10 Tông Phái Phật giáo Trung Quốc – Tam Luận Tông

Mười Tông Phái Phật Giáo Ở Trung Tam Luận Tông
(Hay Tính Không Tông)


I. DUYÊN KHỞI LẬP TÔNG  

Tông này căn cứ vào ba bộ luận sau đây mà thành lập, nên gọi là Tam Luận tông.

1. Bộ Trung luận, gồm có bốn quyển, do ngài Bồ tát Long Thọ làm ra, mục đích chính là phá chấp của Tiểu thừa và kèm một phần phụ đả phá sai lầm của ngoại đạo.

2. Bộ Bách luận, gồm có hai quyển, do ngài Bồ tát Ðề Bà làm ra, mục đích chính là phá chấp của ngoại đạo và kèm một phần phụ phá chấp của Tiểu thừa.

3. Bộ Thập Nhị Môn luận, gồm có một quyển, cũng do ngài Long Thọ làm ra, mục đích phá cả Tiểu thừa và ngoại đạo.

Tóm lại, ba bộ luận trên đây, đều phá sự thiên chấp sai lầm của Tiểu thừa và ngoại đạo và mục đích cuối cùng là làm sáng tỏ nghĩa lý sâu xa, mầu nhiệm của Ðại thừa.

Tông này được thịnh hành ở Trung Hoa trong đời Dao Tần do công đức hoằng dương của ngài Cưu Ma La Thập, và trong đời Ðường do công đức của ngài Ðại sư Gia Tường.

II. TÔNG CHỈ VÀ GIÁO LÝ CĂN BẢN

Như chúng ta đã thấy trong nội dung của ba bộ luận căn bản nói trên, chủ trương của tông này là phá các điều tà chấp, nêu bày chính lý.

Theo Tam Luận tông, là chấp có bốn loại:

1. Tà chấp của ngoại đạo: Ngoại đạo tức là những học phái hay tông giáo khác với đạo Phật. Ngoại đạo vì không thấu rõ lý ngã không và pháp không, nên chấp chặt tà kiến, như tà nhân, tà quả, không nhân mà có quả, có nhân mà không quả, v.v… những cái chấp nầy cần phải đả phá.

2. Chấp trước của Tiểu thừa Tỳ Đàm tông: Tiểu thừa Tỳ Đàm tông tức là Câu Xá tông. Tông này chủ trương lý ngã không, pháp hữu, nghĩa là cho rằng cái ngã nơi thân người là không có, nhưng các pháp là có. Quan niệm sai lầm về pháp hữu ấy cần phải phá trừ.  

3. Chấp trước của Thành Thật tông: Tông này, tuy chủ trương ngã pháp đều không, nhưng lại chấp cái “không” ấy là thật “có” (thật có một cái không), chứ không biết rằng cái “không” ấy cũng không hoàn toàn là không, cho nên cần phải phá trừ.  

4. Chấp trước của người tu về Ðại thừa: Người tu về Ðại thừa không còn những chấp trước mê lầm về ngã, pháp của ngoại đạo và Tiểu thừa, đã đoạn trừ những thành kiến chấp có, chấp không, chấp đoạn, chấp thường, nhưng còn có một số người ôm chặt cái sở đắc của mìmh, nghe nói “có” thì sa vào có, nghe nói “không” thì trệ vào không, nghe nói “trung đạo” thì chấp trước về trung đạo. Cho nên cần phải phá trừ những chấp trước ấy.

Có người hỏi:

– Tam Luận tông chủ trương phá tà như trên, có thể gọi là đầy đủ lắm, nhưng còn phần hiển chính thì như thế nào?

– Xin thưa: Phá hết tà, tức là hiển chính. Phá cũng tức là lập. Trừ mê tức là ngộ. Như vậy, tà chấp đã bị phá, thời chính lý tự bày, ngoài sự phá tà, không có chính lý nào riêng nữa.  

Trọn bộ “Tam luận huyền nghĩa” có nói: Sự phá tà hiển chính phân làm bốn loại:

1. Phá mà không thâu, nghĩa là trước một đối thủ nói không hợp đạo, thì chỉ phá mà không thâu.

2. Thâu mà không phá, nghĩa là đối với người chủ trương hợp với chân lý thì chỉ thâu mà không phá.  

3. Cũng phá mà cũng thâu, nghĩa là đối với người học đạo mà còn đầy lòng mê chấp, thì phải phá trừ chỗ mê chấp và thâu lại giáo nghĩa mà họ đã hiểu lầm.

