CÁC BÀI
HỌC PHẬT
PHÚC TRUNG Huỳnh Ái Tông
PL. 2555
Kinh điển Phật Giáo
Những bài pháp đức Phật thuyết trãi qua 45 năm hoằng hóa của ngài, đã không được ghi lại bằng văn tự từ lúc Phật đương thời cho đến mấy thế kỷ sau khi ngài nhập diệt, không phải lúc đó Ấn độ chưa có chữ viết, thật ra kinh Vệ Đà của Bà La Môn đã được ghi chép bằng chữ Phạn từ trước thời đức Phật.
Những đại đệ tử của Phật như Xá Lợi Phất hay Mục Kiền Liên trước kia ở phái San Xa Dạ thuộc Lục Sư ngoại đạo, mỗi người có đến 100 đệ tử, cũng đại đệ tử như Đại Ca Diếp vốn thuộc dòng dõi Bà La Môn, còn những vị vương tử khác thuộc dòng dõi Sát Đế Lợi như A Nan, A Na Luật, Nan Đà, Ma Ha Nam . . . dĩ nhiên những người đó làu thông chữ nghĩa Sanscrit, nhưng kinh điển đã không được ghi chép vì theo Tạng Luật của nhiều bộ phái còn ghi lại sự kiện sau đây: “Bấy giờ có hai anh em Bà La Môn xin xuất gia theo Phật. Họ yêu cầu Ngài cho phép họ tụng, đọc những lời Ngài dạy theo kiểu tụng đọc kinh điển Vệ Đà mà họ đã quen đọc, họ cũng yêu cầu sử dụng tiếng Sanscrit và sắp xếp câu văn thế nào cho hoa mỹ như cách hành văn của Sanscrit trong kinh điển ấy”. Về lời yêu cầu nầy, Phật dạy rằng trong đạo Ngài không cần văn chương hoa mỹ, chỉ cần nghĩa lý rõ ràng, lập luận chặt chẻ. Lời văn giọng nói cần phải đơn giản, thế nào cho người nghe hiểu được mình muốn nói gì. Đó là vấn đề chính yếu để giải đáp cho câu hỏi vì sao kinh điển không được ghi chép từ thời đức Phật còn hiện tiền.
Trong kiết tập lần thứ nhất, ngài Đại Ca Diếp đưa ra ý kiến: ”Nếu chúng ta xem học pháp là những giới nhỏ nhặt, có thể loại bỏ thì các Tỳ Kheo khác sẽ bảo: Bốn giới Ba La Đề Đề Xá Ni cũng là những giới nhỏ nhặt có thể loại bỏ. Nếu chúng ta bảo bốn giới Ba La Đề Đề Xá Ni là những giới nhỏ nhặt, thì các Tỳ Kheo khác sẽ bảo: Các giới Ba Dật Đề cũng là những giớ nhỏ nhặt… Giờ đây chung ta không thể khẳng định, giới nào là giới nhỏ nhặt mà loại bỏ một cách tùy tiện thì bọn ngoại đạo sẽ bảo: “Pháp của sa môn Thích tử giống như mây khói, khi thầy còn sống thì những pháp do thầy chế định các đệ tử tuân thủ một cách nghiêm túc, nhưng sau khi thầy nhập niết bàn, họ không chịu thực hành nữa” Do vậy, tôi khẳng định lại : “Những gì không do Phật chế thì không được tự ý chế định, và những gì do Phật chế định thì không được vi phạm. Chúng ta phải kính cẩn học tập những gì mà Phật đã truyền dạy”. Ý kiến nầy nầy đã được đại hội quyết nghị chấp thuận, do đó cho chúng ta thấy rằng, tăng đoàn quyết bảo tồn và hành trì đúng y theo những lời Phật dạy, Thượng Tọa bộ đã tiếp nối truyền thống nầy nên họ được mệnh danh là bảo thủ, chính truyền thống bảo thủ nầy mà trải qua nhiều thế kỷ, kinh điển vẫn khẩu truyền chớ không được ghi chép.
Tương truyền rằng sau khi mãn Hạ trong lần kiết tập thứ nhất đó, ngài Ưu Bà Ly đem quyển Luật của ngài đã kiết tập ghi 1 điểm, cứ thế sau mỗi Hạ ghi 1 điểm, quyển Luật nầy có tên là Luật Thiện Kiến, sau ngài truyền cho đệ tử là Đà Đã Tật, Đà Đã Tật truyền cho ngài Tu Câu và cứ thế lưu truyền, đến ngài Bạt Đà La mang nguyên bổn Luật nầy sang Trung Hoa vào đời Tề, năm Vĩnh Bình Thứ Bảy, dịch ra Hán Văn tại chùa Trúc Lâm ở Quảng Châu, mãn Hạ năm ấy đếm số ghi cuối cùng được 976 điểm, vì do chư thánh Tăng đã điểm vào quyển nầy, nên nó còn có tên là “Chúng Thánh Điểm Ký”. Phật Lịch được định theo điểm ký nầy.
