8. Thiền tông
A. Mở Đầu
Thiền tông thuộc cả Đại Thừa và Tiểu Thừa. Cũng như bao nhiêu tông phái khác trong Phật Giáo, vị khai sáng đầu tiên của Thiền tông vẫn là đức Phật. Trước Ngài, sự tham thiền nhập định của các ngoại đạo không phải là không có. Nhưng đến Ngài, phương pháp thiền định mới đạt đến chỗ rốt ráo. Như chúng ta đều biết qua lịch sử cúa Ngài, sau khi xuất gia, đức Phật đã trải qua nhiều năm đi tìm đạo và tu khổ hạnh, nhưng vẫn chưa đạt được đạo quả như ý muốn. Ngài tự bảo cái đạo ấy không phải đi tìm đâu xa mà chính phải tìm trong trí tuệ sáng suốt của Ngài . Và từ đó, luôn trong 49 ngày đêm dưới cội Bồ Đề, Ngài đã ngồi tham thiền nhập định cho đến khuya mồng 8 tháng chạp âm lịch, lúc sao mai vừa mọc thì Ngài “Minh tâm kiến tính”, chứng được đaọ quả Bồ đề. Đó là một cuộc nhập định vô tiền khoáng hậu, mở đầu cho một pháp môn vô cùng hiệu nghiệm của đạo Bồ đề. Và từ đấy về sau, một tông giáo riêng đã được thành lập. Đó là Thiền tông.
I. Sao gọi là Thiền tông?
Thiền tông là một tông phái của Phật giáo lấy pháp môn tham thiền nhập định làm căn bản tu hành.
Chữ “Thiền “ là do chữ “Thiền-na”, một tiếng Phạn, phiên âm theo tiếng Trung Hoa và dịch nghĩa là định lự (định các tự lự). Hiệp chung cả tiếng Phạn và tiếng Trung Hoa, thành ra chữ Thiền định.
Có chỗ giải: Chữ “Thiền”, xưa dịch tư là “tư duy”, nay dịch là “Tịnh lự”. Tư duy có nghĩa là suy nghiệm, nghiên cứu, suy tầm đối tượng của tâm thức (tức là chỉ) để cho tâm thể được sáng tỏ.
Chữ “Định” nguyên tiếng Phạn là Samadhi, người Trung Hoa phiên âm là Tam muội, nghĩa là tập trung tư tưởng vào một cảnh duy nhất không cho tán loạn.
Hợp hai chữ Thiền và Định, chúng ta có một nghĩa chung như sau: Tập trung tư tưởng vào một đối tượng duy nhất, không cho tán lọan, để cho tâm thể được vắng lặng, tâm dụng được sáng tỏ, mạnh mẽ, đặng quan sát và suy nghiệm chân lý.
Phương pháp thiền định có hai cách:
1.Tham cứu về lý thiền, để cầu minh tâm kiến tính, tỏ ngộ đạo quả, nên gọi là “Tham thiền”, như tham cứu câu thoại đầu (câu nói thiền) v.v..
2. Tập trung tư tưởng để quan sát cho sáng tỏ chân lý về một vấn đề gì như quán bất tịnh, quán từ bi v.v..nên củng gọi là ” Quán tưởng”.
Có chỗ gọi là tu “Chỉ quán” hay tu “Định tuệ”. Chỉ là đình chỉ các vọng tưởng, không cho khởi động, tức là định. Quán là quan sát cho sáng tỏ một vấn đề gì tức là Tuệ.
“Chỉ” là nhân, mà “Định là quả.
“Quán” là nhân, mà “Tuệ ” là quả.
II. Chủ Trương Của Thiền tông
Tất cả chúng sinh, trải qua bao đời kiếp, phải trôi lăn trong biển khổ sinh tử luân hồi vì bị vô minh mê hoặc.
Tại sao lại có vô minh mê hoặc? Chúng ta hằng ngày bị thất tình (1), lục dục (2), bát phong (3), xuy động, làm cho tâm tính chúng ta phải bị mờ ám; cũng như ngọn đèn bị thổi leo lét, không sáng tỏ được, để phá tan cái hắc ám ở chung quanh và soi sáng cảnh vật. Đèn tâm của chúng ta không giờ phút nào chẳng bị gió lục trần (4) làm chao động. Vì đèn tâm chao động (không định) nên ánh áng trí tuệ không thể tỏa ra; và ánh sáng trí tuệ không tỏ sáng, nên khỗng xé tan được mây vô minh hắc ám ở chung quanh và không chiếu soi chân lý của vũ trụ.
(1) Thất tình: Mừng, giận, thương, sợ, yêu, ghét, muốn.
(2) Lục dục: Những sự tình dục do lục căn sinh ra.
(3) Bát phong: Lợi, suy, hủy, dự, xưng, cơ, khổ, lạc.
(4) Lục trần: Sáu trần cảnh là: sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp.
Vậy hành giả muốn rõ chân lý của vũ trụ, muốn được minh tâm kiến tính thành Phật, thì phải phá trừ mây vô minh hắc ám. Muốn phá trừ vô minh hắc ám, hành giả phải làm sao cho đèn trí tuệ của mình được sáng tỏ. Muốn thế hành giả phải tu thiền định. Tâm có định, mới phát sinh trí tuệ. Trí tuệ có phát sinh mới phá trừ được vô minh hắc ám, và với minh tâm kiến tính thành Phật.
Mới nghe qua chủ trương của Thiền tông, chúng ta thấy không có gì mới lạ, và tưởng là dễ dàng quá; nhưng khi thực hanh thì lại không phải dễ dàng như thế. Trái lại, phép tu thiền định rất khó, phải thường có thiện hữu tri thức dắt dẫn, phải tốn rất nhiều công phu và kiên nhẫn, phải trải qua một thời gian lâu dài, mới thu được kết quả.
B. Các Loại Thiền Định
Thiền định có nhiều loại, nhiều thứ. Có thứ chính, thứ tà, có thứ sâu, thứ cạn, có thứ thiền của ngoại đạo, có thứ thiền của phàm phu, có thứ thiền của Tiểu thừa, có thứ thiền của Đại thừa.
Hãy nghe Ngài Tông Mật Thiền sư dạy: “Người muốn cầu Thánh đạo, tất phải tu thiền”. Chân tính không có dơ và sạch, thánh và phàm. Song thiền định có cạn và sâu, từng bậc không đồng:
– Người tà kiến, chấp trước sao lạc, ưu cõi trên, chán cõi dưới mà tu Thiền là ngoại đạo thiền;
– Người chính tín nhân quả, nhưng cũng dùng sự ưa cõi trên chán cõi dưới mà tu thiền, là phàm phu thiền;
– Người biết rõ lý “ngã không” mà tu thiền là Tiểu thừa thiền;
– Người ngộ được lý “ngã, pháp đều không” mà tu thiền, là Đại thừa thiền;
– Người đốn ngộ tự tâm, xưa nay vốn thanh tịnh, không có phiền não, đầy đủ trí tuệ vô lậu, tâm ấy tức là Phật, rốt ráo không khác; y theo tâm ấy mà tu thiền là Tối Thượng thừa thiền, cũng gọi là “chân như tam muội”.
Vì thiền có nhiều loại khác nhau như thế, nên trước khi muốn thực hành cho đúng đắn chúng ta cần biết sơ lược các lối tu thiền, để khỏi lạc vào đường nguy hiểm.
I. Ngoại Đạo Thiền
Trong phần ngoại đạo thiền này, chúng tôi muốn nói đến các loại thiền của ngoại đạo như đạo Tiên, đạo Bà la môn, các lối thôi miên, và những tà thiền định với mục đích không chân chính.
Sao gọi là không chân chính?
Theo quan niệm của đạo Phật thì những hành động gì không nhằm mục đích trau dồi tâm tính, dẹp trừ phiền não hữu lậu, để cầu giải thoát sinh tử luân hồi, đều không là chân chính. Dựa vào quan niệm trên mà phê phán thì những tà thiền định hay những loại thiền định của ngoại đạo đều không chân chính; vì những người tu theo lối thiền định này chỉ nhằm mục đích cầu được sống lâu, cầu được khỏe mạnh, được thần thông biến hóa để dạo chơi thế giới, được những phép lạ, huyền bí để cám dỗ, mê hoặc người, hay được thần tiên để hưởng lạc thú tiêu diêu nơi tiên cảnh…
Bởi họ dụng tâm không chân chính, tu phương pháp không chân tính, nhắm mục đích thiển cận, bề ngoài và bị các phiền não tham, sân, si, làm động cơ thúc đẩy, nên các loại thiền của họ không rốt ráo và toàn thiện được. Trước tiên chúng ta hãy nói đến các tà thiền định.
1. Tà thiền định: Đọc các loại sách xưa, chúng ta thường nghe nói đến các loại cầm thú như: bạch xà, chồn cáo, qui, khỉ, vượn…tu luyện lâu năm trong rừng sâu núi thẳm, cuối cùng củng có những phép thần thông, biến hóa. Nhưng mục đích của chúng là cầu cho được nhiều phép tắc để được gần phụ nữ, nhiễu hại nhân dân, hớp hồn hớp vía người lương thiện, để thỏa mãn thú tính. Đó là những loài yêu tinh quỷ quái, mà ngày nay theo con mắt nhà khoa học thì khó có thể tin được là có. Nhưng có lẽ những người xưa muốn đặt ra câu chuyện yêu tinh quỷ quái như thế, để ngụ ý các loài thú, nếu tu luyện lâu năm củng có thể phép thuật hơn người. Nhưng bởi chúng thiếu lòng nhân, thiếu thiện tâm cho nên phép thuật càng cao cường bao nhiêu càng gây tai họa bấy nhiêu.
Chúng ta củng thường nghe thầy phù thủy luyện thiên linh cái (đầu lâu). Họ cũng tập trung tư tưởng, luyện phép tịnh tâm, và khi thành tâm, và khi thành công cũng sai được âm binh bộ hạ, được ma quỷ mách bảo cho các việc quá khứ, vị lai …mà cũng tác oai không ít.
Đó cũng là do tu định cả, nhưng bởi dụng tâm tà, nên gọi là thiền định, và kết quả là có hại cho mình và nhân quần xã hội.
Chúng ta hãy nghe lời Phật dạy Ngài A-Nan trong kinh Lăng nghiêm về các lối tà thiền định:
“A-Nan! Nếu ông tu thiền định mà không đoạn lòng dâm, thì quyết đọa vào ma đạo, bậc thượng thành ma chúa, bậc trung thành ma dân, bậc hạ làm ma nữ. Vì gốc của nó là dâm, thì làm sao khỏi sinh tử luân hồi được?”.
“A-Nan! Nếu ông tu thiền định mà không đoạn đoạn tâm sát hại, thì chỉ đạo vào thần đạo; bậc thượng thành đại lực quỉ, bậc trung làm phi hành dạ xao và các quỉ tướng soái, bậc hạ làm địa hành La sát và các quỉ thần”.
“A-Nan! Nếu ông tu thiền định mà không đoạn trừ tâm trộm cướp thì quyết đọa vào tà đạo; bậc thượng thành loài yêu tinh, bậc trung làm ma quỉ, bậc hạ làm người tà bị các tà ma nhập (đồng bóng)”.
2. Thiền định của đạo Tiên: Theo các kinh sách của đạo tiên để lại, như kinh Huỳnh Đình, hay bộ Tính mạng khuê chỉ v.v..thì con người sở dĩ sống được và minh mẫn là nhờ có đử ba món: tinh, khí và thần. Tinh, khí là chủ cúa xác thân; Thần là chủ của mạng sống. Hễ tinh thần lục dục quá mạnh thì tinh khí hao mòn: tinh khí hao mòn thì thân bị che lấp tối tăm, con người mất sáng suốt. Vì thế cho nên phải trừ dục tình để dưỡng tinh, luyện khí cho thân được cởi mở và phát hiện.
“Tiên đạo cho rằng khắp giáp thân thể con người đều có những cái huyệt, tức là những lỗ thông khí âm dương; huyệt ở chót bàn chân gọi là chi âm; huyệt ở đỉnh đầu là thiên thông. Khí đi trở lên là dương khí, khí đi xuống là âm khí.
Người tu tiên cốt luyện cho âm khí mất đi, chỉ còn cái khí thuần dương đi lên đỉnh đầu, tức là có thần thông và đắc đạo. Vì sao phải trừ bỏ khí âm? Bởi vì âm khí là trược khí, làm cho nặng nề, tối tăm, ưa thích điều dâm dục , làm hao tổn tinh thần. Hễ tinh thần hoằng dương tổn thì cái thần là cái linh động sáng suốt nhất, cũng là cái thông hiệp với trời đất, bị bế tắc”. Vậy nên, kẻ phàm là kẻ còn nặng khí âm, còn bậc tiên chỉ còn là khí thuần dương mà thôi.
”Để luyện khí, người tu tiên có nhiều phép tu gần giống như phép tọa thiền, nghĩa là ngồi ở một nơi thanh tịnh, rồi tập luyện các phép như: ”Tọa công”, ”Giao thiên trụ”, ”Thiệt giải thấu yết”.v.v…
Tóm lại những người tu theo đạo này, nếu chuyên tâm trị chí tập trung tư tưởng, luyện ”Tinh” hóa ”Khí”, luyện ”Khí” hóa ”Thành”, sau khi đã thuần thục, cũng được năm phép thần thông biến hóa. Họ trở thành tiên, có thể xuất thần bay đi dạo chơi các thế giới. Hoặc họ hứng nước mặt trăng, luyện linh đan để trị bệnh hay để uống cho được trường sinh bất tử thành địa tiên.