4. Không thâu mà cũng không phá, đây là trường hợp khi đã tiêu trừ ba loại nói trên, quy về một chân thật tướng: đến đây thì đã xa lìa nói phô, bặt dứt niệm lự, không thể nói rằng phá, không thể nói rằng thâu.  

Chủ trương phá tà hiển chính trên này có thể cô đọng trong bốn chữ sau đây: “Trung đạo bát bất”.

Trung đạo tức là đạo lý viên dung cũng gọi là đệ nhất nghĩa đế, nghĩa là cái chân lý cùng tột, không gì hơn.  

Bát bất tức là tám cái “Bất” (chẳng phải):

Bất sinh, bất diệt, bất thường, bất đoạn, bất nhất, bất dị, bất lai, bất xuất. Hiểu rõ tám cái “Bất” ấy, tức là nhận chân được nghĩa lý của Trung đạo.

Chúng ta hãy nghe bài kệ sau đây trong “Trung đạo” thì rõ:

Bất sinh, diệt bất diệt

Bất thường, diệt bất đoạn

Bất nhất, diệt bất dị

Bất lai, diệt bất xuất

Năng thuyết thị nhân duyên

Thiện diệt chư hý luận

Ngã khể thủ lễ Phật  

Chư thuyết trung đệ nhất .

Giảng rộng đoạn văn trên này, ông Phan Văn Hùm, trong quyển Phật giáo triết học đã viết như sau:

“Nhất thiết vạn hữu trong hiện tượng giới đều sinh diệt vô thường. Sinh diệt vô thường như thế, nguyên là vì không có tự tính, mà bởi nhân duyên mê vọng nên sinh ra giả hữu.  

Thế tục vì vọng kiến, nên chấp lấy cái giả hữu đó. Chân trí thời phủ định giả hữu mà đều nhận thấy là không … Siêu việt được tất cả hữu và vô là cái quan niệm tuyệt đối ấy. Muốn đạt được cái quan niệm tuyệt đối ấy, phải biết rằng chư pháp đều do nhân duyên sinh ra.

Chư pháp tuy là hữu nhưng mà là phi thường hữu. Hữu, mà phi thường hữu là giả hữu. Giả hữu tuy là hữu mà phi hữu. Hữu mà phi hữu, thời cùng với vô có khác gì? Cho nên chư pháp tuy là vạn hữu, nhưng uyển nhiên là không .

Lý thể của chân như, tuy là không tịch, bất sinh diệt, mà bởi nó sinh ra chư pháp, cho nên nó là căn của giả hữu. Ðã là căn của giả hữu, thời mặc dù lý thể của chân như là không, thật ra nó là phi không. Như thế, chân như là không mà không thật là không cho nên cùng với hữu có khác gì? Vì thế, rốt lại, chân như tuy là không tịch, mà nó uyển nhiên là hữu.

Hữu, không, hai cái toàn nhiên cùng nhau hỗn hiệp.

Trung đạo ra ngoài chỗ chấp hữu cùng chấp không”.

III. BA THỜI GIÁO LÝ

Trong phần tông chỉ và giáo lý căn bản nói trên, chúng ta thấy Tam Luận tông bác tất cả các tông phái của Tiểu thừa và một phần của Ðại thừa. Nhưng dù Tiểu thừa hay Ðại thừa, cũng là dựa trên giáo lý của đức Phật cả. Vậy, bác các tông phái trong đạo Phật, tức là gián tiếp bác giáo lý của Phật chăng?

Thật ra, không phải thế. Tất cả lời dạy của đức Phật chỉ có một tính chất chung là sự giải thoát, như tất cả nước đại dương chỉ có một mùi vị là mặn. Phật nói ra các pháp môn, đều để đối trị những phiền não của chúng sinh. Người lương y giỏi tùy theo chứng bệnh mà cho thuốc, thuốc không cao thấp, lành bệnh là hay. Cũng thế, căn cơ chúng sinh không đồng nhau, cho nên pháp môn cũng tùy theo đó mà có sai biệt.

Theo Tam Luận tông, thì giáo lý của đức Phật chia làm ba thời kỳ:

– Thời kỳ thứ nhất, tại vườn Lộc Giả vì các bậc căn trí hẹp hòi, Phật nói pháp Tiểu thừa, tâm cảnh đều có. Trong thời kỳ này vì cần phải phá cái chấp về tự tính, thần ngã của ngoại đạo, nên Phật nói “pháp duyên sinh”, xác định là thật có.