Nhìn lại lịch sử Phật giáo, chúng ta biết rằng kiết tập lần thứ hai khoảng 100 năm sau Phật nhập diệt, hay ở thế kỷ thứ V trước Công nguyên, lần kiết tập nầy do vấn đề giới luật, Phật giáo lần đầu tiên bị phân phái thành Thượng Tọa bộ và Đại Chúng bộ. Đến thời đại vua A Dục, khoảng 236 năm sau khi Phật nhập Niết Bàn, tức năm 250 trước CN nhà vua hộ trì tổ chức kiết tập lần nầy để chỉnh đốn lại hàng ngủ Tăng già, có thuyết cho là do tân thuyết của Đại Thiên. Lần kiết tập nầy xuất hiện bộ “Thuyết sự”, sau nầy người ta cho rằng từ đó Phật Giáo có đủ Tam Tạng Kinh Điển. Lần kiết tập thứ tư dưới triều đại Ca Nhị Sắc Ca (128-151), khoảng 700 năm sau khi Phật nhập niết bàn, khoảng năm 140 CN, lần kiết tập nầy, hội nghị đã sáng tác bộ “Luận Nghị” (Upadesa), để giải thích tạng Kinh, bộ “Tỳ Bà Sa” (Vibhasa) để giải thích tạng Luật và bộ “A Tỳ Đạt Ma” (Abhidarma) để giải thích tạng Luận. Như vậy cả bốn lần kiết tập, đều cho chúng ta thấy, không lần nào có tổ chức ghi chép kinh điển.
Chúng ta lại biết rằng, sau khi Phật nhập niết bàn 236 năm, dưới triều đại vua A Dục, ngài muốn truyền bá Phật giáo nên phái một đoàn truyền giáo sang Tích Lan, do Trưởng Lão Minhada (là vương tử, con vua A Dục) hướng dẫn, đoàn truyền giáo nầy đã truyền khẩu Kinh và Luật tại vương quốc Tích Lan bằng tiếng Ma Kiệt Đà, để giải thích kinh họ dùng ngôn ngữ và chữ Tích Lan để ghi chép. Đến triều vua Vô Úy Vương (Vatthagàmani-Abhaya thế kỷ I trước Công Nguyên), một vị vua rất hâm mộ và nhiệt tâm hộ trì Phật giáo, đã tạo dựng một ngôi chùa nguy nga đồ sộ tại núi Vô Úy tên là Vô Úy Tự. Thời kỳ nầy vào những năm 35-32 TCN Phật Giáo Tích Lan họp chư tăng tại chùa Alu gần thị trấn Matale, kiết tập toàn bộ Tam Tạng, kinh điển bắt đầu ghi chép bằng tiếng Pali theo ngôn ngữ Ma Kiệt Đà. Về nguồn gốc tiếng Pali, các nhà khảo cứu cho rằng nó phát xuất từ nơi nào đó thuộc vương quốc rộng lớn Ma Kiệt Đà, rồi lan rộng ra các nơi đến tận Tích Lan.
Về sau, đến thế kỷ thứ V, có ngài Phật Âm (Buddhaghoso), người Trung Ấn, đến Tích Lan nghiên cứu giáo lý của Đại Tự phái ( Phật giáo Tích Lan bắt nguồn từ Đại Tinh Xá phát triển ra, nên gọi là Đại Tự phái, sau Tăng chúng ở Vô Úy Tự bất đồng ý kiến về giới luật, tách khỏi Đại Tự phái, thành lập Vô Úy Sơn Tự phái, thuộc pháp hỷ bộ, đầu thế kỷ thứ III, tại chùa Kỳ Đà Lâm, phát sinh ra một phái nửa gọi là Kỳ Đà Lâm Tự phái.), ngài Phật Âm đã dùng tiếng Pali để chú thích hầu hết các Kinh, Luật và Luận, phần nào chưa xong, sau nầy có ngài Hộ Pháp (Dhammapàla) hoàn thành, chính ngài Phật Âm (Buddhaghoso) sáng tác ra bộ Thanh Tịnh Đạo Luận (Visuddhimagga).
Như vậy Phật giáo Tích Lan dùng kinh điển Pali gọi là Phật Giáo Nguyên Thủy hay Phật giáo Nam Tông. Còn Phật Giáo Đại Thừa hay Bắc Tông dùng kinh điển chữ Sanscrit. Chúng ta biết chữ Sanscrit đã có từ trước thời đức Phật, nhưng kinh điển Phật giáo được ghi chép bằng Sanscrit không rõ từ lúc nào nhưng chắc là khoảng thời thời kỳ kiết tập kinh điển lần thứ tư, những nhà nghiên cứu Phật giáo cho rằng kinh điển ghi bằng chữ Sanscrit cũng như Pali, có thể đã dựa theo nguyên bản ngôn ngữ Ma Kiệt Đà, hoặc khi ghi kinh điển Sanscrit có tham khảo bản tiếng Pali, cho nên nội dung bộ A Hàm (Agama) của Bắc Tông giống như Ngũ Bộ Kinh (Nikaya) của Nam Tông.
Chúng ta có bảng liệt kê đại cương kinh điển Nam Tông như sau:
I.- Luật Tạng:
Gồm có giới luật, nghi lễ, hành xử cho Nam, Nữ tu sĩ, chia làm 5 bộ:
- Ba La Di
- Ba Dật Đề
- Đại Phẩm
- Tiểu Phẩm
- Toát yếu
II.- Kinh Tạng:
Ghi những lời của Phật hay đệ tử Phật giảng dạy, được chia ra làm 5 bộ gọi là Ngũ Bộ Kinh:
- Trường Bộ
- Trung Bộ
- Tương Ưng Bộ
- Tăng Chi Bộ
- Tiểu Bộ
Tiểu Bộ không phải là bộ kinh nhỏ hay ngắn, mà chính ra nó là tập họp 15 bộ sách nhỏ :
a-
Tiểu Tụng
b- Pháp Cú
c- Phật Tự Thuyết
d- Như Thị Ngữ
e- Kinh Tập
f- Thiên Cung Sự
g- Ngạ Quỹ Sự
h- Trưởng Lão Tăng Kệ
i- Bổn Sanh
j- Nghĩa Thích
k- Vô Ngại Giải Đạo
l- Thí dụ
m- Phật sử
n- Sở hành tạng
III.- Luận Tạng, còn gọi là Thắng Pháp Tạng hay Vi Diệu Pháp
Nội dung luận giải những lời Phật dạy, hệ thống hóa những lời dạy ấy thành cơ sở triết học . . . gồm có 7 quyển:
- Pháp Tụ
- Phân Biệt
- Giới Thuyết
- Nhân Thi Thiết
- Biện Giải
- Song Luận
- Nhân duyên Thuyết
Ngoài ra còn một số tác phẩm quan trọng khác, cũng được xem như thánh điển Nam Tông, được lưu truyền cho đến nay như:
- Đảo sử
- Đại Sử
- Tiểu Sử
- Mi Lan Đà Vấn Đạo (Kinh Na Tiên)
- Thanh Tịnh Đạo Luận
- Thắng Pháp Tập Yếu Luận
Kinh điển Bắc Tông, nguyên bản chữ Sanscrit ngày nay phần nhiều không còn, hầu hết là những bản Hán dịch của Thánh Tăng Ấn Độ hay 675 bộ kinh điển Trần Huyền Trang mang từ Ấn Độ về dịch sang chữ Hán. Chia ra như sau:
I.- Tạng Luật:
- Thập Tụng Luật
- Tứ Phận Luật
- Ma Ha Tăng Kỳ Luật
- Ngũ Phận Luật
- Tỳ Nại Da
II.- Tạng Kinh:
- Trường A Hàm
- Trung A Hàm
- Tạp A Hàm
- Tăng Nhứt A Hàm
III.- Tạng A Tỳ Đàm:
- Phát Trí Luận của Ca Đa Diễn Ni Tử, được xem như là cái thân, có 6 chân là:
- Tập Dị Môn Túc Luận (tương truyền của Xá Lợi Phất sáng tác)
- Pháp Uẩn Túc Luận (tương truyền của Mục Kiền Liên sáng tác)
- Thi Thiết Túc Luận của Ca Chiên Diên
- Thức Thân Luận của Đề Bà Thiết Ma
- Phẩm Loại Túc Luận của Thế Hữu
- Giới Thân Túc Luận cũng của Thế Hữu
Tạng A Tỳ Đàm diễn đạt rất trung thực với những lời Phật dạy trong các kinh.
IV.- Tạng Khuất Già Đà (Đôi khi xếp chung với Tạng Kinh gọi là Ngũ A Hàm):
- Khế Kinh
- Ứng tụng
- Cô khởi
- Nhân duyên
- Bản sự
- Bản Sanh
- Vị Tăng Hữu
- Thí dụ
- Luận Nghị
- Tự Thuyết
- Phương quảng hay Tỳ Phật Lược
- Thọ Ký
Phần trên là những kinh điển Nam Tông và Bắc Tông có gần giống nhau, ngoài ra Bắc Tông là Phật Giáo phát triển nên có thêm những bộ kinh khác, loại không rõ phương danh Thánh tăng có:
V.- Bát Nhã Bộ: (Riêng bộ nầy nguyên bản Sancrit còn khá đầy đủ)
- Đại Bát Nhã Sơ Phận
- Đại Phẩm Bát Nhã
- Tiểu Phẩm Bát Nhã
- Văn Thù Bát Nhã
- Thắng Thiên Vương Bát Nhã
- Lý Thú Bát Nhã
- Kim Cương Bát Nhã
- Bát Nhã Tâm Kinh
VI.- Hoa Nghiêm Bộ:
- Thập Địa Phẩm
- Hành Nguyện Phẩm tức Tứ Thập Hoa Nghiêm
- Phổ Hiền Hạnh Nguyện Tán
VII.- Phương Quảng Bộ:
- Pháp Hoa Kinh
- A Di Đà Kinh
- Bi Hoa Kinh
- Kim Quang Minh Kinh
- Nguyệt Đăng Tam Muội Kinh
- Soạn Tập Bách Duyên Kinh
- Phật Bản Hạnh Tập Kinh Dị Bản
- Duy Ma Kinh
Các kinh đã được sáng tác trong thời đại Long Thọ, khoảng thế kỷ thứ III:
- Thắng Man Kinh
- Đại Niết Bàn Kinh
- Giải Thâm Mật Kinh
- Kinh Lăng Già
VIII.- Bảo Tích Bộ:
- Hộ Quốc Tôn Giả Sở Vấn Kinh
- Đại Ca Diếp Hội.
- Vô Lượng Thọ Hội tức Vô Lượng Thọ Kinh
IX.- Bí Mật Bộ:
- Vô Lượng Thọ Quyết Định Quang Minh Vương Đà La Ni
- Tán Dương Thánh Đức Đa La Bồ Tát Nhất Bách Bát Danh Kinh
- Kim Cương Thủ Bồ Tát Hàng Phục Nhất Thiết Bộ Đa Đại Giáo Vương Kinh
- Vô Năng Thắng Phan Vương Như Lai Trang Nghiêm Đà La Ni Kinh
- Thánh Cứu Độ Phật Mẫu Nhị Thật Nhất Chủng Lễ Tán Kinh
- Thánh Diệu Mẫu Đà La Ni Kinh
- Đại Bi Không Trí Kim Cương Đại Giáo Vương Nghi Quỹ Kinh
- Đại Thừa Trang Nghiêm Bảo Vương Kinh
- Phật Mẫu Đại Khổng Tước Vương Kinh
- Đại Văn Thỉnh Vũ Kinh
- Đại Tùy Cầu Đà La Ni Kinh
- Đại Bạch Tản Cái Đà La Ni Kinh
- Thủ Hộ Đại Thiên Quốc Độ Kinh
- Đại Hàn Lâm Thánh Nan Noa Đà La Ni Kinh
- Đại Hộ Minh Đà La Ni Kinh
- Ma Lị Chi Thiên Đà La Ni Kinh
- Văn Thù Sở Thuyết Tối Thắng Danh Nghĩa Kinh
- Bát Lan Sa Phược La Đà La Ni Kinh
- Nhất Thiết Như Lai Tam Nghiệp Tối Thượng Bí Mật Đại Giáo Vương Kinh
- Nhất Thiết Như Lai Ô Cầm Nhị Sa Tối Thắng Tổng Trì Kinh
- Hoại Tướng Kim Cương Đà La Ni Kinh
- Trì Thế Đà La Ni Kinh
- Thủ Lăng Nghiêm Tam Muội Kinh
X.- Sáng tác của các Thánh Tăng khác:
1. Na Tiên (xuất hiện cuối thế kỷ thứ II trước công nguyên):
2.- Thế Hữu, ở đầu thế kỷ thứ II, người nước Gandhàra, thượng thủ kