Mười Tông Phái Phật Giáo Ở Trung Hoa
Không phải riêng gì Đạo Phật, tất cả các tông giáo lớn trên thế giới, theo với thời gian và sự phát triển, đều có chia ra nhiều tông phái. Sự phân phái ấy là một lẽ đương nhiên phải có để cho các căn cơ và hòan cảnh khác nhau đều có thể thích hợp được. Nếu không, thì đạo không thể phát-triển được về bề sâu cũng như bề rộng. Hơn một tông giáo nào cả, Đạo Phật không có những giáo điều thần khải, không có một tinh thần rắn chắc, gò bó trong những hình thức hẹp hòi, câu nệ, mà trái lại, rất phóng khoáng, tự do, dễ khoan hòa, dung hiệp, nên Đạo Phật đi đến đâu cũng có thể phát triển đúng theo căn cơ và hoàn cảnh riêng biệt ở địa phương ấy. Do đó, mà Đạo Phật có rất nhiều màu sắc riêng biệt khi tại các quốc gia.
Riêng ở Trung Hoa, Đạo Phật đã có chia mười tông phái. Trong mỗi tông phái đều có đặc điểm riêng, nhưng không bao giờ vượt ra ngoài giáo pháp của Phật cả. Những tông phái này cũng như những con đường khác nhau, có đường thẳng đường cong, đường cao đường thấp, đường rộng đường hẹp, nhưng con đường nào cũng đưa đến một mục đích chung cả. Hành giả tùy theo trình độ, trí thức, khả năng, sở thích riêng mà lựa chọn con đường nào thích hợp với mình nhất để tu tập. Có như thế thì sự tu hành mới chóng có kết quả.
Mười tông phái ở Trung Hoa là: Luật tông, Tịnh độ tông, Thiền tông, Pháp tướng tông, Mật tông, Thiên Thai tông, Hoa Nghiêm tông, Tam Luận tông, Câu Xá tông và Thành Thật tông.
Trong 10 tông này, Câu Xá tông và Thành Thật tông chủ trương về Tiểu thừa; Luật tông và Thiền tông thông cả Đại và Tiểu Thừa, còn 6 tông kia thuộc về Đại Thừa.
Nghĩa lý của các tông rất mầu nhiệm, kinh điển cũng rất nhiều, muốn hiểu cho thấu đáo, cần phải chuyên môn nghiên cứu, công phu trong nhiều năm. Trong phạm vi của khóa Phật học phổ thông này, chúng ta không thể đi sâu vào mỗi tông được. Ở đây, chúng ta chỉ nên biết qua đại khái về giáo lý và làm quen với danh từ các tông ấy, để có chỗ nhập môn mà thôi. Sau này, khi học cao hơn, chúng ta sẽ đi sâu vào từng tông phái một và sẽ tùy theo căn cơ sở thích của mình mà lựa một trong những tông ấy để tu hành.
Luật Tông
I. Duyên Khởi Lập Tông
Tông này dùng luật làm chỗ căn cứ nên gọi là Luật tông. Đức Phật khi còn tại thế, tùy căn cơ, tùy hoàn cảnh mà chế ra nhiều lọai giới luật để răn dạy đệ tử, hóa độ chúng sinh. Sau khi Ngài nhập Niết bàn, các đệ tử của Ngài, như Ngài Ưu-Ba-Li là vị tinh thông về giới luật đứng trên pháp tọa trong kỳ kết tập kinh điển lần thứ nhất, đã tụng đọc lại những giới luận mà Đức Phật đã chế ra. Lần kết tập này chưa biên chép thành kinh điển, nên Ngài Ưu-Ba-Li phải đọc đi đọc lại đến 80 lần, đến nỗi mỗi người trong hội đều thuộc lòng. Do đó, mới có tên là”Bát thập tụng luận”. Về sau, tuần tự theo thời gian, Nguyên thủy Phật giáo lần hồi chia ra làm nhiều nhánh, hay bộ phái. Mỗi bộ phái đều theo một bộ lụât riêng. Trong số các bộ luật này, bộ được nói đến và áp dụng nhiều nhất là các bộ: Thập tụng, Tứ phần, Tăng kỳ, Ngũ phần.