– Thời kỳ thứ hai, Phật vì các bậc căn trí bậc trung, nói “pháp tướng Ðại thừa”, chỉ rõ đạo lý duy thức “cảnh không tâm có” (thế giới hiện tượng không thật có nhưng tâm thức thật có). Cũng trong thời kỳ này, Phật lần hồi phá trừ chỗ chấp của Nhị thừa về lý duyên sinh thật có, mà nói lý duyên sinh ấy chỉ là giả dối như tuồng có mà thôi, vì họ sợ về chỗ chân không, nên phải để “giả hữu” lại để dìu dắt họ.

– Thời kỳ thứ ba, Phật vì các bậc thượng căn thượng trí nói ra giáo lý “vô tướng Ðại thừa”, biện bạch tâm cảnh đều không, một mực bình đẳng là chân liễu nghĩa. Ðến thời kỳ này mới thật là chỗ rốt ráo của Ðại thừa, chủ trương duyên sinh ấy tức là tính không, một mực bình đẳng, viên dung cả hai đế (chân đế, tục đế) không ngại.

Tóm lại, thời kỳ thứ nhất, phá trừ ngoại đạo, chỉ dạy Tiểu thừa với giáo lý tâm cảnh đều có. Thời kỳ thứ hai, thông cả Tiểu thừa và một phần của Ðại thừa, (tam thừa) với giáo lý cảnh không, tâm có. Thời kỳ thứ ba, chỉ có nhất thừa, với giáo lý tâm cảnh đều không, nhưng cái không đây tức là chân “chân không, diệu hữu”.

IV. PHƯƠNG PHÁP TU HÀNH

Chúng ta đã thấy ở các phần ở trên, chủ trương của Tam Luận tông là phá tà, và do chỗ phá tà ấy là hiển chính. Vậy thì phương pháp tu hành của tông này là làm sao nhận rõ được những chỗ sai lầm chấp trước của ngoại đạo và các tông phái khác, tức là chứng ngộ. Muốn vậy, tức phải thực hành pháp quán “bát bất trung đạo”.

Bát bất tức là: Bất sinh, bất diệt; bất đoạn, bất thường; bất nhất, bất dị; bất khứ, bất lai. Không ngộ được tám món ấy tức là không rõ chân đế và tục đế; mà không rõ được chân đế và tục đế thì cũng không thể nào nhận thấy được ý nghĩa của trung đạo.

Pháp quán này có nhiều giai đoạn, mỗi giai đoạn quán về một phần của “bát bất”; chẳng hạn giai đoạn thứ nhất quán về “bất sinh, bất diệt”; giai đoạn thứ hai quán về “bất đoạn, bất thường” v.v…

Trong mỗi giai đoạn như thế phải quán năm câu:  

1. Câu thứ nhất: “Thật có sinh, thật có diệt”. Ấy là giả thiết thật có sinh diệt như thế gian thường chấp, để mà bác. Chấp như thế gọi là đơn tục (đứng riêng về mặt thế tục), tức nhiên là thiên chấp (chấp một bên), chưa hiệp với trung đạo.

2. Câu thứ hai: “Không sinh không diệt”. Ấy là chấp không sinh không diệt làm thật, để mà bác. Chấp như thế gọi là đơn chân, cũng là thiên chấp, không hiệp với trung đạo.

3. Câu thứ ba: “Giả sinh giả diệt”. Ấy là giả lập có sự sinh diệt phát xuất từ nơi bất sinh bất diệt. Ðây tức là trung đạo về thế tục.

4. Câu thứ tư: “Giả bất sinh, giả bất diệt”. Nếu sinh diệt đã giả, thời sự bất sinh bất diệt cũng là giả. Ấy là trung đạo về chân đế.

5. Câu thứ năm: “Không phải sinh diệt, mà cũng không phải là không sinh diệt”. Ðây là dung hiệp cả tục đế và chân đế mà tìm ra lý trung đạo. Thật vậy, thật tướng của pháp giới không sinh diệt , mà cũng không phải không sinh diệt. Ðến đây là bặt dứt lời nói phô, tâm niệm lự, mà chỉ nhờ trực quan mới đạt tới. 

Trong năm câu này, thì ba câu cuối (từ câu thứ ba đến câu thứ năm) thường gọi là tam trung (ba lý trung đạo). Vì thế cho nên trong pháp quán này, người ta thường nói: dùng năm câu và ba lý trung đạo để quán sát.