Những vị tiên này, rất tiếc là ngày nay, chúng ta không được thấy nên không dám chắc là có hay không. Nhưng dù có có đi nữa, thì trên lý thuyết, các vị này vì chưa được lậu tận thông, ”phiền não hữu lậu chưa hết” nên khi phiền não rối lên họ cũng bị đọa trở xuống, khi trường hợp ông Uất Đầu Lâm Phách, hay ông Độc Giác Tiên Nhân.v.v…Hơn nữa dù họ có luyện cái thân mình cho được trường sinh bất tử cũng không thể toại nguyện được, vì cái thân này là tứ đại giả hiệp, tất phải bị luật vô thường chi phối, không thể sống vĩnh viễn được. Nó lại chứa các vật bất tịnh thì dù có cưng dưỡng cho mấy rốt cuộc rồi cũng bị tan rã. Bởi lẽ đó người tu hành phải xem nó như cái bè đưa qua sông, khi qua sông rồi, chẳng nên mến tiếc cái bè mà chẳng chịu lên bờ.
Trong bộ Qui nguyên Trực chỉ, có kể chuyện ông tiên Lữ Đồng Tân, học trò của Tiên Hán Chung Ly, sau khi đấu phép với Ngài Huỳnh Long Hòa thượng bị thua, ông đã bỏ đạo Tiên theo đạo Phật. Lý do sự đầu Phật là vì ông Lữ Đồng Tân tự nhận thấy mình đã dụng tâm sai và đã đi lầm đường tu hành. Do đó, ông đã làm bài thơ sau đây để nói lên sự sai lầm của ông:
Nguyên văn:
Khí khước biều nan, kích tý cầm
Như kim bất luyến hống trung câm
Từ tùng nhất kiến Huỳnh Long hậu
Thì giác tùng tiên thố dụng tâm
Dịch nghĩa:
Bỏ lầu Linh dược ném đàn cầm.
Tôi nay chẳng tiếc nước miếng vàng (1)
Từ khi gặp Huỳnh Long hòa thượng
Mới biết từ trước dụng tâm sai.
(Xem quyển Lữ Đồng Tân đầu Phật)
Chú thích:
(1) Nước miếng vàng: Đối với người tu tiên, thì nước miếng rất qúy, họ không bao giờ nhổ vì sợ tổn khí, và dùng nước miếng của mình để luyện thành linh dược
3. Luyện Du già (Yoga): Yoga là một danh từ Ấn, gốc là chữ Yuj; Tàu dịch là Du già, nghĩa đen là “tự đặt mình dưới một cái ách”; nghĩa bóng là ”tự trói buộc cả tinh thần, thể xác vào một quy luật khắc khe” tự kiềm chế mình theo một kỷ luật đặc biệt, mà mục đích là tập trung toàn thể thân tâm làm một với bản thể của trời đất.
Du già cũng gọi là thuật luyện khí của Ấn Độ, gần giống thuật luyện khí của đạo Tiên. Theo thuyết Du già, trong thân thể con người có rất nhiều huyệt; trong số ấy có bảy huyệt từ hậu môn lên tới đỉnh đầu là quan trọng nhất. Bảy huyệt ấy nằm dài theo xương sống, và có một đường lên một đường xuống thông nhau. Vì sự si mê và các thứ dục vọng che lấp cho nên bảy huyệt ấy bị chướng ngại, khiến cho cái ”chân quả” từ dưới ”hỏa hậu” (chỗ hậu môn) không thể lên được. Nhất là vì thân thể không luyện tập, xương sống bị cong đi, các huyệt do đó bị bế tắc. Vậy muốn cho hỏa hậu (tức là cái thần lực trong con người) được thông qua các huyệt, lên tới đỉnh đầu thì phải chú tâm luyện cho xương sống giãn ra, các khớp xương được thông và thẳng.
Để đạt được mục đích nói trên, người luyện Du già phải tập nhiều tư thế, như tư thế ”giãn lưng ” tư thế ”lưỡi cày”, tư thế ”trồng chuối” (trút đầu xuống dưới, trở chân lên trên trời), để cho hỏa hậu lưu thông tới đỉnh đầu.
Ngày nay Du già được phổ biến qua các nước Âu -Mỹ, gần như một phong trào. Phần đông cho đó là một phương pháp thể dục, để luyện cho thân thể được khỏe mạnh, trí tuệ được sáng suốt, để tính toán và làm việc được nhiều và hiệu quả. Một số người đi xa hơn, muốn luyện Du già để được sống lâu, trẻ mãi, vượt ra khỏi những sự đòi hỏi của xác thân đầy dục vọng, thoát ra ngoài những nỗi lo âu, sợ sệt hằng ngày và sống một cuộc đời an vui, tự tại. Lại có một hạng người khác mong rằng Du già sẽ làm cho họ khám phá những năng lực tiềm tàng ẩn núp trong con người và làm cho họ trở thành những nhân vật phi thường, có những thần thông biến hóa, phép mầu chước lạ, họ cũng tập trung tư tưởng, định tâm chú ý như các lối tu thiền định; ngoài ra họ còn có tu tập một cách rất khổ sở, hành hạ thân xác, bắt nó chịu đựng những thử thách cực độ, như phơi nắng dầm sương, ngồi trên chông gai, đứng bằng hai tay, treo chân lên cổ, nhịn đói, nhịn khát,v.v…đó là những đạo sĩ người Ấn Độ thường gọi là ”pha-kia” (fakir).
Những người này khi tu đến mức độ cao, cũng có được những phép lạ, như dao chém không đứt, đâm không thủng, nhai ve chai, uống axit không sao, nằm ngủ một giấc luôn trong 3 tháng không ăn, không uống .v.v…
Nhưng dù họ thành công bao nhiêu đi nữa, thì cũng không thể thoát ngoài vòng trần tục liễu sinh thoát tử và minh tâm kiến tính được.
4. Luyện thôi miên. Đây cũng là một lối tu thiền của ngoại đạo, hiện nay rất thịnh hành trên thế giới. Nguyên tắc của phương pháp tu luyện này cũng là vận dụng tập trung tư tưởng vào một chỗ để cho tinh thần có sức mạnh sai khiến được sự vật. Người tập thôi miên, lúc mới đầu ngồi yên một chỗ, nhìn chăm chú vào một chấm đen vẽ ở trên tường, để cả tâm trí tập trung vào đó, ngoài ra không còn để ý vào một sự vật gì ở chung quanh nữa. Họ ngồi tập hàng giờ như thế, bao giờ tinh thần không còn tán loạn nữa, và có đủ sức mạnh để sai sử kẻ khác là họ thành công. Những người thôi miên giỏi, có thể dùng thôi miên để trị lành bệnh hay sai sử những người khác làm những chuyện phi thường, như xuất thân đi đến một xứ khác để thăm bà con, kể lại việc quá khứ hay tiền thân của một người khác.v.v…
Tóm lại, nhờ luồng điện tinh thần đã được tập trung thành sức mạnh, người thôi miên có thể bắt người khác làm những việc kỳ lạ theo ý muốn của mình. Nhưng vì lợi dụng, tâm không chân chính, chỉ tham cầu những điều huyền bí, mầu nhiệm bên ngoài, không lo dẹp trừ phiền não, hữu lậu, trau dồi tâm tính bên trong, để được minh tâm kiến tính nên không phải là chính đạo. Đến khi phiền não hữu lậu nổi lên hoặc nhiễm sắc tham tài v.v… thì các thần thông, diệu dụng đều mất hết. Bởi thế nên Phật dạy các đệ tử: ”Ngộ được đạo thì tự nhiên sẽ có các thần thông. Nếu được thần thông mà chưa ngộ được đạo thì thần thông ấy có khi bị mất”.
II. Phàm Phu Thiền
Phàm phu thiền cũng gọi là thế gian thiền. Sở dĩ gọi là phàm phu hay thế gian thiền là vì các pháp thiền này chưa có thể đưa hành giả ra ngoài tam giới, chưa chứng được thánh quả, mà vẫn còn quanh quẩn trong vòng phàm phu hay thế gian. Các pháp như Tứ thiền, Tứ không v.v… đều thuộc phàm phu thiền.
1. Tứ thiền tức là 4 giai đoạn tham thiền của phàm phu, đi dần từ chỗ nhàm chán cái vui thô thiển đến cái vui vi tế thanh tịnh. Bốn giai đoạn tham thiền này tuần tự diễn tiến như sau:
a. Sơ thiền, ly sinh hỷ lạc. Hành giả khởi đầu bằng tâm lý nhàm chán cái ô trược của cõi Dục, và mong cầu được xa lìa (ly) được cái ô trược của Dục giới, hành giả sinh vui mừng (sinh hỷ lạc). Đó là kết quả của giai đoạn tham thiền đầu tiên (sơ thiền).
b. Nhị thiền, định sinh hỷ lạc. Nhưng cái vui nói trên, lại làm cho tâm chao động, cần phải dứt trừ; vì thế hành giả phải vào định. Khi định có kết quả, cái vui mừng thô phù của sơ thiền chấm dứt và cái vui mừng vi tế trong định lại nảy sinh; vì thế cho nên gọi là “Định sinh hỷ lạc”.
c. Tam thiền, ly hỷ diệu lạc. Cái vui mừng ở cõi nhị thiền mặc dù vi tế, nhưng vẫn còn làm cho tâm rung động, vì thế hành giả lai cần bỏ cái vui mừng ở cõi nhị thiền. Khi bỏ được cái vui mừng này, thì một nỗi vui mầu nhiệm khác lại phát sinh; vì thế cho nên gọi”Ly hỷ diệu lạc”.
Trong các kinh thường chép: Cõi tam thiền là vui hơn hết (diệu lạc), vì ở các cõi dưới thì chỉ có vui thô động, còn ở các cõi trên thì chủ là tịch tịnh, không còn vui nữa.
d. Tứ thiền, xả niệm thanh tịnh. Ở cõi tam thiền, tuy đã hết cái vui thô động của Sơ thiền và Nhị thiền; nhưng vẫn còn cái vui mầu nhiệm. Nhưng hễ còn niệm vui, thì tâm chưa hoàn toàn thanh tịnh. Hành giả lại phải còn tiến lên một bậc nữa, đi vào cái thiền thứ tư, xả luôn cả cái niệm vui, để tâm được hoàn toàn thanh tịnh, vì thế nên gọi là”Xả niệm thanh tịnh”.
2. Tứ không định. Sau khi đã trải qua Tứ thiền và đã thành tựu viên mãn, hành giả tiếp tục tu thiền định và sẽ trải qua bốn giai đoạn gọi là Tứ không định sau đây. Sở dĩ gọi là Tứ không, vì khi vào bốn định này, thiền giả sẽ không còn thấy có cảnh thức tâm nữa.
a) Không vô biên xứ định. Thiền giả khi đã đạt được tứ thiền, tâm đã được hoàn toàn thanh tịnh, nhưng vẫn còn thấy có sắc giới, còn thân còn cảnh và bị hình săc trói buộc, nên sinh tâm nhàm chán. Để rời bỏ các hình sắc về thân và cảnh, thiền giả vào định thứ nhất của Tứ không, thể nhập với “Hư không vô biên”, tức là không thấy có ngăn cách, có biên giới của cảnh.
b) Thức vô biên xứ định. Thiền giả khi đã định thứ nhất của Tứ không, rời bỏ được sắc tướng của thân và cảnh, thấy được cái vô biên của hư không, nhưng vẫn còn giữ cái bản ngã hẹp hòi, vẫn còn thấy biên giới của tâm thức; khi thành tựu, tức thể nhập được vào cõi”Thức vô biên”.
c) Vô sở hữu xứ định. Thiền giả, mặc dù không còn thấy biên giới, ngăn cách của thức nhưng vẫn còn thấy có ngã, có tâm thức, có năng sở; mà hễ còn thấy năng sở, tức còn thấy mình và người, còn thấy có sở hữu. Vậy thiền giả phải vượt lên một tầng nữa, xa lìa sự chao động, năng sở, tức nhập định”Vô sở hữu xứ” (cõi không sở hữu).
d) Phi tưởng, phi phi tưởng xứ định. Thiền giả khi đã nhập định”Vô sở hữu”, không còn thấy nhân ngã, năng sở, nhưng vẫn còn “tưởng”. Mà còn tưởng thì còn vọng động. Vậy thiền giả phải tiến lên một tầng nữa, vào cõi “Định không tưởng”. Nhưng không tưởng đây, không có nghĩa là vô triều vô giác như đất đá; không tưởng, nhưng không phải không tưởng của đất đá, Không tưởng mà vẫn sáng suốt như một tấm gương, nhưng không phải là một tấm ván hay mặt đá. Đó là ý nghĩa của cõi định” Phi tưởng, phi phi tưởng”.
Có chỗ nói định “Tứ không” thuộc về ngoại đạo, nhưng người tu thiền, bắt đầu từ Sơ thiền đến Tam thiền, lúc bấy giờ có hai con đường rẽ: Một con đường đi về ngũ A-na-hàm (1) ở cõi Tứ thiền (2) thuộc về cảnh giới của thánh thứ ba (3); một con đường đi về Tứ không của cõi Vô sắc, thuộc về ngoại đạo.
(1) Ngũ A-na-hàm là năm cõi A-na-hàm: a) Vô phiền, b) Vô nhiệt, c) Thiện kiến, d) Thiện hiện, đ) Sắc cứu cánh.
(2) Tứ thiền có chín cõi ngoài năm cõi A-na-hàm, còn có bốn cõi: Vô vân, phước sinh, quảng quả, vô tưởng.
(3) Tiểu Thừa Thanh văn có bốn quả thánh A-na-hàm thuộc quả thánh thứ ba.