Những bộ luật này được truyền sang Trung Hoa và được phiên dịch ra Hán văn. Đến đời Đường, Ngài Trí Thủ luật sư chú giải các bộ ấy, và đệ tử của Ngài là Đạo Tuyên luật sư, nhận thấy trong các bộ ấy, bộ luật Tứ phần là thích hợp căn cơ người Trung Hoa, nên đã căn cứ vào luật này để lập ra Luật tông. Ngài Đạo Tuyên là người ở Chung Nam Sơn, nên người đời gọi tông này là “Chung Nam Sơn” để phân biệt với các Luật tông khác, như của các Ngài Pháp Lệ bên phái Hữu tướng bộ, hay Ngài Hoài Tố ở Đông Pháp.
Trong các Tông này, chỉ có Luật tông của Ngài Chung Nam Sơn là thịnh hành hơn hết và được truyền bá cho đến bây giờ, vì nó trung hòa cả Đại Thừa lẫn Tiểu Thừa.
II. Tông Chỉ Và Đặc Điểm Của Luật Tông
Phàm một tổ chức, một công viếc gì đúng đắn cũng đều phải tuân theo những quy luật nhất định. Hơn tất cả, sự tu hành lại càng phải tuân theo những giới luật nghiêm minh. Như chúng ta đã biết trong phần giáo lý căn bản, nghiệp là động lực chính của vũ trụ nhân sinh.Nghiệp định đoạt tất cả đời sống chúng ta. Nghiệp có ba loại: Nghiệp của hành động, nghiệp của lời nói và nghiệp của ý nghĩ. Nếu những nghiệp ấy được thanh tịnh, không tạo ra các điều ác, thì ta không thọ quả báo sinh tử luân hồi. Không có quả báo sinh tử luân hồi thì tất nhiên là được giải thoát. Muốn các nghiệp được thanh tịnh thì ta phải giữ gìn giới luật, chính là một phương pháp tu hành trong nhiều phương pháp mà Phật đã chia ra. Phương pháp này rất thiết thực và rất hiệu nghiệm đối với Phật tủ chúng ta:
– Giữ giới không sát nhân hại vật, hiện người không làm người hung dữ, khỏi bị tù tội, về sau khỏi bị đọa trong ba đường dữ là địa ngục, ngã quỷ,súc sinh, và khỏi bị người giết haị, đó là tu.
– Giữ giới không trộm cướp thì hiện thời làm người lương thiện khỏi bị giam cầm siềng xích, đời sau không mắc quả báo, bị người giật của cướp nhà, đó là tu.
– Giữ giới không tà dâm, hiện thời thành người tốt, gia đình mình và người không bị rầy rà, đánh đập, khổ sở vì ghen tương, đó là tu.
– Giữ giới không nói dối, không nói láo xược, thèo lẽo, thêm bớt, đâm thọc, không nói hung ác và thô tục, thì không bị người khinh khi, lại được sự kính trọng, đó là tu.
– Giữ giới không cờ bạc, hút xách, rượu chè, thì khỏi mất tiền, thiếu nợ, khỏi say sưa, làm điều tội lỗi và khỏi bị người khinh bỉ, trí tuệ tăng trưởng, đo là tu.
Nói một cách tổng quát, giữ một giới là ngăn ngừa được một điều tội lỗi, và thêm được một điều lành; giữ nhiều giới là ngăn ngừa được nhiều điều tội lỗi và thêm được nhiều điều lành. Bởi thế, nên giữ giới luật là phương pháp tu không xa thực tế và rất cần thiết cho các Phật tử cầu đạo giải thoát.