Trên đây là chỉ đưa ra một số thí dụ về một giai đoạn trong pháp “quán trung đạo bát bất”. Sau khi quán hết giai đoạn thứ nhất “bất sinh, bất diệt”, hành giả tiếp tục giai đoạn thứ hai là “bất đoạn, bất thường”. Và cứ như thế mà quán cho đến hết tám cái “bất”.

Ðây là pháp quán riêng biệt của Tam Luận tông. Ngoài ra trên đường tu hành, hành giả còn tùy theo căn cơ mà tu các pháp môn khác như Lục độ vạn hạnh.

V. QUẢ VỊ TU CHỨNG

Giáo lý đã có phân chia thành chân đế và tục đế, thì quả vị tu chứng cũng phải đứng về cả hai phương diện mà xét.

1. Chân đế: Nếu đứng về phương diện chân đế mà xét thì không có vấn đề chứng hay không chứng, thành Phật hay không thành Phật, vì mê ngộ vốn không, nhiễm tịnh đều bình đẳng, hết thảy chúng sinh xưa nay là Phật rồi.

2. Tục đế: Nếu đứng về phương diện tục đế, thì căn cơ chúng sinh không giống nhau, nên sự tu chứng cũng có chậm có mau. Với những căn cơ rất lanh lợi, thì trong một niệm có thể thành tựu “chính quán bát bất”, chứng được quả Phật. Trái lại, với những căn cơ chậm lụt, thì trải qua ba đại kiếp tu hành lục độ vạn hạnh, mới được thành Phật. Nếu tuần tự mà tiến thì phải trải qua 52 quả vị. Trong các tông khác quý độc giả cũng thường nghe nói đến 52 quả vị, nhưng chúng tôi chỉ nêu danh mà không nói rõ nội dung, đến Tam Luận tông này, chúng tôi tưởng nên trình bày rõ một lần về các quả vị ấy, và để sau này, khi qua các tông khác, nếu quý độc giả có gặp lại 52 quả vị này, cũng sẽ không còn bỡ ngỡ. 52 quả vị ấy là:

Thập tín (mười bậc lấy đức tin làm gốc):  

1. Tín tâm; 2. Tinh tấn tâm; 3. Niệm tâm; 4. Ðịnh tâm; 5. Huệ tâm; 6. Thí tâm; 7. Giới tâm; 8. Hộ tâm; 9. Nguyện tâm; 10. Hồi hướng tâm.

Thập trụ: Trụ là an trụ. Các vị Bồ tát khi mới phát tâm, an trụ nơi mười bực này mà tu hành, trên cầu chứng được quả Phật, dưới hóa độ chúng sinh. Thập trụ là:

1. Pháp tâm trụ; 2. Trị địa trụ; 3. Tu hành trụ; 4. Sinh quý trụ; 5. Phương tiện trụ; 6. Chính tâm trụ; 7. Bất thối trụ; 8. Ðồng chân trụ; 9. Pháp vương tử trụ; 10. Quán đảnh trụ.

Thập hạnh: Mười bậc này chú trọng tu hạnh lục độ nhiều hơn các hạnh khác, nên gọi là hạnh. Mười hạnh là:

1. Hoan hỷ hạnh; 2. Nhiêu ích hạnh; 3. Vô uế hạnh; 4. Vô tận hạnh; 5. Ly si loạn hạnh; 6. Thiện hiện hạnh; 7. Vô trước hạnh; 8. Tông trọng hạnh; 9. Thiện pháp hạnh; 10. Chân thiệt hạnh

Thập hồi hướng: Hồi nghĩa là xoay về, Hướng tức là xu hướng. Hành giả đem mười hạnh này mà quy hướng về ba nơi sau đây:

a) Xoay sự về lý, lấy chân như thật tế mà làm chỗ chứng.

b) Xoay nhân về quả, lấy đạo vô thượng Bồ đề làm chỗ sở cầu.

c) Xoay mình về nơi người, một lòng bình đẳng, phổ độ chúng sinh.

Mười hồi hướng là:

1. Cứu độ chúng sinh, ly chúng sinh tướng hồi hướng; nghĩa là cứu giúp chúng sinh mà không chấp trước về sự cứu giúp.

2. Bất hoại hồi hướng; nghĩa là không bao giờ thối tâm cứu giúp chúng sinh.

3. Đẳng chư Phật hồi hướng: nghĩa là lòng từ bi cứu giúp chúng sinh cũng bằng chư Phật.

