.

Một thời Thế Tôn trú ở Savatthi, tại Pubbarama (Ðông Viên), Migaramatupasada (Lộc Mẫu Giảng đường).

Lúc bấy giờ trong ngày Bố-tát, ngày trăng tròn, trong đêm trăng rằm, Thế Tôn đang ngồi giữa trời, xung quanh có chúng Tỷ-kheo đoanh vây. Rồi Thế Tôn nhìn chúng Tỷ-kheo đang yên lặng, hết sức yên lặng và bảo các Tỷ-kheo:

— Này các Tỷ-kheo, một người bất chánh (asappurisa) có thể biết một người bất chánh: “Người bất chánh là vị này”, hay không?

— Bạch Thế Tôn, không biết được.

— Lành thay, này các Tỷ-kheo! Này các Tỷ-kheo, không thể có sự tình, không thể có sự kiện, một người bất chánh có thể biết một người bất chánh: “Người bất chánh là vị này.” Này các Tỷ-kheo, nhưng một người bất chánh có thể biết một người chơn chánh: “Người chơn chánh là vị này” hay không?

— Bạch Thế Tôn, không biết được.

— Lành thay, này các Tỷ-kheo! Này các Tỷ-kheo, không thể có sự tình, không thể có sự kiện một người bất chánh có thể biết được một người chơn chánh: “Người chơn chánh là vị này”.

Người bất chánh, này các Tỷ-kheo, là người đầy đủ pháp bất chánh, giao du với người bất chánh, suy tư như người bất chánh, tư lường như người bất chánh, nói năng như người bất chánh, hành động như người bất chánh, có tà kiến như người bất chánh, bố thí như người bất chánh.

Và này các Tỷ-kheo, như thế nào là người bất chánh đầy đủ pháp bất chánh? Ở đây, này các Tỷ-kheo, người bất chánh bất tín, vô tàm, vô quý, nghe ít, biếng nhác, thất niệm, liệt tuệ. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là người bất chánh đầy đủ pháp bất chánh.

Và này các Tỷ-kheo, như thế nào là người bất chánh giao du với những người bất chánh? Ở đây, này các Tỷ-kheo, những vị Bà-la-môn nào bất tín, vô tàm, vô quý, ít nghe, biếng nhác, thất niệm, liệt tuệ, những vị ấy là bạn, là thân hữu với người bất chánh ấy. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là người bất chánh giao du với người bất chánh.

Và này các Tỷ-kheo, như thế nào là người bất chánh suy tư như người bất chánh? Ở đây, này các Tỷ-kheo, người bất chánh suy nghĩ tự làm hại mình, suy nghĩ làm hại người khác, suy nghĩ làm hại cả hai.. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là người bất chánh suy tư như người bất chánh.

Và này các Tỷ-kheo, như thế nào là người bất chánh tư lường như người bất chánh? Ở đây, này các Tỷ-kheo, người bất chánh tư lường tự làm hại mình, tư lường làm hại người, tư lường làm hại cả hai. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là người bất chánh tư lường như người bất chánh.

Và này các Tỷ-kheo, như thế nào là người bất chánh nói năng như người bất chánh? Ở đây, này các Tỷ-kheo, người bất chánh nói lời nói láo, nói lời hai lưỡi, nói ác khẩu, nói lời phù phiếm. Như vậy này các Tỷ-kheo, là người bất chánh nói năng như người bất chánh.

Và này các Tỷ-kheo, như thế nào là người bất chánh hành động như người bất chánh? Ở đây, này các Tỷ-kheo, người bất chánh sát sanh, lấy của không cho, làm các tà hạnh trong các dục. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là người bất chánh hành động như người bất chánh.

Và này các Tỷ-kheo, như thế nào là người bất chánh có tà kiến như người bất chánh? Ở đây, này các Tỷ-kheo, người bất chánh có tà kiến như sau: “Không có bố thí, không có lễ hy sinh, không có tế tự, không có quả dị thục các nghiệp thiện ác, không có đời này, không có đời khác, không có cha, không có mẹ, không có loại hóa sanh. Ở đời, không có những vị Sa-môn, những vị Bà-la-môn chánh hướng, chánh hạnh đã tự mình chứng đạt với thượng trí đời này và đời khác, và truyền dạy lại”. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là người bất chánh có tà kiến như người bất chánh.

Và này các Tỷ-kheo, thế nào là người bất chánh bố thí như người bất chánh? Ở đây, này các Tỷ-kheo, người bất chánh bố thí một cách vô lễ, bố thí không phải tự tay, bố thí không có suy tư kỹ lưỡng, bố thí những vật không cần dùng, bố thí không nghĩ đến tương lai. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là người bất chánh bố thí như người bất chánh.

Này các Tỷ-kheo, người bất chánh ấy, đầy đủ pháp bất chánh như vậy, giao du với người bất chánh như vậy, suy tư như người bất chánh như vậy, tư lường như người bất chánh như vậy, nói năng như người bất chánh như vậy, hành động như người bất chánh như vậy, có tà kiến như người bất chánh như vậy, bố thí như người bất chánh như vậy, sau khi thân hoại mạng chung, sanh vào cảnh giới của những người bất chánh. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là cảnh giới của những người bất chánh? Ðịa ngục hay là bàng sanh.

Này các Tỷ-kheo, một người chơn chánh có thể biết được một người chơn chánh: “Người chơn chánh là vị này” hay không?

— Thưa biết được, bạch Thế Tôn.

— Lành thay, này các Tỷ-kheo! Sự tình này xảy ra là người chơn chánh có thể biết được người chơn chánh: “Người chơn chánh là vị này”. Nhưng này các Tỷ-kheo, người chơn chánh có thể biết được người bất chánh: “Người bất chánh là vị này” hay không?

— Thưa biết được, bạch Thế Tôn.

— Lành thay, này các Tỷ-kheo! Này các Tỷ-kheo, có sự tình này là người chơn chánh có thể biết được người bất chánh: “Người bất chánh là vị này”. Này các Tỷ-kheo, người chơn chánh đầy đủ Chánh pháp, giao du với các bậc chơn chánh, suy nghĩ như các bậc chơn chánh, tư lường như các bậc chơn chánh, nói năng như bậc chơn chánh, hành động như bậc chơn chánh, có chánh kiến như bậc chơn chánh, bố thí như bậc chơn chánh.

Và này các Tỷ-kheo, thế nào là người chơn chánh đầy đủ Chánh pháp? Ở đây, này các Tỷ-kheo, người chơn chánh có lòng tin, có lòng tàm, có lòng quý, có nghe nhiều, có tinh cần, tinh tấn, có chánh niệm, có trí tuệ. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là người chơn chánh đầy đủ những Chánh pháp.

Và này các Tỷ-kheo, thế nào là người chơn chánh giao du với các bậc chơn chánh? Ở đây, này các Tỷ-kheo, những vị Sa-môn, Bà-la-môn nào có lòng tin, có lòng tàm, có lòng quý nghe nhiều, tinh cần, tinh tấn, chánh niệm, có trí tuệ, những vị ấy là bạn, là thân hữu của vị chơn chánh ấy. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là người chơn chánh giao du với các bậc chơn chánh.

Và này, các Tỷ-kheo, như thế nào là người chơn chánh suy tư như người chơn chánh? Ở đây, này các Tỷ-kheo, người chơn chánh không suy nghĩ tự làm hại mình, không suy nghĩ làm hại người khác, không suy nghĩ làm hại cả hai. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là người chơn chánh suy tư như người chơn chánh.

Và này, các Tỷ-kheo, như thế nào là người chơn chánh tư lường như người chơn chánh? Ở đây, này các Tỷ-kheo, người chơn chánh không tư lường tự làm hại mình, không tư lường làm hại người khác, không tư lường làm hại cả hai. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là người chơn chánh tư lường như người chơn chánh?

Và này các Tỷ-kheo, như thế nào là người chơn chánh nói năng như người chơn chánh? Ở đây, này các Tỷ-kheo, người chơn chánh từ bỏ không nói láo, từ bỏ không nói hai lưỡi, từ bỏ không nói ác khẩu, từ bỏ không nói phiếm luận. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là người chơn chánh nói năng như người chơn chánh.

Và này các Tỷ-kheo, thế nào là người chơn chánh hành động như người chơn chánh? Ở đây, này các Tỷ-kheo, người chơn chánh từ bỏ sát sanh, từ bỏ lấy của không cho, từ bỏ làm các tà hạnh trong dâm dục. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là người chơn chánh hành động như người chơn chánh.

Và này các Tỷ-kheo, thế nào là người chơn chánh có chánh kiến như bậc chơn chánh? Ở đây, này các Tỷ-kheo, người chơn chánh có chánh kiến như sau: “Có bố thí, có lễ hy sinh, có tế tự, có quả dị thục các nghiệp thiện ác, có đời này, có đời khác, có cha, có mẹ, có loại hóa sanh. Ở đời có những vị Sa-môn, những vị Bà-la-môn chánh hướng, chánh hạnh, đã tự mình chứng đạt với thượng trí đời này và đời khác, và truyền dạy lại. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là người chơn chánh có chánh kiến như người chơn chánh.

Và này các Tỷ-kheo, thế nào là người chơn chánh bố thí như người chơn chánh? Ở đây, này các Tỷ-kheo, người chơn chánh bố thí một cách lễ độ, bố thí với tự tay, bố thí có suy tư kỹ lưỡng, bố thí những vật cần dùng, bố thí có nghĩ đến tương lai. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là người chơn chánh bố thí như người chơn chánh.