Nhờ giữ “giới luật” không làm các việc tội lỗi, nên tâm được “định”; do tâm định nên phát ra”trí huệ sáng suốt”. Nhờ có trí huệ sáng suốt nên phá trừ được vô minh si ám, và được minh tâm kiến tâm thành Phật.
Người tu tại gia có giữ giới, mới thành Phật tử chân chính. Người xuất gia thọ Sa-di, có giữ giới mới phải là chân tu. Thầy Tỳ-kheo có giữ giới mới phải là Tỳ-kheo thanh tịnh. Bồ Tát có giữ giới mới phải là chân Bồ Tát. Bởi thế nên trong ba món vô lậu học (giới, định, tuệ ), “giới” đứng đầu tất cả.
Tông này sỡ dĩ lập ra là nhằm vào lợi ích thiết thực và chín chắn của giới luật, như đã trình bày ở trên.
III. Các Loại Giới Luật
Giới luật có nhiều loại từng bậc, tùy theo căn cơ, tùy theo giới tu sĩ, tùy theo sự phát nguyện của kẻ tu hành mà áp dụng. Nhưng nói một cách tổng quát thì giới luật có thể phân chia làm hai loại lớn là: Giới luật của Đại Thừa và giới luật của Tiểu Thừa.
– Những giới luật nào có tính cách tự lợi, chỉ có mục đích chính là tránh tội lỗi cho riêng mình là thuộc về giới Tiểu Thừa. Tất nhiên trong khi giữ giới cho riêng mình, thì người khác cũng được lợi như giữ giới không trộm cướp, thì mình được lợi là kiềm giữ lòng tham, mà người khác cũng được lợi là khỏi phải bị cái khổ vì tiếc của đã mất. Mặc dù thế, giới không trộm cướp cũng chỉ liệt vào giới Tiểu thừa, vì trong khi giữ giới, mục đích chính, trực tiếp là giữ cho mình; còn cái lợi cho người chỉ ảnh hưởng gián tiếp của giới ấy. Những giới như: Ngũ giới (5 giới do Phật chế cho người tại gia), Bát quan trai giới (8 giới Phật chế cho người tại gia tập sống như người xuất gia), Sa-di giới và Sa-di-nhiều giới (10 giới Phật chế cho người mới xuất gia), Thức xoa (6 điều nữ học giới), Tỳ-kheo giới (250 giới), và Tỳ-kheo nhiều giới (348 giới) là những giới thuộc về phái Tiểu thừa.
Những giới luật nào có tính cách tích cực, nhằm vào mục đích lợi tha hơn tự lợi thì thuộc về Đại thừa giới. Những giới thuộc về Đại thừa giới như 10 giới trong 48 giới khinh của Bồ Tát, Tam tụ tịnh giới (gồm có: Nhiếp luật nghi giới là giới không làm việc ác, Nhiếp Thiện Pháp giới là giới làm việc lành, Nhiêu ích hữu tình giới là giới làm ích lợi cho chúng sinh, như làm các việc có tính cách từ thiện xã hội v.v..).
Nếu đứng về phương diện hành trì mà phân loại, giới luật có thể chia làm hai phần lớn: một phần thuộc về chỉ trì, nghĩa là ngăn đứt ác nghiệp, một phần thuộc về tác trì, tức hành động theo thiện nghiệp.
1. Về chỉ trì: có hai bộ giới bản
a. Tỳ-kheo giới bản, gồm có 250 giới, chia làm 8 loại là: 1.- Ba-la-di (4 giới), 2.-Tăng-tàng (13 giới), 3.-Bất-định (2 giới), 4.- Xã-đọa (30 giới), 5.- Đơn-đọa (90 giới), 6.- Đề-xà-nhiều (4 giới), 7.- Chúng-học (100 giới), 8.- Diệt-tránh (7 giới). Hai trăm năm mươi giới này có thể chia làm tám loại (ngũ thiên), sáu loại (lục tụ) hay bảy loại (thất tụ).
b. Tỳ-kheo-nhiều giới bản (giới của Tỳ-kheo-nhiều gồm có 348 giới, chia làm 7 loại là:
1.- Ba-la-di (8 giới), 2.- Tăng-tàn (17 giới), 3.-Xả-đọa (30 giới), 4.-Đơn-đọa (178 giới), 5.-Đề-xà-nhiều (8 giới ), 6.-Chúng-học (100 giới), 7.-Diệt-tránh (7 giới). Ba trăm mươi bốn tám giới này, có thể chia là bảy loại như trên, nhưng củng có thể làm tùy nghi chia làm năm loại, sáu loại ,bảy loại như bên tăng (1).
Giới Tỳ-kheo và Tỳ-kheo-nhiều trên này gọi là Cụ túc giới, nghĩa là những giới đem lại cho người thọ vô lượng giới hạnh, công đức. Nhưng 250 hay 348 giới, chưa phải là nhiều. Đó chỉ là giới tóm thâu những giới luật chính, làm giềng mối cho sự trì phạm mà thôi. Nếu kể cho hết giới-luật thì về “lượng” sánh đồng hư không, về “cảnh” lại nan khắp cả pháp giới. Nếu kể về bậc trung, thì bên tăng có đến 3.000 oai nghi, 80.000 tế hạnh; bên Ni có đến 80.000 oai nghi và 120.000 tế hạnh.
Vì sao Phật lập ra nhiều giới luật như thế?
– Vì mỗi một giới là ngăn ngừa tội lỗi, mà con người chúng ta là phàm phu, từ tâm niệm cho đến hành vi, có không biết bao nhiêu điều tội lỗi, nên phải có vô số giới luật để ngăn ngừa.
2. Về tác trì: gồm có 20 kiền độ
Kiền độ nghĩa là phẩm loại, điều luật (Khanda).
20 Kiền độ là:
– Thọ giới Kiền độ
– Thuyết giới Kiền độ
– An cư Kiền độ
– Tứ tự Kiền độ…
Sự chia ra chủ trì và tác trì là cốt lõi dễ phân biệt trong khi giữ giới, chứ thật ra nói một cách rốt ráo thì trong ”chỉ” có ”tác”, trong ”tác” có ”chỉ”, không thể nói một cách dứt khoát được.
Chú thích
(1) Chúng tôi chỉ giới thiệu những danh từ của các giới luật tăng, ni chứ không nói rõ hơn, vì theo luật Phật, người thọ giới ở cấp bậc nào thì chỉ biết giới luật của cấp ấy mà thôi.
IV. Các Danh Từ Và Phương Pháp Thực Hành
Như chúng ta đã thấy ở trên, giới luật của Phật chế ra rất nhiều; do đó, danh từ chuyên môn và cách thức giữ giới cũng rất phức tạp. Vậy muốn giữ giới được kết quả, trước tiên phải biết những điều sau đây:
1. Sao gọi là ”danh, chủng, tính, tướng”?
a. Danh là tên (danh từ) nghĩa là tên chỉ mỗi giới, như giới bất sát sinh, giới bất thâu đạo.v.v…
b. Chủng là chủng loại, hay nhóm; như chúng ta đã thấy ở phần chia các giới của Tăng, Ni: Ba-la-di, Tăng tàng.v.v..
c. Tính là tâm tính, là tính chất ở bên trong; như người giữ giới, trong tâm niệm không nghĩ tưởng đến việc sát, đạo, dâm, vọng.v.v.. hoặc thấy người phạm giới cũng không sinh tâm vui mừng hay liên tưởng đến. Giữ gìn tâm tính ở bên trong được thanh tịnh như vậy, gọi là ”giới tính”.
d. Tướng là hình tướng ở bên ngoài; như bên trong đã không nghĩ đến sát sinh, trộm cướp (tính giới) .v.v.. mà bên ngoài cũng không làm những điều ác ấy, gọi là ”giới tướng”.