4. Chí nhất thế xứ hồi hướng; nghĩa là lòng cứu giúp chúng sinh mỗi việc đều chu đáo.

5. Vô tận công đức tạng hồi hướng; nghĩa là chất chứa công đức vô tận.

6. Tùy thuận nhất thiết kiên cố thiện căn hồi hướng; nghĩa là thuận theo hết thảy căn lành bền chặt.

7. Ðẳng tâm tùy thuận nhất thế chúng sinh hồi hướng; nghĩa là đem tâm bình đẳng tùy thuận hết thảy chúng sinh.

8. Như tướng hồi hướng; nghĩa là làm các công đức hồi hướng về tự tính chân như.

9. Vô trước vô phược giải thoát tâm hồi hướng; nghĩa là không chấp trước không ràng buộc, một lòng giải thoát.

10. Pháp giới vô lượng hồi hướng; nghĩa là hướng về pháp giới không cùng tận.

Bốn mươi quả vị trên này (Thập tín, Thập trụ, Thập hạnh, Thập hồi hướng) nói về thời gian tu tập thì thuộc vào kiếp A tăng kỳ thứ nhất.

Thập địa: Mười bậc này, vì tóm thâu các công đức hữu vi và vô vi, dùng làm tự tính, cùng làm chỗ nương dựa chắc chắn hơn cả cho sự tu hành, nên gọi là Ðịa. Mười địa là:

1. Hoan hỷ địa; 2. Ly khổ địa; 3. Pháp quang địa; 4. Diệm huệ địa; 5. Nan thắng địa; 6. Hiện tiền địa; 7. Viễn hành địa; 8. Bất động địa; 9. Thiện huệ địa; 10. Pháp vân địa

Trong thập địa, mỗi địa còn có ba tâm: Nhập, Trụ, Xuất. Khi vừa bước vào một bậc nào, gọi là nhập tâm. Trong lúc ở yên trong bậc ấy mà tu, gọi là trụ tâm. Sau khi tu tập lâu rồi, cần bước qua bậc khác gọi là xuất tâm. Ba tâm ấy đều phải trải qua trăm ngàn số kiếp. Từ khi nhập tâm về Sơ địa (tức Hoan hỷ địa) đến Thất địa (tức Viễn hành địa) phải trải qua suốt một kiếp A tăng kỳ thứ hai. Từ Bát địa (tức Bất động địa) đến Thập địa (tức Pháp vân địa) thuộc về kiếp A tăng kỳ thứ ba.

Ðẳng giác: Khi đã mãn quả Thập địa thì gọi là Ðẳng giác, là địa vị đã gần đến quả Phật.

Diệu giác: Tức là Phật quả, tự mình đã giác ngộ, lại giác ngộ cho người, trí giác ngộ và công phu tu hành đều được đầy đủ, không thể nghĩ bàn nên gọi là Diệu giác. Bậc này vì các lậu nghiệp đã hết sạch và không còn pháp gì phải học nữa, nên cũng gọi là Vô học đạo.

VI. KẾT LUẬN  

Như chúng ta đã thấy ở các phần trên, Tam Luận tông chủ trương “lấy phá làm tập”, phá tất cả những sự chấp trước của ngoại đạo, của Tiểu thừa Tỳ đàm, của Thành Thật tông và của cả một số người tu theo Ðại thừa. Nhận chân được những sự sai lầm ấy tức là ngộ rồi đấy. Con đường đi đến chân lý không đâu khác hơn con đường mình đang đi. Nhưng muốn khỏi lạc đường và chậm bước, thì phải dẹp tất cả những hình bóng phỉnh phờ và những chướng ngại vật trên đường đi ấy. Một khi sự phá dẹp hoàn thành thì chân lý tự nhiên hiện bày.

Theo thiển kiến chúng tôi, Tam Luận tông không phải là một con đường Tu như các tông khác, mà đúng hơn là một cửa Ải: những hành giả muốn đi từ Tiểu thừa hay Ðại thừa Thỉ giáo sang Đại thừa Ðốn giáo, hay Viên giáo thì phải đi ngang cửa Ải Tam Luận tông. Ðến cửa Ải này, hành giả bị lục soát một cách kỹ lưỡng, nếu ai còn mang theo một món hành lý “chấp trước” gì, thì không thể qua cửa Ải này được. Hành giả khi đi qua cửa Ải này là phải thông suốt các vấn đề: có, không, sinh, diệt, thường, đọan, nhất, dị, v.v…

Vậy chúng tôi mong mỏi quý vị Phật tử muốn đi xa vào thế giới Trung đạo hay Viên giáo thì hãy nghiên cứu cho kỹ Tam Luận tông.

Chúc quý độc giả thành công!

Hits: 122

Trả lời