Này các Tỷ-kheo, người chơn chánh ấy, đầy đủ Chánh pháp như vậy, giao du với người chơn chánh như vậy, suy tư như người chơn chánh như vậy, tư lường như người chơn chánh như vậy, nói năng như người chơn chánh như vậy, hành động như người chơn chánh như vậy, có chánh kiến như người như người chơn chánh như vậy, bố thí như người chơn chánh như vậy, sau khi thân hoại mạng chung, sanh vào cảnh giới của những người chơn chánh. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là cảnh giới của những người chơn chánh? Ðại tánh của chư Thiên hay đại tánh của loài Người.

Thế Tôn thuyết giảng như vậy. Các Tỷ-kheo hoan hỷ tín thọ lời Thế Tôn dạy.

Source link

II. Phần lược giảng

Trung Bộ Kinh – Bài Kinh số 110
Kinh Ngắn Mãn Nguyệt
(Cùlapunnamasuttam)
– Lesser Discourse (At The Time) of A Full Moon –

  1. GIẢI THÍCH TỪ NGỮ

(Các từ ngữ quen thuộc)

  1. NỘI DUNG KINH MÃN NGUYỆT
  2. Cũng tại Lộc mẫu giảng đường tại thành Xá vệ (Sàvatthì), vào một đêm trăng rằm khi Thế Tôn đang ở ngoài trời với chúng Tỷ kheo trong một bầu không khí rất yên lặng, Thế Tôn dạy về các pháp của người bất chánh (ác) và của người chân chánh (thiện). Tại đây, Thế Tôn giới thiệu đầy đủ hành trạng của hai hạng người vừa đề cập.
  3. Hành trạng của người bất chánh có 10 điểm đáng nhớ:

2.1. Người bất chánh không thể biết người bất chánh.
2.2. Người bất chánh không thể biết người chân chánh.
2.3. Người bất chánh là người vô tàm, vô qúy, nghe ít (thiểu học), biếng nhác, thất niệm, liệt tuệ.
2.4. Giao du với hạng người bất chánh (đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu)
2.5. Suy nghĩ làm hại mình, làm hại người, làm hại cả hai.
2.6. Tư lường hại mình, hại người, hại cả hai.
2.7. Nói láo, nói hai lưỡi, nói ác ngôn, nói phù phiếm.
2.8. Sát sanh, trộm cắp, tà hạnh trong các dục.
2.9. Có tà kiến: Không có bố thí, không có lễ hy sinh, không có tế tự, không có đời nầy đời sau, không có cha, không có mẹ, không có các loại hóa sanh, không có các Sa-môn, Bà-la-môn chánh hạnh …
2.10. Bố thí một cách vô lễ; không tự tay bố thí; bố thí không suy nghĩ kỷ lưỡng; bố thí các vật không cần dùng; bố thí không nghĩ đến tương lai.

  1. Ngược lại 10 điều trên là các pháp thuộc người chân chánh.
  2. Cảnh giới chờ đợi người bất chánh là địa ngục hay bàng sanh. Cảnh giới chờ đợi người chân chánh là loài Người hay chư Thiên.

III. BÀN THÊM

  1. Bản kinh 110 là phần giáo dục cơ bản chuyển các ác tâm, hại tâm thành tịnh quang tâm ở Dục giới (hay thiện tâm). Đây là bước đi đầu tiểu trừ “Ngũ cái”. Phần chân chánh cũng là phần giáo dục về đạo đức ở đời, trong đời sống xã hội. Qua đó bản kinh đã giới thiệu rất rõ nét định nghĩa về Thiện, Ác của Phật giáo.
  2. Phần kinh ngắn Mãn Nguyệt giới thiệu đầy đủ hành trạng và tư duy của hai hạng người Thiện Ác ở đời, cũng sáng tỏ như trăng rằm vậy, có đóng góp cho xã hội đang trên đà suy thoái đạo đức. Tại đây, sự thật nhân qủa và nghiệp báo đời sau của thiện nghiệp và ác nghiệp như là nền tảng vững chắc cho chủ trương, cổ võ điều thiện, đạo đức.

-ooOoo-

III. Video giảng giải

Tìm hiểu Kinh tạng Nikaya – Tâm học là cuốn sách Online giới thiệu về bộ kinh Nikaya , các bản dịch và chú giải được Tâm Học soạn từ các nguồn đáng tín cậy trên mạng internet.

Tuy nhiên đây vẫn là sách chỉ có giá trị tham khảo , mang tính chủ quan của tác giả  Tâm học.

Hits: 52

Post Views: 768