Tóm lại, mỗi khi phạm một điều tội lỗi, người giữ giới phải biết tội ấy là gì (danh), sát hay đạo .v.v..? thuộc về loại nào (chủng), Ba-la-di hay Tăng tàng.v.v..? thuộc về nội tâm (tính) hay ngoài thân (tướng)? Và cuối cùng hành giả phải biết tôi ấy, theo luật phải trị phạt thế nào mới được thanh tịnh?
2. Sao gọi là ”khai, giá, trì, phạm”?
a. Khai là mở, cho làm.
b. Giá là cấm, không cho làm.
Như khi Phật còn tại thế, Ngài cấm các vị Tỳ Kheo leo lên cây, đó là ”Giá”. Nhưng về sau có vị Tỳ Kheo đi vào rừng, bị ác thú rượt, Ngài không dám leo lên cây để tránh, vì sợ phạm giới, và cuối cùng bị ác thú hại. Từ đó, Phật dạy: ”Nếu có duyên sự thì được leo cây”, như thế gọi là ”Khai”.
Một thí dụ thứ 2: Người Phật tử phải giữ giới không uống rượu. Đó là ”Giá”. Nhưng khi bị bệnh nặng, nếu cần rượu để hòa với thuốc, uống mới lành bệnh, thì tạm được dùng. Đó là ”Khai”. Nhưng trước khi uống, phải bạch với chư tăng.
c. Trì là giữ gìn; như khi đã thọ giới rồi mà giữ gìn cho được thanh tịnh thì gọi là ”Trì”.
d. Phạm là vi phạm; như đã thọ giới rồi mà không giữ gìn giới thì gọi là ”Phạm”.
Tóm lại, trong khi tu hành giữ giới luật, hành giả luôn luôn quan sát mỗi hành vi hàng ngày của mình xét xem một cách sáng suốt, thế nào là ”Trì”, thế nào là ”Phạm”; trong trường hợp nào, và giới nào được ”Khai”; Trong trường hợp nào, và giới nào không được ”Khai”.v.v.. nói một cách tổng quát khi đã thọ giới rồi thì phải ”Trì”. Nếu không ”Trì” mà ”Phạm”. Tuy thế nếu vì lòng từ bi, vì lợi ích chung, hay vì trí huệ thúc đẩy, thì có thể ”Khai” mà không phạm tội. Nhưng nếu vì tâm nhiễm ô, vì phiền nảo thúc đẩy mà ”Khai” là ”Phạm”.
3. Sao gọi là ”chỉ trì, tác phạm và tác trì chỉ phạm’”?
a. Chỉ trì là nói về phương diện các điều ác, quyết giữ gìn không gây tội lỗi.
b. Tác phạm là nói về phương diện các điều ác, đáng lẽ phải giữ gìn, mà lại không giữ được, cho nên phải phạm tội lỗi.
c. Tác trì là nói về phương diện các điều thiện, cần phải làm, là phạm giới.
d. Chỉ phạm là nói về phương diện các điều thiện, nếu đình chỉ không làm, là phạm giới.
Thí dụ: về tội ăn trộm, nếu không làm là chỉ trì, nếu làm tác phạm. Trái lại, về hạnh bố thí, nếu làm là tác trì, nếu không làm là chỉ phạm.
4. Sao gọi là ” tính tội và giá tội, hay tính giới và giá giới”?
a) Tính tội là tội sẵn có trong bảng tấn chúng sinh, như sát, đạo, dâm, vọng. Bốn tính này có sẵn trong tâm tính chúnh sinh từ vô thỉ đến nay, hể có chúng sinh lá có chúng nó. Mỗi người, không cần ai dạy bảo, không cần học tập, mà ai cũng đều biết sát, đạo, dâm, vọng. Vì thế cho nên gọi là tính tội.
b) Giá tội là tội không sẵn có trong bản tính nhưng do hoàn cảnh, do tập nhiễm mà phát sinh; như tội uống rượu chẳng hạn. Nói một cách tổng quát, ngoài bốn tính tội là sát, đạo, dâm, vọng, còn bao nhiêu tội khác là giá tội cả.
c) Tính giới là để ngăn ngừa bốn tính tội là sát, đạo, dâm, vọng. Giới này rất quan trọng, nhưng củng rất khó giữ. Giữ được bốn giới này thì sư tu hành tất sẽ kết quả và con đường giải thoát chắc chắn sẽ chờ đón hành giả.
d) Giá giới là giới để ngăn ngừa tội lỗi do hoàn cảnh là huân tập mà phát sinh. Những giới này ít quan trọng hơn tính giới nói trên. Nhưng muốn giữ được tính giới một cách ít khó khăn, phải cần giữ giá giới. Như người muốn đốn cây lớn, trước tiên phải chặt ngành ngọn; như người dùng binh giỏi, trước khi muốn chiếm một đô thị lớn, phải ngăn chặn các con đường đi vào đo thị ấy.
V. Kết Luận
Như chúng ta đã rõ, mục đích của giáo pháp mà Đức Phật chỉ bày cho chúng ta là để được minh tâm, kiến tính, và thành Phật. Tất cả các tông phái, mặc dù có chủ trương và đặc điểm khác nhau, nhưng mục dích cuối cùng đều là một: Giác ngộ và thành Phật.
Luật tông cũng không đi ra ngoài mục đích trên, mặc dù phương pháp có khác phần nhiều các tông khác thì phải hiểu rồi mới tu; Luật tông trái lại chủ trương; hãy tu đi rồi sẽ hiểu, hãy giữ gìn giới luật phải nghiêm chỉnh, thì tâm sẽ định tĩnh, thanh tịnh; tâm đa thanh tịnh thì trí huệ sẽ sáng suốt, chân tâm sẽ hiện bày, Phật tính sẽ phát lộ.
Thật là một chủ trương rất thiết thực, mà kết quả lại chắc chắn! Những kẻ học rộng biết nhiều mà không giữ giới cũng chẳng khác gì trước gió, có thể sáng lắm, nhưng không biết sẽ tắt khi nào. Trái lại kẽ học ít biết hẹp mà giữ giới một cách chân thành, thì cuxng như ngọn đèn có ống khói, khi mới thắp thì lu, nhưng không tắt thì càng cháy lâu cáng sáng tỏ.
Vì những lí lẽ trình bày ở trên, Luật tông đều phải thích hợp với mọi căn cơ, nhất là với những căn cơ chậm lụt. Ở đời chúng ta thường thấy phần nhiều những người có căn trí lanh lẹ, hiểu nhanh biết lẹ, nhưng vì hay ỷ sức mình, không chịu đặt mình vào khuôn phép kỷ luật, nên cuối cùng, chẳng thu hoạch được kết quả gì tốt đẹp cả. Trái lại, những kẻ có căn trí tầm thường, nhiều khi chậm lụt nữa, nhưng lại dễ thành công trên đường đời củng như trên đường đạo, vì họ biết thủ phận chịu khó khép mình vào kỷ luật, không tự mãn, tự cao. Những đệ tử của Phật, có ai có một địa vị xã hội hà tiện (đi gánh phân ) và một căn trí thấp thỏi như Ngài Ưu-Ba-Li! Thế mà Ngài Ưu-Ba-Li lại trở thành một đệ tử của Phật, đã thành một bậc hiền thánh, chỉ vì đã nghiêm trì giới luật! Chúng ta đây, địa vị xã hội và căn trí chắc chắn không kém Ưu-Ba-Li, lẽ nào chúng ta không thu hoạch được thành quả tốt đẹp như Ngài, nếu chúng ta cũng tập nghiêm trì giới luật như Ngài.
Hits: 123