III. Nhị Thừa Thiền
Nhị Thừa hay Tiểu thừa thiền, thuộc về xuất thế gian thiền, nghĩa là các người tu theo các loại thiền này có thể vượt ra ngoài thế gian, thoát được sinh tử luân hồi. Tuy thế, pháp tu thiền này không đem lại một kết quả mau lẹ, lớn lao toàn diện như các lối Đại thừa thiền, mà chỉ có tính cách chậm chạp, tuần tự, cuộc bó, tu một pháp chỉ trừ được phiền não; nghĩa là chứng quả thấp nhỏ, có hạn lượng, nên thuộc về Nhị thừa thiền (Nhị thừa thiền là Thanh văn thừa và Duyên giác thừa).
Nhị thừa thiền có rất những phương pháp tu, như Ngũ đình tâm quán, Thập thất thế xứ quán, Bát hồi quả, Bát thắng xứ quán, Cửu tưởng quán, Thập lục đặng thắng, Lục diệu pháp môn, Tứ vô lượng tâm, Thông minh thiền, Bát niệm, Thập tưởng, Tứ đệ định, Sư tử phấn tấn, siêu việt tam muội, Ba mươi bảy phẩm trợ đạo. Tóm lại, hành quả của Nhị thừa thiền có thể đem giáo lý của một hay những pháp môn của Nhị thừa để tham sát tham thiền.
Trong phạm vi hẹp hòi của bài phổ thông này, chúng tôi không thể nói hết tất cả pháp môn tu thiền của Nhị thừa được, xin nói sơ lược một ít phương pháp. Nếu hành giả muốn đi sâu vào con đường tu này, phải chuyên môn học tập, phải nhờ minh sư dạy bảo, phải trải qua nhiều thời gian và nhiều công phu tu tập mới thành công.
1. Ngũ đình tâm quán
– Quán sổ tức, trừ tâm toán loạn
– Quán bất tịnh, trừ tâm tham sắc dục
– Quán từ bi, trừ tâm sân hận
– Quán nhân duyên, trủ tân si mê
– Quán giới phân biệt, trừ tâm chấp ngã.
(Xem Phật học phổ thông, khóa thứ IV)
2. Cửu tưởng quán
a. Tưởng thây sình tướng
b. Tưởng thây hoại diệt
c. Tưởng máu mủ chảy
d. Tưởng thây rục rã
đ. Tưởng thây xanh chàm
e. Tưởng thây bị giòi rúc rỉa
ê. Tưởng thây tan rã
g. Tưởng còn lại đống xương
h. Tưởng xương bị đốt tiêu.
3. Tứ vô lượng tâm
a. Tâm từ vô lượng: Thiền giả vờ mở rộng lòng Từ vô lượng, bao bọc chúng sinh trong tình thương rộng lớn vô biên.
b. Tâm bi vô lượng: Thiền giả vờ mở rộng lòng Bi vô lượng, cứu khổ cho chúng sinh trong năm đường.
c. Tâm hỷ vô lượng: Thiền giả vờ mở rộng tâm Hỷ (hoan hỷ) vô lượng, làm cho chúng sinh đều được Hỷ.
d. Tâm xả vô lượng: Thiền giả vờ mở rộng lòng Xả vô lượng, không lưu luyến cố chấp một việc gì.
Tứ vô lượng tâm là một pháp môn rất linh nghiệm: Phàm phu tu tứ vô tâm lượng, thì sau khi mạng chung sẽ sinh làm vua ở cỏi Tứ thiền; Nhị thừa tu Tứ vô lượng tâm, thì công đức được tăng trưởng, mau đặng Niết bàn, Bồ Tát tu Tứ vô lượng tâm thì lòng từ bi mở rộng vô biên và làm lợi ích cho chúng sinh không xiết kể.
(Xem Phật học phổ thông, khóa thứ IV)
4. Thập lục đặc thắng
Thập lục đặc thắng tức là mười sáu phép rất đặc biệt thù thắng, có thiền có quán, có đủ các thiền và có thể phát sinh ra quả vô lậu, không phải như Tứ thiền, Tứ không, không ra khỏi sinh tử. Mười sáu phép đặc biệt thù thắng này là:
a. Biết hơi thở vào
b. Biết hơi thở ra
c. Biết hơi thở dài ngắn
d. Biết hơi thở thắp thân
đ. Trừ các thân hạnh
e. Thọ hỷ
ê. Thọ lạc
f. Thọ các tâm hạnh
g. Tâm tác hỷ
h. Tâm tác nhiếp
i. Tâm tác giải thoát
k. Quán vô thường
l. Quán xuất tán
m. Quán ly dục
n. Quán diệt
o. Quán phí xả.
5. Thông minh thiền
Thông minh thiền tức là tham thiền để được lục thông và tam minh.
a. Lục thông tức là sáu phép thần thông như: thiên nhãn thông, thiên nhĩ thông, tha tâm thông, thần túc thông, túc mạng thông, lậu tận thông.
b. Tam minh tức là thiên nhãn minh, thiên nhĩ minh, lậu tận minh.
6. Thập nhất thế xứ quán
Thập nhất thế xứ quán tức là phép quán mười món biến khắp các xứ sở, sau đây:
a. Quán sắc xanh, khắp giáp tất cả chỗ
b. Quán sắc vàng, khắp giáp tất cả chỗ
c. Quán sắc đỏ, khắp giáp tất cả chỗ
d. Quán sắc trắng, khắp giáp tất cả chỗ
đ. Quán đất, khắp giáp tất cả chỗ
e. Quán nước, khắp giáp tất cả chỗ
ê. Quán gió, khắp giáp tất cả chỗ
g. Quán lửa, khắp giáp tất cả chỗ
h. Quán hư không khắp giáp tất cả chỗ
i. Quán thức tâm, khắp giáp tất cả chỗ
7. Bát bối xả quán:
Bát xả quán tức là tám phép quán có thể trái bỏ (bối xả) cảnh giới Tứ thiền, tứ định của thế gian, để thành tựu pháp xuất thế gian. Tám phép bối xả quán là:
a. Trong có sắc tướng, ngoài quán sắc để trái bỏ cảnh giới Sơ thiền.
b. Trong không sắc tướng, ngoài quán sắc, để bỏ cảnh giới Nhị thiền.
c. Quán thanh tịnh để trái bỏ cảnh Tam thiền và Tứ thiền.
d. Quán trái bỏ Hư không vô biên xứ.
đ. Quán trái bỏ Thức vô biên xứ
e. Quán trái bỏ Vô sớ hữu xứ
ê. Quán trái bỏ Phi tưởng, phi phi tưởng xứ.
f. Quán trái bỏ diệt thọ tưởng.
8. Bát thắng xứ quán
“Thắng” có nghĩa là thù thắng, là hơn. Tám phép quán này về cảnh sở quán, cũng như công đức thu thập được trong khi thu hành, đều thù thắng hơn tám món Bối xả trên, nên gọi là ”Bát thắng xứ quán”’.
a. Trong có sắc tướng, ngoài có ít sắc, thắng xứ.
b. Trong có sắc tướng, ngoài quán nhiều sắc, thắng xứ
c. Trong không sắc tướng, ngoài quán ít sắc, thắng xứ
d. Trong không sắc tướng, ngoài quán nhiều sắc, thắng xứ
đ. Quán sắc xanh, thắng xứ
e. Quán sắc vàng, thắng xứ
ê. Quán sắc đỏ, thắng xứ
f. Quán sắc trắng, thắng xứ
9. Lục diệu pháp môn
Lục diệu pháp môn là sáu phép môn mầu nhiệm sau đây:
a) Số. b) Tùy. c) Chỉ. d) Quán. e) Hoàn. f) Tịnh.
(Xem quyển Lục Diệp pháp môn)
10. Bát niệm xứ
Với phép quán tám niệm sau này, thiền giả sẽ trừ đượcsự sợ hãi khi tu cửu tưởng và sẽ được đạo quả
a) Niệm Phật. b) Niệm pháp. c) Niệm tăng. d) Niệm giới. f) Niệm xả. g) Niệm hơi thở ra vào. h) Niệm chết (nhớ chết).
11. Thập quán tưởng
Thập quán tưởng gồm có:
a). Tưởng vô thường, b). Tưởng khổ, c), Tưởng vô ngã , d). Tưởng ăn vật bất bình, đ). Tưởng thế gian không vui, e). Tưởng chết, f). Tưởng bất tịnh, g). Tưởng đoạn, h). Tưởng lìa, i). Tưởng hết.
12. Cửu thế đệ định
Cửu thế đệ định là 9 món thiền định mà thiền giả sẽ tuần tự theo thứ lớp tu luyện: từ Sơ thiền đến Tứ thiền, rồi đến Tứ định, và cuối cùng, cộng thêm định Diệt thọ tưởng là chín món tất cả.
13. Sư tử phấn tấn Tam muội
Với pháp thiền này, hành giả bắt đầu tham thiền như pháp Cửu thứ đệ định nói ở trên, nghĩa là bắt đầu từ Sơ thiền đến thiền định thứ chín là Diệt thọ tưởng định, rồi đi ngược trở lại, từ thiền thứ chín đến Sơ thiền. Thiền giả tới lui trong thiền định một cách thông suốt, tự tại, đường hoàng, oai nghi như dáng đi đứng, tiến thoái của con sư tử, nên gọi là ”Sư tử phấn tấn Tam muội”. Kết quả của lối thiền này, nếu được hoàn toàn siêu việt thì thiền giả sẽ là Bồ Tát. Nếu không hoàn toàn tự tại và chưa siêu việt thì thành Thanh Văn.
14. Ba mươi bảy pháp trợ đạo
Thiền giả cũng có thể lấy một pháp môn hay nhiều pháp môn trong số 37 pháp trợ đạo để tham thiền, tu luyện. Ba mươi bảy pháp trợ đạo đã có nói rõ trong Phật học Phổ thông Khóa thứ ba. Ở đây, chúng tôi chỉ xin nhắc qua để quý độcgiả nhớ lại thôi:
a). Ngũ căn
b). Ngũ lực
c). Tứ chánh cần
d). Tứ như ý túc
đ). Tứ niệm xứ
e). Thất Bồ đề phần
ê). Bát chính đạo phần.
Kết Luận Về Nhị Thừa Thiền
Các pháp tu thiền của Nhị thừa hay Tiểu thừa nói trên, như quý độc giả đã thấy, nhiều không thể kể xiết. Tuy thế, hành giả muốn cho có kết quả, phải chọn lựa phương pháp nào thích hợp với trình độ của mình, chứ không phải gặp pháp môn nào tu theo pháp môn nấy được. Sự lựa chọn này cũng cần được các bậc thầy hướng dẫn. Vì thế, chúng ta thường nghe ngày xưa các vị chân tu đi “cầu pháp”, hết xứ nầy đến xứ nọ, không quản công lao khó nhọc, có nhiều khi hy sinh cả tính mạng nữa. Cầu pháp nghĩa là tìm cầu minh sư chỉ dạy phương pháp tu hành, như Ngài Thiện Tài đi tham cầu 53 vị Thiện triều thức, Ngài Huyền Trang đi khắp nước Trung Hoa rồi sang Ấn Độ để cầu Pháp. Hành giả sau khi được vị minh sư nhận lời, còn phải theo hầu hạ một thời gian rất lâu để vị minh sư ấy quan sát, thăm dò căn cơ, trình độ một cách chu đáo, như Ngài Xá-lợi-phất đem pháp Sổ tức dạy người giữ nghĩa địa, hay pháp quán Bất tịnh dạy người thợ rèn tu, thì chỉ hoài công vô ích, chứ không kết quả gì hết.
Hành giả cũng nên nhớ một điều nữa, là trên bước đường tu hành chớ nên bồn chồn, nóng nảy vô ích. Sự tu hành củng như trồng cây, không thể nóng nảy được. Người trồng cây, lo vô phân tưới nước, làm đầy đủ bản phận của mình, rồi kiên nhẫn chờ đợi; đến khi đủ sức đúng thời tiết, cây sẽ tự đơm bông trổ trái một cách tự nhiên.
Người tu hành củng vậy, cứ hằng ngày lo tu tập, tích trữ nhiều năm, đến khi công tròn quả mãn, thì được minh tâm kiến tính.
Hãy nhớ rằng tu hành phải trải qua nhiều đời nhiều kiếp, chứ không thể mới một hai đời mà thành Phật được.
IV. Đại Thừa Thiền
Đại thừa Thiền là pháp tu thiền bậc của Đại thừa, cũng gọi là xuất thế gian thượng thượng thiền. Pháp thiền này chỉ dành riêng cho những người thượng căn rất thông minh và lanh lợi tu. Những bậc Đại thừa Bồ Tát đã nhiều đời nhiều kiếp tu hành, phá hết các phiền nảo thô trược, chỉ còn vi tế vô minh, nếu kiếp này gặp được minh sư chỉ giáo cho phép tu Đại thừa thiền nầy, thì sẽ được tỏ ngộ. Cũng như cành hoa sắp nở, chỉ thêm chút ít công phu vun tưới, thì hoa sẽ trổ ngay. Yếutố căn bản của Đại thừa thiền là trí tuệ. Thiền giả phải lấy trí tuệ để tự quan sát tam tính. Nếu thiếu trí tuệ, thiền giả khó được kết quả khi tu theo Đại thừa thiền.
Các Pháp Thiền Định Của Đại Thừa
Các pháp thiền định của Đại thừa rất nhiều như: Pháp hoa tam muội, niệm Phật tam muội, Ban châu tam muội, Giác ý tam muội, Thủ tăng nghiên tam muội, Tứ tính thiền, Nhất thế thiền, Nhất thế môn thiền, Thiện nhân thiền, Nhất thế hạnh thiền, Trừ phiền não thiền, Thử thế tha thế thiền, Thanh tịnh tịnh thiền, Tự tính thanh tịnh thiền, Như lai tối thượng thừa thiền, Đạt Ma sư tổ thiền v.v…
Dưới đây chúng ta hãy nghiên cứu qua một số pháp thiền định thông thường của Đại thừa.
1. Sao gọi là “Pháp hoa tam muội”?
Phương pháp nay dựa theo kinh Đại phẩm Bát nhã. Hành giả tu pháp này, tâm ý giác ngộ tất cả các pháp và được vô sinh nhẫn (độc giả nào muốn rõ thêm, hãy xem lời bình luận của Ngài Trí Giả Đại Sư).
2. Sao gọi là “Thủ nghiêm tam muội”?
Phương-pháp này căn cứ theo kinh Thủ Lăng Nghiêm. Hành giả phải nhận chân rằng các pháp đều từ thực thể như là Như Lai tạng tam mà tùy duyên biến hiện, như huyễn, như hóa. Hiểu rõ các pháp đều như huyễn như hóa, rồi dựa theo lý ấy mà tham thiền nhập định, nên cũng gọi là như hiền tam muội.
3. Sao gọi là “Tự tính thiền, Nhất thế thiền, nan thiền v.v…”?
Các món thiền như ”Tự tính thiền, Nhất thế thiền, Nan thiền, Nhất thế môn thiền. Thiện nhân thiền, Nhất thế hạnh thiền, Trừ phiền não thiền, Thử thế tha thế thiền, Thanh tịnh tịnh thiền”, gồm cả thảy chín món và được gọi là Đại thừa thiền.
Sở dĩ, gọi các món thiền này là Đại thừa thiền, vì các vị Bồ Tát nhờ y theo các món thiền này mà tấn tu làm nên được công hạnh rộng lớn, thẳm sâu không thể lường được (độc giả nào muốn hiểu rõ thêm, hãy đọc quyển “Pháp giới thứ đệ sang môn” do Ngài Trí Giả Đại Sư soạn).
4. Sao gọi là “Trực chỉ thiền”?
Trực chỉ thiền là pháp thiền chỉ thẳng tâm người, thấy tính thành Phật, không dùng phương tiện tu quán và cũng không cần kinh giáo.
5. Sao gọi là “Như Lai thanh tịnh thiền”?
Như Lai thanh tịnh thiền là pháp thiền thanh tịnh của Như Lai. Như chúng ta đã biết, Đức Phật Thích Ca trước khi chưa thành đạo, đã ngồi tham thiền 6 năm dưới gốc cây Bồ đề. Sau khi phá trừ hết vô minh phiền não, tâm được thanh tịnh, Ngài chứng được đạo Bồ đề. Do đó, phép thiền này được gọi là “Như Lai thanh tịnh thiền”.
6. Sao gọi là “Như Lai Tối thượng thừa thiền”?
Đây là phép thiền cao siêu hơn tất cả các phép thiền mà đức Như Lai đã ứng dụng.
7. Sao gọi là Đạt Ma Tổ Sư thiền ”?
Như chúng ta nghe, Ngài Đạt-Ma sau khi từ Ấn Độ sang Trung Hoa truyền đạo, đã ngồi xây mặt vào tường chín nằm, tại chùa Thiếu-Lâm để thamm-thiền. Đat-Ma Tổ-sư thiền tức là phép thiền mà Ngài đã tu luyện ở chùa Thiếu-Lâm vậy.
Các phép thiền của Đại thừa, như quý độc-giả đã thấy ở phần trên, tuy nhiều không kể xiết, tựu-trung có thể chia làm hai loại lớn:
1. Một loại thường gọi là tam muội, căn cứ theo kinh sách của Phật Tổ truyền dạy mà tu tập, có tu có quán, có phương pháp nhất định, như Pháp hoa tam muội, Niệm Phật tam muội, Ban châu tam muội, Giác ý tam muội, Thủ Lăng Nghiêm tam muội v.v…Các loại tam muội này vì có quy củ, có phương pháp nhất định và được phổ biến bằng văn tự, tương đối ít khó khăn và bí hiểm hơn loại thứ hai mà chúng tôi sắp nói dưới đây, nên được nhiều người tu luyện và số người thành tựu cũng nhiều.
2. Một loại thứ hai, được truyền dạy không căn cứ theo kinh giáo, không có văn tự, tức là loại thiền “giáo ngoại biệt truyền, bất lập văn tự”’, như các pháp “Trực chỉ thiền, Như Lai thanh tịnh thiền, Tự tính thanh tịnh thiền, Như Lai tối thượng thừa thiền, Đạt Ma Tổ sư thiền v.v… Với loại thiền này là người ngộ trước dùng tâm giác ngộ của mình để ấn chứng cho người sau giác ngộ. Đó tức là loại thiền “Dĩ tâm ấn tâm, trực chỉ nhân tâm kiến tính thành Phật”: Vị minh sư dùng tâm mình đễ tiếp xúc với tâm đệ tử, truyền thẳng sự giác ngộ của mình qua tâm của đệ tử; như dùng ngọn đèn sáng chói mà tâm mình mãi bừng phát ra để chiếu vào tâm đệ tử; và tâm này cũng lại nhờ ảnh hưởng trực tiếp của sự giác ngộ của thầy mà bừng sáng lên và truyền nối từ thầy đến trò, từ đời này sang đời khác. Loại thiền này tức là loại thiền đa xây dựng truyền nối từ Đức Phật Thích Ca xuống cho đến Ngài Lục tổ. Đây là một lối “truyền đạo” hay “truyền đăng” trực tiếp linh động chính thống, nhưng không phổ biến như lối trên, vì mỗi đời chỉ truyền cho mỗi người, chứ không thể truyền cho nhiều người trong một lúc được. Và người được ấn chứng phải là một vị có trí tuệ xuất chúng, siêu phàm không ai sánh kịp.
Cách truyền dạy pháp thiền này có hai lối:
a) Tham cứu một câu thoại đầu. Thoại đầu là một câu nói thiền hay “công án”, nghĩa là một đề án hay luận án gồm một câu rất ngắn, nhưng ý nghĩa sâu xa, đối với người thường không hiểu được.
Khi một vị Tổ của phái Thiền tông này nhận thấy trong hàng đệ tử của mình có một vị xuất chúng, có thể giữ gìn mối đạo tiếp nối sự nghiệp của Thiền tông và tỏ ngộ đạo mầu được, thì vị Tổ trao cho vị đệ tử ấy một câu thoại đầu (một luận án, như bây giờ, các vị bác sĩ hay tiến sĩ, trước khi ra trường, phải nộp cho ban giám khảo). Vị đệ tử này, đêm ngày tham cứu câu thoại đầu ấy, có nhiều khi trải qua một thời gian mười năm hoặc mười lăm năm mới tỏ ngộ được. Sau khi xét thấy đệ tử của mình đã tỏ ngộ đạo mầu rồi, vị Tổ sư mới ấn chứng cho.
b) Nhưng nhiều khi vị Tổ sư lại không trao cho đệ tử của mình một câu thoại đầu để tham cứu, mà lại dùng những hình thức rất lạ lùng, người thường khó có thể hiểu được như: đánh, hét, ra dấu, mời ăn cơm, uống nước trà v.v… chẳng hạn; như có một vị đệ tử đến cấu đạo với một vị Tổ sư, vị này không nói gì cả, chỉ dùng Thiền tượng (roi thiền) đánh dập vị đệ tử kia, để xem sự phản ứng ấy như thế nào. Do sự phản ứng mà vị Tổ sư biết được vị đệ tử kia đã giác ngộ hay chưa.
(Xem Pháp Bảo Đàn Kinh).
Tóm lại, pháp thiền này rất là màu nhiệm, không thể nghĩ bàn được, cho nên người xưa có nói: “Thiền cơ huyền diệu” (máy thiền mầu nhiệm). Các vị Tổ sư trong khi truyền đạo, không dựa theo một nguyên tắc, một phương pháp gì nhất định cả. Các Ngài tùy theo thời cơ mà ứng biến, nghĩa là quan sát căn cơ của người cầu đạo, xét đã đúng thời chưa, và phải dùng phương pháp gì cho vị đệ tử kia được ngộ đạo, rồi các Ngài tùy cơ lập pháp. Tất nhiên phương pháp này các Ngài dùng chỉ trong nhất thời thôi. Do đó, mà không thể biết trước được các Ngài sẽ dùng phương pháp gì để truyền thọ.
Về sau cũng có người bắt chước những phương pháp như đánh, hét v.v… nhưng vì không biết quán thời cơ, nên chỉ làm cho người đau và sợ mà thôi, chứ không có hiệu quả gì.
Hệ Thống Truyền Thừa Của các Tổ Trong Phái Thiền tông Tại Ấn Độ
1.Ngài Ma Ha Ca Diếp, Sơ tổ của Thiền tông ở Ấn Độ
Trong kinh Phạm Thiên vấn Phật quyết nghi và trong bộ “Thích nghi kê cổ” quyển nhất,chùa chép đại khái như sau: khi Phật ở hội Linh Sơn, có ông Đại Phạm Thiên Vương, đem hoa sen dâng cúng Phật. Phật cầm cành hoa sen lên để khai thị cho đại chúng (thiền cơ). Toàn thể chúng hội đều yên lặng, không ai hiểu thâm ý của Phật như thế nào. Duy có Ngài Ma Ha Ca Diếp là tỏ ngộ được thiền cơ của Phật, nên đổi sắc mặt vui vẻ, mỉm cười (phá nhan vi tiếu). Đức Phật nhận thấy, liền ấn chứng (chứng nhận) cho Ngài Ca-Diếp được đắc truyền và làm tổ thứ nhất (Sơ tổ ở Ấn Độ) Phật tuyên bố như sau:
Nguyên văn:
Ngô hữu chính pháp nhãn tạng
Niết bàn diệu tâm, thật tướng vô tướng,
Vi diệu pháp môn, kim phú Ma Ha Ca Diếp.
Dịch nghĩa:
Ta ương “chính pháp nhãn tạng”, cũng gọi là Niết bàn diệu tâm, cũng tên là thật tướng vô tướng cũng gọi là “Vi diệu pháp môn”, nay ta truyền cho ông Ma Ha Ca Diếp.
Sau đó, Phật truyền y bát và nói bài kệ truyền pháp như sau:
Nguyên văn:
Pháp pháp bản vô pháp
Vô pháp pháp, diệc pháp
Kim phú vô pháp thời
Pháp pháp hà tằng pháp.
Dịch nghĩa:
Các pháp vốn không pháp
Không pháp cũng là pháp
Nay truyền cái vô pháp (vô tướng)
Vô pháp nào có pháp.
Đây là nguồn gốc phát khởi Thiền tông, lấy tâm truyền tâm (dĩ tâm ấn tâm) không dùng kinh giáo và phương tiện.
2. Ngài A-Nan, Tổ thứ hai của Thiền tông ở Ấn Độ
Một hôm Ngài A-Nan hỏi Ca-Diếp:
– Ngoài việc truyền y bát, đức Thích Tông còn truyền pháp gì riêng cho Ngài nữa không?
Tổ Ca-Diếp gọi to:
– A-Nan!
Ngài A-Nan: Dạ!
Tổ dạy tiếp:
– Cây sào phướn trước của chùa ngã!
Ngài A-Nan lièn tỏ ngộ Thiền cơ, nên được tổ Ca-Diếp truyền y bát và ấn chứng cho làm vị tổ thứ hai. (Xem Phật học từ điển, trang 1638 về mục “Ca-Diếp can sát”).
Từ Ngài A-Nan trở về sau, có thêm 26 vị Tổ về Thiền tông nữa. Cộng cả Ngài Ca-Diếp và Ngài A-Nan, ở Ấn Độ có cả thảy là 28 vị Tổ, thứ lớp tuần tự như sau:
1 .Tổ Ma Ha Ca Diếp
2. Tổ A-Nan
3. Tổ Thương-Na Hòa-Thứ
4. Tổ Ưu-Ba Cúc Đa
5. Tổ Đề-Đa-Ca
6. Tổ Di Giá Ca
7. Tổ Bà Tu Mật
8. Tổ Phật Đà Nan Đề
9. Tổ Phục Đà Mật Đa
10. Tổ Hiếp Tông Giả
11. Tổ Phú Na Giạ Xa
12. Tổ Mã Minh
13. Tổ Ca Tỳ Ma La
14. Tổ Long Thọ
15. Tổ Ca Na Đề Bà
16. Tổ La Hầu Na Đa
17. Tổ Tăng Già Nan Đề
18. Tổ Già Đa Xá Đa
19. Tổ Cưu Ma La Đa
20. Tổ Xà Giạ Đa
21. Tổ Bà Tu Bàn Đầu
22. Tổ Ma Noa La
23. Tổ Hạc Lặc Na
24. Tổ Sư Tử
25. Tổ Bà Xá Tư Đa
26. Tổ Bát Như Mật Đa
27. Tổ Bát Nhã Đa La
28. Tổ Bồ Đề Đạt Ma.
(Theo truyện Phú Pháp Tạng Nhân duyên)
Hai mươi tám vị tổ này được làm rực rỡ cho Phật Giáo ở Ấn Độ, chứ không cho riêng gì Thiền tông Phật Giáo sau này được lan rộng trên toàn cầu, một phần lớn do công đức của 28 vị Tổ này. Ngày nay khi nhắc đến những tên như Ma Ha Ca Diếp, A Nan, Hiếp Tông Giả, Mã Minh, Long Thọ, không một Phật tử nào là không biết đến. Và sự kiện này chứng tỏ rằng phần lớn các vị Tổ có tiếng tăm đều ở trong Phật Thiền tông. Sự nhận xét này không những được chứng minh ở Ấn Độ, mà cả đến Trung Hoa, Nhật Bản và đến Việt Nam nữa.
Sự Truyền Thừa Thiền tông Ở Trung Hoa
1. Ngài Bồ Đề Đạt Ma, sơ Tổ của Thiền tông ở Trung Hoa
Sau khi Ngài Bát Nhã Đa La, vị Tổ 27 của Thiền tông ở Ấn Độ, ấn chứng cho làm tổ thứ 28, Ngài Bồ Đề Đạt Ma ở lại Ấn Độ ít lâu, rồi vâng lời phú chúc của sư phụ, Ngài sinh Trung Hoa truyền đạo.
Ngài sang Trung Hoa nhằm vào đời vua Lương Võ Đế (528 dương lịch) trị vì, Ngài đến yết kiến vua và hy vọng rằng vua sẽ giúp một tay đắc lực trong việc truyền bá Phật Giáo ở Trung Hoa. Nhưng nhận thấy căn cơ của vua còn thấp thỏi và tín ngưỡng của vua chỉ có tính cách hình thức bề ngoài, nên tổ Đạt Ma được giả từ vua đến tu tại chùa Thiếu Lâm, ở Trung Sơn (đất Ngụy). Ngài ngồi quay mặt vào tường, tham thiền nhập định trong chín năm, đợi thời cơ thuận tiện để truyền đạo (xem quyển “Tổ Đạt Ma”, do Hương Đạo xuất bản). Chính lối tham thiền này mà đời sau có tên là ”Đạt Ma Tổ sư thiền ”. Trong thời gian chín năm, Ngài tham thiền ở Thiếu Lâm, có nhiều vị tu sĩ nghe danh Ngài, đến cầu đạo, nhưng Ngài không tiếp một ai. Đó cũng là một phương pháp dò xét căn cơ, tâm tính của những người đến cầu đạo có thiết tha với đạo hay không. Trong số những người đến cầu đạo này, chỉ có một vị tỏ ra vô cùng kiên nhẫn nhiệt thành, dám hy sinh tất cả vì đạo. Đó là Ngài Thần Quang mà sau này được tổ Đạt Ma ấn chứng cho làm tổ thứ hai của Thiền tôngg ở Trung Hoa, và đổi pháp hiệu là Tuệ Khả.
Để làm kim chỉ nam cho người tu thiền đời sau, tổ Đề Đạt Ma còn truyền lạ bộ kinh Lăng Già gồm 4 quyển, rất có giá trị.
2. Ngài Tuệ Khả (Thần Quang) vị tổ Thiền tôngg thứ hai ở Trung Hoa
Ngài Thần Quang, nghe danh tổ Đạt Ma đến cầu đạo. Nhưng tổ không tiếp. Ngài Thần Quang quỳ đợi luôn mấy năm suốt mấy năm ở ngoài hiên chùa; nhưng tổ cũng không đoái hoài đến. Cuối cùng, để tỏ lòng chí thành tột mức của mình, lúc bấy giờ tổ Đạt Ma mới quay lại hỏi:
– Ông đến đây cầu gì?
Ngài đáp:
– Con cầu pháp an tâm.
Tổ bảo:
– Ông đem tâm đến đây để ta an cho.
Ngài thưa:
– Con tìm tâm không được.
Tổ dạy:
– Ta đã an tâm cho ông rồi đó!
Ngài liền ngộ đạo. Tổ Đạt Ma nói bài kệ sau đây, trong khi truyền pháp cho Ngài Tuệ Khả:
Nguyên văn:
Ngộ bản lai tư độ
Truyền pháp độ mê tình
Nhất hoa khai ngũ diệp
Kết quả tự nhiên thành.
Dịch nghĩa:
Ta đến nước Trung Hoa
Truyền pháp độ kẻ mê
Một bông trổ năm cánh
Kết quả tự nhiên thành.
3. Ngài Tăng Xán, vị tổ thứ ba của Thiền ở Trung Hoa
Ngài Tuệ Khả, sau một thời gian hành đạo, lại ấn chứng cho Ngài Tăng Xán làm vị Tổ thứ ba của Thiền tôngg ở Trung Hoa.
4. Ngài Đạo Tín, vị tổ thứ tư của Thiền tổ ở Trung Hoa
Tổ Tăng Xán truyền pháp cho Ngài Đạo Tín là vị tổ thứ tư. Sự truyền pháp lại chia ra làm hai dòng, do hai ngài sau đây đứng đầu.
Ngài Hoằng Nhã ở núi Đông Sơn, huyện Huỳnh Mai.
Ngài Pháp Dung ở non Ngưu Đầu, cũng gọi là “Ngưu Đâu Thiền”.
5. Ngài Hoằng Nhẫn,vị tổ thứ năm của Thiền tông ở Trung Hoa
Chữ Hoằng Nhẫn có nghĩa là kiên nhẫn tột độ, chịu đựng lâu dài. Hai chữ này có thể tóm tắt cho cả một câu chuyện truyền pháp, bao hàm nhiều tính chất nhẫn nhục sau đây:
Một hôm Ngài Đạo Tín, vị tổ thứ tư Thiền tôngg, thấy một ông già đến cầu đạo, căn tính thông lợi,có thể được truyền thọ đạo pháp. Nhưng vì tuổi ông đã già, chẳng còn sống được lâu nên Tứ tổ dạy:
Ta đã già, ông đã già! Nếu truyền pháp cho ông ít ngày ta chết, rồi ông cũng chết, thì ai ở lại mà truyền đạo? Vậy nếu ông có thhể đi đổi xác, ta sẽ truyền đạo cho! Ông già thưa:
– Nếu con đi đổi xác chưa xong, mà lỡ Tổ được tịch trước, thì làm sao truyền đạo cho con được?
Đức Tứ tổ dạy:
– Ta sẽ ở nán lại cõi đời để chờ ông.
Vâng lời tổ dạy, ông giá đi vòng theo dòng suối, thấy một cô gái ngồi giặt bên bờ. Ông già hỏi:
– Cô cho tôi ngủ nhờ một đêm, có được không?
Cô gái thưa:
– Ông hãy hỏi cha mẹ cháu.
Ông già nói tiếp:
– Nếu cô bằng lòng thì tôi hỏi sau.
Cô gái trả lời:
– Dạ bằng lòng
Được lời, ông già đi khuất vào rừng rồi bỏ xác.
Còn cô giá kia, không có chồng mà từ đó trở nên có mang. Bị cha mẹ đánh đuổi, cô gái phải bỏ nhà đi ăn xin vất vả, nhẫn chịu không biết bao nhiêu điều khổ nhục. Sau khi sinh được đứa bé được vài tuổi, cô bồng nó vào chùa. Đứa bé vừa trông thấy Tứ tổ, mừng rỡ mở miệng cười. Tổ nói:
-Ta đang trông đợi ngươi đây!
Tổ xin đứa bé để nuôi và đặt tên là Hoằng Nhẫn. Ngài đặt tên ấy là có ý rằng: Tổ đã nhẫn đợi, chưa chết để chờ truyền đạo, và bà mẹ đã chịu bao sự nhục nhã, oan ức, khổ sở để sinh đứa bé.
Tổ Đạo Tín nuôi đứa bé cho đến khi khôn lớn ròi truyền pháp cho. Ngài Hoằng Nhẫn tức là vị tổ thứ năm của Thiền tôngg. Sau khi truyền đạo xong, tứ tổ Đạo Tín mới viên tịch (xem Quy Nguyên Trực Chỉ âm nghĩa).
6. Ngài Tuệ Năng vị tổ thứ sáu của Thiền tôngg ở Trung Hoa
Ngài Tuệ Năng lúc nhỏ nhà nghèo, không biết chữ, chuyên nghề đốn củi đem bán lấy tiền về nuôi mẹ già. Một hôm, gánh củi đến bán cho một nhà phú ông. Trong khi chờ đọi Ngài lắng nge chủ nhà tụng kinh Kim Cang. Đến câu “ưng vô sở trụ nhi sinh kì tâm”, Ngài liền ngộ đạo.
Đợi cho chủ nhà tụng kinh xong, Ngài trầm trộ khen ngợi và hỏi rằng:
– Chẳng hay ông tụng kinh gì mà hay quá vậy?
– Tôi cũng mốn thọ trì tụng đọc như ông.
Phú ông mách cho Ngài:
– Tại núi Đông Sơn, huyện Huỳnh Mai có đức Ngũ tổ, thường truyền Phật độ người, ông nên đến đó mà mà cầu đạo.
Ngài trả lời:
– Tôi cũng muốn như thế lắm; ngặt còn mẹ già không ai nuôi dưỡng nên không biết liệu làm sao!
– Phú ông bảo:
– Nếu ông thật quyết chí xuất gia cầu đạo, thì hãy về cố gắng đốn củi tật nhiều, đem đến đây tôi sẽ đổi vàng cho. Ông lấy vàng ấy để lại nuôi mẹ, rồi đi xuất gia.
Ngài Tuệ Năng mừng rỡ trở về, ngày đêm cố gắng đốn thật nhiều củi, đem đến bán cho Phú ông, và sau khi thu xếp việc nhà xong xuôi, Ngài đến huyện Huỳnh Mai cầu bái yết đức Ngũ tổ Hoằng Nhẫn.
Ngũ tổ thấy Ngài hỏi:
– Ông ở đâu đến và đến đây để cầu việc gì?
Ngài đáp:
– Con từ phương Nam đến đây, để cầu làm Phật.
Ngũ tổ thấy hình thù Ngài kì dị, nhưng căn tính lại thông lợi phi thường, có thể nối Tổ vị sau này. Ngài không muốn trong chúng biết, nên giả quở to rằng:
– Ông là người mọi rợ phương Nam mà cầu thành Phật làm gì?
Ngài Tuệ Năng trả lời:
– Bạch tổ sư! Thân người tuy có phân chia kẻ Nam người Bắc, chứ Phật tính vẫn bình đẳng, không phân biệt Nam, Bắc.
Ngũ tổ sợ trong công chúng để ý, lộ bí mật nên chẳng hỏi han gì nữa, mà truyền cho Ngài xuống nhà trù công giã gạo.
Trải qua một thời gian lâu, một hôm Ngũ tổ thấy mình được già, muốn chọn người truyền Tổ vị, nên tuyên bố rằng:
– Nếu ai làm kệ dâng lên, được tỏ ngộ thiền cơ, thì sẽ ấn chứng và truyền pháp cho làm Tổ thứ sáu.
Tin này được truyền ra rất mau chóng.
Trong chúng mọi người đều nô nức, xôn xao bàn tán:
Trong chúng chỉ có Thượng tọa Thần Tú là thông minh, học nhiều và tài giỏi hơn hết, chắc thế nào Thượng tọa cũng được truyền tổ vị.
Nhưng Thượng tọa Thần Tú lại không dám tin chắc mình sẽ được cái may mắn ấy, nên không dám trực tiếp đem dâng bài kệ của mình cho Ngũ Tổ. Thượng tọa đợi đêm khuya thanh vắng, trong chúng đều ngủ cả, mới cầm đèn hồi hợp đến viết một bài kệ trên vách phía đông lang và không dám ký tên. Thượng tọa Thần Tú nghĩ thầm:” Nếu nhờ công phu tu hành bấy lâu mà bài kệ này được trúng ý Tổ, thì đây là một diễm phúc lớn lao vô cùng cho ta. Lúc bấy giờ ta sẽ ra bái nhận, bằng không thì ta sẽ làm thinh như không ai biết”.
Nguyên văn:
Thân thị Bồ Đề thọ
Tâm như minh cảnh đài
Thời thời thường phất thức
Dật sử nhá trần ai.
Dịch nghĩa:
Thân là cây Bồ Đề
Tâm như đài gương sáng
Thường ngày hằng quét lau
Chớ cho dính bụi trần.
Sáng nay, tăng chúng qua lại thấy bài kệ xuất hiện trên vách đông lang, ai nấy đều trầm trồ kính phục:
– Đây rồi! Kế tổ vị đây rồi! Nếu không phải Thượng tọa Thần Tú thì còn ai nữa!
Nghe tăng chúng trầm trồ khen ngợi, nô nức kéo nhau đến xem bài kệ, Ngài Tuệ Năng cũng từ nhầ trù theo chúng lên xem. Sau khi xem xong bài kệ, Ngài Tuệ Năng nói:
– Còn đứng ngoài cửa rào.
Kẻ qua người lại nghe Ngài nói thế, bĩu môi khinh bỉ:
-Đã dốt nát không biết một chữ thế kia, mà dám chê là còn đứng ngoài cửa rào!
Ngài Tuệ Năng ôn tồn bảo:
-Tôi cũng có một bài kệ, xin các Ngài viết lên vách giùm tôi, vì tôi không biết chữ.
Một người liền hoan hỷ viết hộ. Tuệ Năng đọc bài kệ sau đây:
Nguyên văn:
Bồ Đề bản vô thọ
Tâm phi minh cảnh đài
Bản lai vô nhất vật
Hà xứ nhá trần ai?
Dịch nghĩa:
Bồ Đề vốn không cây
Tâm không phải đài gương
Xưa nay không một vật
Chỗ nào dính bụi trần?
Nghe xong bài kệ, mọi người đều kinh ngạc: Không ngờ một người dốt nát như thế mà lại làm được bài kệ xuất sắc thâm diệu như thế?
Ngũ Tổ thấy trong chúng xôn xao bàn tán, muốn đánh tan dư luận có thể nguy hại cho Ngài Tuệ Năng, nên bảo trong chúng truyền đọc bài kệ của Thượng tọa Thần Tú, mà bôi bỏ bài kệ của Ngài Tuệ Năng.
Một buổi chiều, Ngũ Tổ một mình đi xuống nhà trù, đến chỗ Ngài Tuệ Năng giã gạo và hỏi rằng:
– Gạo đã trắng chưa? (mật ý hỏi: Đạo đã ngộ chưa?)
Ngài Tuệ Năng đáp:
-Bạch Tổ, gạo con giả đã trắng rồi mà còn thiếu người sàng (mật ý Ngài muốn nói: Đạo con đã ngộ rồi mà còn thiếu người truyền).
Ngũ Tổ nghe xong, lấy cây gậy gõ lên đầu chày ba cái rồi đi lên (Ngũ Tổ bảo Tuệ Năng canh ba vào phòng ). Ngài Tuệ Năng vào phòng Ngũ tổ. Ngài được Ngũ Tổ ấn chứng và truyền y bát cho Ngài làm tổ thứ sáu, và dạy Ngài phải đi về phương Nam ngay đêm hôm ấy, để hoằng hóa đạo pháp (Xem quyển Lục Tổ Tuệ Năng).
Từ đó, Ngài Lục Tổ Tuệ Năng truyền pháp ở phương Nam, còn Ngài Thần Tú thì truyền pháp ở phương Bắc. Phương Bắc chủ trương về Tiệm tu, nên gọi là “Nam đốn, Bắc tiệm” hay” Nam Năng Bắc Tú”.
Sau đây là bản lược đồ về sáu vị tổ Thiền tông ở Trung Hoa:
Sơ tổ: Ngài Bồ Đề Đạt Ma
Nhị tổ: Ngài Tuệ Khả (Thần Quang)
Tam tổ: Ngài Tăng Xán
Tứ tổ: Ngài Đạo Tín
Ngũ tổ: Ngài Hoằng Nhẫn
Ngài Ngưu Đầu thiền Sư
Lục tổ: Ngài Tuệ Năng
Ngài Thần Tú.
Từ Ngài lục tổ Tuệ Năng về sau, không còn cái lệ truyền y bát nữa, và các tổ không còn ấn chứng riêng cho một vị nào. Do đó trong Thiền Thiền tông không còn truyền thống duy nhất nữa, mà lại chia ra làm hai phái và năm dòng sau đây:
Hai Phái Và Năm Dòng Thiền
Ngài Tuệ Năng từ khi lên làm lục tổ đã truyền pháp cho rất nhiều đệ tử. Trong số các đệ tử, nổi tiếng hơn hết là Ngài Hoài Nhượng ở nam nhạc và Ngài Hành Tú ở Thanh Nguyên (xem Pháp Bảo Đàn Kinh). Hai Ngài này là mở đầu cho hai phái Thiền tôngg là phái Nam nhạc và phái Thanh Nguyên.
Phái Nam nhạc về sau lại chia làm hai dòng là: Lâm Tế và Quy Ngưỡng.
Phái Thanh Nguyên lại chia làm ba dòng là: Tào Động, Vân Môn và Pháp Nhãn.
Sau đây là lược đồ của hai phái và năm dòng Thiền tông ở Trung Hoa.
I. Ngài Hoài Nhượng (Ở Nam Nhạc)
1. Lâm tế
2. Quy Ngưỡng
II. Ngài Hành Tú (Ở Thanh Nguyên)
3. Tào Động
4. Vân Môn
5. Pháp Môn
1. Dòng Lâm Tế
a) Sự truyền thừa của dòng Lâm Tế, tuần tự như sau:
– Hoài Nhượng Thiền Sư
– Đạo Nhất Thiền Sư (họ Mã, tục gọi là Mã Tổ)
– Bách Trượng Thiền Sư (Hoài Hải)
– Huỳnh Nghiệt Thiền Sư (Hỳ Vân) – Lâm Tế Nghĩa Huyền.
b. Sự truyền pháp (thiền cơ) của tông Lâm Tế
Như chúng tôi đã nói ở phần đầu của tập sách này, sự truyền pháp của phái Thiền tông khó mà hiểu được, đối với người thường. Chẳng hạn như trong phái Lâm Tế, sự truyền pháp chỉ dùng thiền trượng đánh và hét to lên, mà làm cho thiền giả được ngộ đạo. Cái lối khai ngộ này khởi đầu từ Ngài Huỳnh Nghiệt Thiền sư:
Để cầu giác ngộ, một hôm Ngài Lâm tế hỏi Huỳnh Nghiệt:
– Sao gọi là đại ý Phật pháp?
Ngài Huỳnh Nghiệt liền lấy thiền trượng (gậy hoặc roi) đánh Ngài Lâm tế một cái. Ba lần Ngài Lâm tế hỏi, thì ba lần được đánh như thế.
Ngài Lâm tế lấy làm bối rối, không hiểu ý nghĩa làm sao, nên đến tham học với Ngài Đại Ngu Thiền sư, nhờ thế Ngài Lâm tế mới ngộ được tông chỉ của Ngài Huỳnh Nghiệt.
Từ đó về sau, dòng Lâm Tế mỗi khi khai ngộ cho đệ tử, đều dùng phương pháp đánh và hét ấy.
Ngài Lâm Tế nói:”Có khi hét một tiếng như bửu kiếm kim cương vương, có khi hét một tiếng như sư tử giậm chân, có khi hét một tiếng như quơ cây nơi bóng cỏ, có khi hét một tiếng, không khởi cái dụng của tiếng hét”. Bởi thế nên người đời gọi là “Lâm Tế tứ yết”.
(Bốn tiếng hét của Lâm Tế).
Dòng Lâm Tế sau lại chia làm hai nhánh: Dương Kỵ và Huỳnh Long. Từ đời Tống về sau, dòng Lâm Tế rất thịnh hành. Cho đến ngày nay về Thiền tông trong các Đại tòng lâm, phần nhiều là dòng Lâm Tế.
2. Dòng Quy Ngưỡng
Tổ Bách Trượng Thiền sư truyền cho Ngài Linh Hựu Thiền sư ở núi Quy Sơn đất Đàm Châu. Ngài Linh Hựu truyền cho Ngài Quy Ngưỡng Tuệ Tịch.
Ngài Quy Ngưỡng là một vị Thiền sư đắc đạo, sự mầu nhiệm của Ngài, không ai có thể lường được. Ảnh hưởng của Ngài rất lớn, vì thế cho nên người ta lấy tên Ngài để đặt tên cho cả một dòng Thiền tông. Sự truyền đạo của Ngài cũng rất kỳ lạ. Một khi có ai đến hỏi đạo thì Ngài Quy Ngưỡng chỉ vẽ tướng trâu, hoặc vẽ tướng người , tướng Phật hay chữ Vạn, mà người được ngộ đạo.
3. Dòng Tào Động
Sự truyền thừa của tông này, thứ tự như sau:
Ngài Thanh Nguyên Thiền Sư
Ngài Hy Thiên Thiền sư, tức Ngài Thạch Đầu Hòa Thượng
Ngài Dược Sơn Thiền Sư
Ngài Vân Nham Thiền Sư
Ngài Lương Giới Thiền Sư ở núi Đông Sơn
Ngài Bản Tịch Thiền Sư ở núi Tào Sơn
Ngài Vân Nham Thiền Sư đã dùng pháp Bửu cảnh tam muội, truyền cho Ngài Lương Giới (Đông Sơn); Ngài Lương Giới cũng dùng pháp này để truyền cho Ngài Bửu Tịch (Tào Sơn).
4. Dòng Vân Môn
Sự truyền thừa của tông này, thứ tự như sau:
a) Ngài Thạch Đầu Thiền sư
b) Ngài Thiên Hoàng.
c) Ngài Long Đàm.
d) Ngài Đức sơn.
đ) Ngài Tuyết Phong.
e) Ngài Vân Uyển Thiền sư ở đất Thiền châu, Vân Môn.
Cách truyền pháp của Ngài Vân Uyển (Vân Môn) cũng rất kỳ lạ, ít ai hiểu được nghĩa lý: ai đến hỏi đạo, thì Ngài chỉ nói một chữ ”Dám”. Nếu người cầu đạo ngần ngại không hiểu, thì Ngài nói thêm chữ ”Di”. Vì Ngài chỉ đáp có một chữ như thế cho người cầu đạo, nên người đời gọi pháp quán của Ngài là “Nhất tự quán” (Quán sát cái lý trong một chữ Dám hay chữ Di).
5. Dòng Pháp nhãn
Sự truyền thừa của tông này, thứ tự như sau:
a) Ngài Tuyết Phong Thiền sư.
b) Ngài Huyền Sang Thiền sư.
c) Ngài Xa Hán Thiền sư.
d) Ngài Vân Ích Thiền sư.
Phương pháp khai thị cho người đến cầu đạo của Ngài Vân Ích Thiền sư là đúng sáu tướng trong kinh Hoa Nghiêm sau đây:
– Tổng tướng: Tức là muốn nói đến chân như nhất tâm.
– Biệt tướng: Tức là các duyên sinh khởi từ chân như nhất tâm.
– Đồng tướng: Các pháp đều đồng như nhau.
– Dị tướng: Tùy theo mỗi tướng không bình đẳng.
– Thành tướng: Dựng lập ra cảnh giới.
– Hoại tướng: Vị trí không đồng tức là hoại tướng.
Thiền tông Ở Việt Nam
Như chúng ta đã biết, Phật Giáo Việt Nam chịu ảnh hưởng sâu đậm của Phật Giáo Trung Hoa. Cho nên, nếu ở Trung Hoa Thiền tông được thịnh hành truyền bá, thì ở Việt Nam Thiền tông cũng được xem như là một phái chính của đạo Phật . Đấy cũng là một lẽ dĩ nhiên, không có gì là khó hiểu.
Phật giáo truyền vào Việt Nam từ thế kỷ thứ II tây lịch, do các vị danh Tăng người Ấn Độ và Trung Hoa, như các Ngài Ma Ha Kỳ Vực, Ngài Khương Tăng Hội (người Ấn Độ ), Ngài Mâu Bác (người Trung Hoa). Trong thời gian xa xưa này, chúng ta không thể biết được các vị này thuộc tông phái nào, và truyền vào Việt Nam giáo lý gì. Nhưng chúng ta có thể biết chắc là không phải phái Thiền tông. Vì Thiền tôngg ở Việt Nam là do từ Trung Hoa truyền sang. Mà Thiền tông ở Trung Hoa thì phải đợi đến đầu thế kỷ thứ VI, dưới đời Lương Võ Đế (528), tổ Bồ Đề Đạt Ma mới đưa vào. Vậy thì nhất định là Thiền tông ở Việt Nam chỉ có thể xuất hiện vào cuối thế kỷ thứ VI Tây lịch. Sự phỏng đoán này đã được lịch sử truyền giáo ở Việt Nam chứng minh. Vào năm 580 (cuối thế kỷ thứ VI), Ngài Tỳ Nhiều Đa Lưu Chi, làn đầu tiên truyền Thiền tông vào Việt Nam , và là vị sơ tổ về Thiền tông Việt Nam. Sau Ngài Tỳ Nhiều Lưu Chi cũng có nhiều vị danh tăng khác đem truyền Thiền tông vào Việt Nam, và nhờ đó, Việt Nam cũng có nhiều môn phái Thiền tông như ở Trung Hoa. Một diều đặc biệt, đáng hãnh diện cho Phật tử Việt Nam là ngoài những phái Thiền tông ở Trung Hoa truyền sang, ngay ở nước ta, cũng có một phái Thiền tông do một vị vua sáng lập, đó là phái Trúc Lâm mà vị sơ tổ là vua Trần Nhân Tông.
Dưới đây, chúng ta tuần tự nói về các môn phái Thiền tông ấy:
1. Phái Tỳ Nhiều Đa Lưu Chi
a ) Vị Sơ tổ Thiền tông ở Việt Nam.
Ngài Tỳ Ni Đa Lưu Chi, người Ấn Độ là đệ tử Ngài Tăng Xán (Tam tổ Thiền tông).
Lầìn đầu tiên gặp tổ Tăng Xán ở núi Tư Không, thấy phong mạo của tổ khác thường, Ngài Tỳ Ni Đa Lưu Chi sinh lòng kính phục, chắp tay đỉnh lễ. Ngài đỉnh lễ ba lần mà tổ vẫn ngồi lim dim đôi mắt chứ không nói gì hết (thiền cơ). Ngài đứng yên nghĩ ngợi một hồi, bỗng thấy trong người đổi khác, nhu tỏ ngộ được điều gì. Ngài liền sụp xuống lạy ba lạy.Tổ cũng chỉ gật đầu ba cái mà thôi (thiền cơ). Sau buổi gặp gỡ đầu tiên ấy, Ngài trở thành một trong những đệ tử xuất sắc nhất của tổ Tăng Xán.
Về sau, Tổ dạy Ngài sang phương Nam để truyền đaọ, Ngài vâng lệnh sang Việt Nam vào khoảng cuối thế kỷ thứ VI, trụ trì tại chùa Pháp Vân ở tỉnh Hà Đông.
Khi sắp thị tịch, Ngài gọi đệ tử là Ngài Pháp Hiển vào phòng phú chúc rằng:
“Tâm ấn của Phật, không có thể mập mờ được. Tâm ấn viên mãn như thái hư không thừa, không thiếu, không đến không đi không được, không mất, không phải đông nhất, cũng không phải sai biệt, không thường cũng không đoạn, không sinh cũng không diệt không xa xách cũng không phải không xa xách. Chỉ vì đối với vọng nên giả đặt ra tên ấy (Tâm ấn) mà thôi”.
Chư Phật trong ba đời do đó (tâm-ấn) mà được đạo. Lịch đại Tổ sư cũng do đó mà chứng ngộ. Ta đây cũng vậy, mà ông cũng thế, cho đến các loại hữu tình vô tình cũng đều như thế cả.
Khi đệ tam Tổ Tăng Xán ấn chứng ”tâm ấn” cho ta, đã bảo rằng: ”Ông nên sang phương Nam hoằng đạo, chớ ở đây làm gì”.
Do đó, ta đi trải qua bao nhiêu chỗ mới đến đây. Ta nay được gặp ông, thật đúng như lời huyền ký ấy. Vậy ông nên nhớ kỹ lời ta.
Giờ đây nhằm lúc ta đi rồi!”
Dạy xong, Tổ Tỳ Ni Đà Lưu Chi chắp tay ngồi yên lặng mà tịch diệt. Đệ tử trà tỳ (thiêu) rồi thu xá lợi, xây tháp để thờ.
Về sau, vua Lý Thái Tông có bài kệ truy tán Ngài như sau:
Nguyên văn:
Sáng tự lai Nam Quốc
Văn quân cữu tập thiền
Ưng khai chi Phật tín
Viễn hợp nhất tâm nguyên
Hạo hạo Lăng già nguyệt
Phân phân Bát nhã liên
Hà thời hạnh tương kiến
Tương dữ thoại trùng thuyền.
Dịch nghĩa:
Mở lối qua người Việt
Nghe Ngài thông đạo thiền
Nguồn tâm thông một mạch
Cõi Phật rộng quanh miền
Lăng già ngời bóng nguyệt
Bát nhã nứt mùi sen
Biết bao giờ được gặp
Đàm đạo lẽ thâm huyền.
b) Ngài Pháp hiển Thiền sư, vị Tổ thừ hai của Thiền tông Việt Nam
Sau khi Tổ Tỳ Ni Đà Lưu Chi tịch, Ngài Pháp Hiển là vị Tổ thứ hai của phái Thiền tông Tỳ Ni Đà Lưu Chi. Ngài họ Đỗ, quê ở Quận Chu Diên (Sơn Tây bây giờ). Khi tới chùa Pháp Vân, Tổ Tỳ Ni Đà Lưu Chi thấy Ngài, thì nhìn kỹ vào mặt và hỏi:
– Chú họ gì?
Ngài Pháp Hiển hỏi lại:
-Hòa thượng họ gì?
Tổ lại hỏi:
-Chú không có họ à?
Ngài trã lời:
-Sao lại không có! Nhưng đố Hòa thượng biết?
Tổ quát lên:
-Biết để làm gì?
Ngài Pháp Hiển chợt ngộ ý Tổ Tỳ Ni Đà Lưu Chi (thiền cơ) liền sụp xuống lạy, xin theo làm đệ tử và sau được truyền tâm ấn.
Được ít lâu, sau khi Tổ tịch, Ngài vào núi Từ Sơn tu thiền định, những loại cầm thú thường quấn quýt chung quanh. Người đời thấy thế càng lấy làm lạ và kính mộ. Đệ tử tìm đến học đạo rất đông. Thiền tông ở trong thời kỳ này có thể nói là thịnh nhất. Đó cũng nhờ công đức hoằng hóa của Ngài Tỳ Ni Đà Lưu Chi và Ngài Pháp Hiển. Về sau trong pháp này cũng có nhiều vị thiền sư xuất sắc như Ngài Pháp Thuận, Vạn Hạnh .v.v…
2. Phái Vô Ngôn Thông
a) Vị Sư tổ của Pháp Thiền tông thứ hai ở Việt Nam
Ngài họ Tịnh, quê ở Quảng Châu, xuất gia ở chùa Song Lâm (Triết Giang bây giờ). Tính Ngài điềm đạm ít nói, nhưng sự lý gì cũng thông hiểu, nên người đời đặt danh hiệu Ngài là Vô Ngôn Thông. Ngài là đệ tử của Bách Trượng Thiền sư (đệ tử của Mã Tổ).
Khi Ngài mới đến yết kiến Bách Trượng Thiền sư gặp lúc Thiền sư đang dạy chúng tăng học. Một vị tăng hỏi Bách Trượng Thiền sư rằng:
– Thế nào là pháp môn đốn ngộ của phái Đại thừa?
Bách Trượng thiền sư dạy rằng:
– Tâm địa nhược thông, tuệ nhật tự chiếu (nêu tâm địa được thông thì mặt trời tuệ tự nhiên chiếu sáng).
Nghe được câu ấy, tự nhiên Ngài Vô Ngôn Thông ngộ đạo. Năm 820, Ngài qua Việt Nam tu tại chùa Kiến Sơ, làng Phù Đổng (Bắc Ninh), Ngài ngồi quay mặt vào vách trọn ngày tham thiền nhập định. Ngài tu như thế mấy năm không ai biết, chỉ trừ vị sư ở chùa ấy là Cảm Thành Thiền sư, biết Ngài là bậc cao tăng trong Phật Thiền tông, nên tôn thờ Ngài làm Thầy.
Trước khi tịch Ngài gọi Cảm Thành Thiền sư mà bảo:
– Ngày xưa tổ sư Nam Nhạc, khi sắp tịch có dặn lại bài kệ rằng:
Nhất thế chư pháp, giai tùng tâm sinh
Tâm vô sở sinh, pháp vô sở trú
Nhược đạt tâm địa, sở trú vô ngại
Phi ngộ thượng căn, thận vật kinh hứa.
Nghĩa là: Hết thải các pháp, đều tự tâm sinh; tâm nếu không sinh, pháp không chỗ trú. Nếu hiểu được vấn đề ấy thì làm việc gì cũng không trở ngại, cái tâm pháp ấy nếu không gặp được bậc tâm căn, chớ nên truyền bậy.”
“Đó là lời dặn của người xưa nay ta cũng dặn lại câu ấy”’.
Nói xong Ngài chắp tay mà tịch.
b) Vị Nhị tổ của phái Vô Ngôn Thông
Cảm Thành Thiền sư
Thiền sư quê ở huyện Tiên Du (Bắc Ninh) trụ trì tại chùa Kiến Sơn (Bắc Ninh).
Khi Ngài Vô Ngôn Thông vân du qua đấy, thấy Ngài có đủ tư cách để truyền mối đạo, nên ở lại. Và Ngài Cảm Thành cũng nhận thấy ở Ngài Vô Ngôn Thông một vị thiền sư đắc đạo, nên tôn làm thầy, sớm tối hầu hạ không hề trễ nải. Hai thầy trò rất mến nhau, do đó Ngài Vô Ngôn Thông mới đặt cho Ngài đạo hiệu là Ngài Cảm Thành thật xứng đáng là người nối chí của Ngài Vô Ngôn Thông. Một hôm có đệ tử hỏi Ngài:
-T hế nào là Phật?
Ngài trả lời:
– Chỗ nào cũng là Phật cả.
Vị đệ tử lại hỏi:
– Thế nào là tâm của Phật?
Ngài trả lời:
– Không hề che đậy chỗ nào.
Đây cũng là một câu chuyện nhỏ, nhưng nói lên được cái truyền thọ tâm pháp đặc biệt, tuy giản ước mà bao hàm nhiều ý nghĩa vô cùng.
Ngài Cảm Thành không bệnh mà tịch, và truyền tâm pháp cho Thiện Hội thiền sư.
c) Vị tam tổ của phái Vô Ngôn Thông
Ngài Thiện Hội Thiền sư
Ngài Thiện Hội quê ở Siêu Loại (Bắc Ninh). Ngài là đệ tử của Cảm Thành Thiền sư, hầu thầy đã hơn 10 năm, một hôm Ngài vào phòng hỏi thầy:
Trong kinh Phật có dạy: “Đức Thích Ca Như Lai từng tu hành trải vô số kiếp mới thành Phật, thế mà nay thầy cứ dạy rằng “tâm tức là Phật, Phật tức là tâm” là nghĩa làm sao? Thật đệ tử không hiểu xin thầy dạy rõ cho”.
Cảm Thành Thiền sư nói:
– Ngươi nói trong kinh Phật nói thế là ai nói đó?
– Vậy lời ấy không phải là Phật thuyết sao?
– Lời ấy phải đâu là Phật thuyết. Kinh Văn Thù Phật có dạy: “Ta trú ở thế gian để dạy chúng sinh 49 năm, chưa đặt ra một câu bằng văn tự để nói với ai bao giờ!”. Vì theo chính đạo, nếu ta lấy văn tự để làm bằng chứng để cầu đạo, ấy là nệ; lấy sự khổ hạnh để cầu Phật, ấy là mê; lìa tâm ra mà cầu Phật, ấy là ngoại đạo; mà cố chấp cái tâm ấy là Phật, cũng lại là ma vậy.
– Nếu bảo tâm ấy tức là Phật, thì trong tâm ấy cái gì là Phật, cái gì không phải là Phật?
– Ngày xua có người hỏi Mã tổ rằng: “Nếu bảo tâm ấy tức là Phật, thì trong tâm ấy cái gì là Phật?. Mã tổ trả lời: “Thế ông ngờ trong tâm ấy, cái gì không phải là Phật, hãy chỉ vào ấy cho ta xem!”. Người ấy không chỉ được. Mã Tổ lại tiếp: “Đạt được thì khắp mọi nơi chỗ nào cũng là Phật, mà không đạt được thì cứ sai lầm đi mãi mãi”. Thế là chỉ một lời nói nó che đi, mà thành ra sai lầm đó thôi. Người ta hiểu chưa?
Ngài Thiện Hội trả lời:
– Nếu như vậy đệ tử hiểu rồi.
– Người hiểu thế nào?
– Đệ tử hiểu rằng khắp hết mọi nơi, chỗ nào cũng là tâm Phật cả.
Nói xong Thiện Hội thiền sư sụp xuống lạy. Ngài Cảm Thành nói:
– Thế là người hiểu tới nơi rồi đó.
Do sự lĩnh hội mau chóng đó mà Ngài Cảm Thành mới đặt cho đệ tử mình đạo hiệu Thiện Hội, nghĩa là ”khéo hiểu”.
Trên đây là một vài câu chuyện đến đốn ngộ mà chúng ta thường thấy trong các vị thuộc phái Thiền tông.
Sự truyền pháp từ thầy đến trò trong phái Vô Ngôn Thông diễn ra như thế được 15 đời. Đến đời cư sĩ Ứng Thuận (1221) là cuối cùng.
3. Phái Thảo Đường
Năm Kỷ Dậu (1069) vua Lý Thánh Tông đi đánh Chiêm Thành về, có bắt được vua nước ấy là Chế Cũ và rất nhiều thường dân và binh lính. Số binh lính và thường dân này được phân phát cho các quan trong triều đình để làm quân hầu.trong số quan triều có một vị Tăng Lục. Một hôm vị này đi vắng về thấy bản ”Ngữ lục”của mình bị một tù binh sữa chữa lại cả. Hỏi ra thì mới biết đó là một vị Thiền sư người Trung Hoa, theo thầy qua Chiêm Thành, chẳng may bị bắt làm tù binh. Vị Thiền sư ấy là Ngài Thảo Đường, đệ tử của Ngài Tuyết Đậu Minh Giác ở Trung Hoa.
Khi biết tung tích của Thảo Đường Thiền sư, vua Thánh Tông liền sắc phong cho Ngài làm Quốc sư. Ngài Thảo Đường lập đàn khai giảng ở chùa Khai Quốc trong thành Thăng Long. Đệ tử đến học rất đông. Ngài Thảo Đường lập ra một phái Thiền tông thứ ba ở Việt Nam . Phái Thảo Đường truyền xuống được năm đời, đắc đạo cả thầy được mười chín vị.
4. Phái Trúc Lâm
Đệ nhất tổ của phái Trúc Lâm tức là vua Trần Nhân Tông (1278-1308). Ngài mộ đạo khi còn nhỏ. Năm 16 tuổi được lập làm Hoàng Thái tử, Ngài cố nhường lại cho em nhưng không được, nên trèo thành trốn đi, định vào tu ở núi Yên Tử. Nhưng Ngài mới đi nữa đường thì bại lộ tung tích, bị vua cha sai quan đi bắt về. Ngài phải miễn cưỡng trở về. Sau Ngài lên làm vua, trở thành một vị anh quân và giữ vững nền độc lập nước nhà trước sự xâm lăng ồ ạt, nhưng vô hiệu quả của quân Nguyên. Sau khi đuổi được giặc Nguyên, Ngài truyền ngôi lại cho con là Anh Tông, và vào tu ở núi Yên Tử, thực hiện chí nguyện thuở thiếu thời của mình. Ngài lấy hiệu là ”Hương Vân Đại Đầu Đà” lập trường giảng pháp, môn đồ tìm đến tu học kể có hàng vạn người. Ngài thường đi khắp nơi để giảng đạo và phát thuốc. Ngài tịch một cách rất bình tĩnh vào lúc 51 tuổi.
Trong các phái Thiền tông ở Việt Nam, chỉ có phái Trúc Lâm là phát tích tại đất nước Việt. Trong phái này, cũng có nhiều vị thiền sư có tiếng tăm như Ngài Pháp Loa Tông sư, Ngài Huyền Quang Tông sư …
5. Phái Lâm Tế
Phái Lâm Tế do Ngài Nguyên Thiều khai sáng tại Trung Việt. Ngài họ Tạ, quê ở Quảng Châu (Trung Hoa). Ngài đi theo tàu buôn qua An Nam, trú ở phủ Qui Ninh (Bình Định) lập chùa Thập Tháp Di Đà, mở trường dạy học. Sau Ngài ra thuận hóa lập chùa Hà Trung, rồi lên Xuân Kinh (Huế) lập chùa Quốc Ân và dựng tháp Phổ Đồng.
Sau Ngài phụng mạng đức Anh Tông ( Nguyễn Phúc Tráng 1687-1691) trở về Trung Quốc, tìm mời các vị danh tăng và cung thỉnh pháp tượng, pháp khí. Ngài về Quảng Đông mời được Hòa Thượng Thạch Liêm và các danh tăng khác, cũng thỉnh được nhiều kinh điển, tượng, pháp khí trở về Nam. Chúa Nguyễn liền sắc mở đàn truyền giới rất long trọng tại chùa Thiên Mụ. Sau đó, chúa Nguyễn sắc ban Ngài chức trụ trì chùa Hà Trung.
Năm Bảo Thái thứ 10 nhà Lê, Ngài tịch tại chùa Hà Trung, sau khi dặn dò đệ tử và truyền bài kệ sau đây:
Tịch tịch, kính vô ảnh
Minh minh, châu bát dụng
Dường đường, vật phi vật
Liễu liễu, không vật không.
Đại ý: Thể pháp thân thanh tịnh sáng suốt như mảnh gương sạch không bụi, như ngọc minh châu, trong sáng bóng ngời. Tuy hiện tiền sự sự, vật vật sai khác, nhưng đều là thể pháp thân biểu hiện. Thể pháp thân thường vắng lặng mà không phải là không, tức là lý “chân không diệu hữu”.
Xét trong” Lịch truyền tổ đồ ” thì Ngài đứng về đời 69, xét về chính thống phái Lâm Tế thì Ngài đứng về đời 33, còn xét riêng về phái Lâm Tế ở Trung Việt, thì Ngài là sơ tổ.
6. Phái Liễu Quán
Phái Liễu Quán xuất phát từ Liễu Quán Hòa Thượng. Ngài Liễu Quán quê ở Phú Yên (Song Cầu). Ngài ra Thuận Hóa thọ giới Sa di với Ngài Thạch Liêm Hòa thượng. Năm 1702, Ngài đến Long Sơn cầu học pháp tham thiền với Ngài Tử Dung Hòa thượng (Tổ khai sơn chùa Từ Đàm Huế, người Trung Hoa).
Tổ Tử Dung dạy Ngài tham cứu câu: “Vạn pháp quy nhất, nhất quy hà xứ “, (muôn pháp về một, một pháp về đâu?). Ngài tham cứu mấy năm, đến khi xem bộ Truyền Đăng Lục, thấy có câu: “Chỉ vật truyền tâm, nhân bất hội xứ”’. Ngài liền tỏ ngộ. Năm 1742, cuối mùa thu, Ngài thọ bệnh. Trước khi lâm chung, Ngài gọi môn đồ đến dạy rằng: “Nhân duyên đã hết, ta sắp tịch đây”.
Thấy môn đệ khóc, Ngài dạy rằng: “Các người khóc làm gì? Các Đức Phật ra đời còn nhập Niết bàn. Ta nay đi đến rõ ràng, về có chỗ. Các người không nên khóc và đừng buồn thảm”.
Rồi Ngài viết bài kệ từ biệt sau đây:
Nguyên văn:
Thất thập dư niên thế giới trung
Không không, sắc sắc diệu dung thông
Kim triêu nguyệt mãn, hoàn gia lý
Hà tất bôn ba vấn tổ tông.
Dịch nghĩa:
Ngoài bảy mươi năm trong thế giới
Không không, sắc sắc thảy dung thông
Ngày nay nguyện mãn về nơi củ
Hà phải ân cần hỏi tổ tông.
Viết xong, Ngài bảo môn đồ:
– Sau khi ta đi, các ngươi phải nghĩ cơn vô thường nhanh chóng, cần phải siêng năng tu học. Các người hãy cố gắng tới chớ bỏ qua lời ta.
Ngài tịch vào ngày 22 tháng 11 năm Nhâm Tuất (1742) vào giờ Mùi, sau khi dùng nước trà xong và vui vẻ từ biệt môn đồ.
Đến đây chúng ta cũng nên nhận định cho rõ ràng điểm này: Như tôi nói ở đoạn trước, Thiền Tông do người Việt sáng lập chỉ có một Phái duy nhất do vua Trần Nhân Tông làm Sơ tổ là phái Trúc Lâm Yên Tử. Nhưng đến nay, chúng ta lại thấy xuất phát một phái nữa là phái Liễu Quán, do Ngài Liễu Quán một danh tăng Việt Nam chủ xướng, như vậy có mâu thuẫn với sự nhận xét ở trên không? Thật ra, so với các phái Thiền tông khác ở Việt Nam, thì phái Liễu Quán chỉ một phái nhỏ, chỉ nằm trong phạm vi mấy tỉnh miền Trung Việt.
Vả lại, Ngài Liễu Quán cũng là đệ tử của Ngài Tử Dung, một vị sư Trung Hoa thuộc phái Lâm Tế. Do đó, pháp Liễu Quán, nếu chúng ta đi tìmm nguồn gốc xa hơn một chút nữa, thì cũng chỉ là một chi nhánh của phái Lâm Tế mà thôi.
Các Kinh Sách Nói Về Thiền
Khi kinh sách nói về Thiền không thể kể xiết được. Tuy thế, để quý độc giả khỏi bỡ ngỡ trong khi nghiên cứu, học hỏi, chúng tôi xin dẫn một số sách thiết yếu sau đây:
1. Kinh Lăng già
2. Kinh Lăng Nghiêm
3. Kinh Viên Giác
4. Kinh Pháp Bảo Đàn
5. Đại thừa Chỉ quán
6. Tiểu Chỉ quán
8. Đồng môn Chỉ quán
9. Kinh Kim cương
10. Truyền đăng lục
11. Thuyền gia ngữ lục
12. Tọa thiền chỉ nam
13. Tông cảnh lục (của Ngài Tống Diên Thọ Thiền sư)
14. Luận Đại thừa khởi tín (của Bồ Tát Mã Minh)
15. Vô-môn quán (của Tổng Tông Thiện Thiền sư)
16. Bích Nha Lục (của Phật quả Viên ngộ)
17. Thung dung lục (của Vạn Tùng Lão nhân)
18. Thiền Lâm Vĩnh Gia tập (của Huyền Giác)
19. Thiền tông chỉ nam (của vua Trần Thái Tông) ..v…
C. Tổng Kết các Loại Thiền định
Thiền Định có nhiều loại, nhưng tóm lại có thể chia làm hai loại lớn: Chính định và tà định, hay Phàm phu thiền, Thánh nhân thiền và Phật Giáo thiền.
Thiền Ngoại Đạo
Những người theo lối thiền định này do tâm niệm không chân chính (phiền não, tham, sân, si v.v….) làm động cơ thúc đẩy. Họ không nhắm ngay mục đích dẹp trừ vô minh phiền não, cầu được minh tâm kiến tính, hay giác ngộ, giải thoát, mà chỉ nhắm mục đích nhỏ hẹp, thiển cận, như cầu được thấy những điều huyền diệu, cầu được thần thông biến hóa để đi dạo chơi ở các thế giới khác, cầu thành tiên để lạc thú tiêu dao ở cảnh tiên, cầu cho thân thể không bệnh hoạn, được trường sinh bất tử, cầu cho được phép lạ dể trị bệnh, để thiên hạ sung bái, kính phục, hoặc để gần gũi nữ sắc, hay cầu tài lợi v.v..
Hảy lắng nghe lời Tổ Tông Mật dạy: “Người tà kiến chấp trước sai lầm, ưa cõi trên, chán cõi dưới mà tu thiền, đó là ngoại đạo thiền ”.
Thiền Phàm Phu
Những người tu theo loại thiền này không có tâm niệm cao thượng, chỉ vì chán ngán cõi Dục lắm ô trược mà cấu sinhvề cõi sắc và Vô sắc để hưởng thú vui thanh thoát.
Hãy lắng nghe Tổ Tông Mật phê phán hạng người tu về loại thiền này: “Người chán tin nhân quả, nhưng dùng sự ưa cõi trên chán cõi dưới mà tu thiền là phàm phu thiền ”.
Thiền Phật Giáo
Thiền định của Phật Giáo có hai loại: Tiểu thừa thiền và Đại thừa thiền.
– Tiểu thừa thiền: là những pháp thiền dành cho người có căn tính Tiểu thừa. Người tu phép Thiền định này chỉ có công dụng hạn cục, vì tu pháp nào thì chỉ trừ được phiền não cũa pháp ấy. Và sự tu luyện ở đây cũng chỉ tuần tự mà tiến, chứ không thể đốn ngộ nagy được.
Hơn nữa, người tu Tiểu thừa thiền, tuy đã phá ngã chấp, nhưng còn bị pháp chấp. Họ không ngộ được rằng: những phương pháp tu hành đều là phương tiện để giúp cho họ dẹp trừ vô minh phiền não, tiến lên chỗ giác ngộ, chứ không nên cố chấp có nên tu, thật chứng.
– Đại thừa thiền: Đây là phương pháp tu thiền của các vị Bồ Tát, căn tính mau lẹ, vượt bậc. Với hạng này, các vị chỉ nghe một câu nói hay chỉ tu một pháp, cũng có thể liền tỏ ngộ; như Ngài Tuệ Năng, chỉ nghe câu ” Ưng vô sở trụ, nhi sinh ký tâm ”, hay Ngài Ca-Diếp, chỉ thấy Phật đưa cành hoa sen mà liền tỏ ngộ
Sở dĩ các vị này mau tỏ ngộ như thế là vì họ đã trải qua nhiều kiếp tu hành rồi, sắp được giác ngộ, nay gặp thời cơ, nhân duyên thì liền phát chiếu, như cành hoa đã được vun tưới đủ sức rồi, chỉ chờ thời tiết là trổ bông.
Hãy nghe Tổ Tông Mật nói về các vị này: “Người ngộ được lý ngã, pháp đều không mà tu thiền là Đại thừa thiền. Người đốn ngộ tự tâm xưa nay vốn thanh tịnh, không có phiền não, đầy đủ trí tuệ vô lậu, tâm ấy tức là Phật, rốt ráo không khác. Y theo tâm này mà tu thiền là Tối thượng thừa thiền, cũng gọi là Chân như tam muội ”.
Về phương pháp tu chứng và truyền thọ của Đại thừa thiền có ba cách:
– Cách thứ nhất: Đây là các loại tam muội má hành giả căn cứ theo các kinh sách Đại thừa tu luyện, như Pháp Hoa tam muội, Niệm Phật tam muội, Giác ý tam muội, Thủ tăng liêm tam muội v.v….
– Cách thứ hai: Lối thiền này không căn cứ theo kinh điển, văn tự, mà chỉ dùng một câu nói ngắn ngủi để chỉ giáo. Trong Phật Giáo gọi lối thiền này là: “Bất luận văn tự, giáo ngoại biệt truyền” (không dùng văn tự, truyền ngoài kinh giáo). Thiền giả chỉ căn cứ theo một câu nói ấy mà nghiên cứu mãi cho đến khi tỏ ngộ. Công việc tham cứu này, Thiền giả có nhiều khi kéo dài hàng chục năm.
– Cách thứ ba: Với cách này, chúng ta khó có thể suy nghĩ luận bàn gì được. Trong cách này, khi có người đến cầu pháp, các Tổ sư không dùng lời nói mà chỉ dùng một cử chỉ gì đó, hay một tiếng la hét mà thôi.
Như dòng Lâm Tế, khi có người đến cầu đạo, Thiền sư chỉ dùng gậy đánh và tiếng hét.
Như dòng Quy Ngưỡng, các vị Tổ sư chỉ vẽ hình thú, hình người, hình chữ Vạn mà khai ngộ cho đệ tử .
Như dòng Vân Môn, có vị Tổ chỉ nói một chữ, mà làm cho người cầu đạo tỏ ngộ.
Như có Ngài chỉ đãi nước trà (Ngài Triệu Châu) hay mời ăn cơm, mà người đến cầu đạo được tỏ ngộ.
Có Ngài lại ngắm bóng mình dưới nước và cười, khi đi ngang qua cầu, liền ngộ đạo (hồ khê tam chiếu chí kim truyền), hay nghe chim oanh hót trên cành liễu, hay lấy gậy đập cục đất cho để tan mà liền tỏ ngộ.
Thật là thiền cơ nhiệm mầu, người ngoài không thể suy nghĩ, bàn luận được.
Muốn cho người cầu đạo được kết quả, các vị truyền pháp phải hội đủ ba diều kiện sau đây:
– Biết văn cơ người cầu đạo.
– Biết thời tiết đúng lúc truyền đạo.
– Biết phương pháp nào thích hợp, trong ba phương pháp nói trên, nếu truyền bá không hợp cơ, hợp thời, hợp pháp thì người tu thiền không có kết quả.
Trước khi dừng bút, chúng tôi có một nhận xét sau đây mà chắc quý độc giả cũng đồng ý là: Nước ta ngày xưa là một nước chịu ảnh hưởng lớn của Thiền tông, và Thiền tông là môn phái rất thịnh hành trong nước. Thế mà ngày nay, vì bao cuộc biến thiên của lịch sử, Thiền tông không còn được truyền thọ trong các chùa cũng như trong dân chúng một cách sung mậu như xưa nữa.
Vậy chúng tôi hy vọng rằng, từ đây về sau, nhờ sự giao thông tiện lợi từ nước này sang nước khác, nhờ sự trao đổi văn hóa, và nhờ gia tâm tu học của các Phật tử Việt Nam, Thiền tông sẽ lấy lại sắc thái sung mậu ở Việt Nam như các thời Lý, Trần.
Hits: 58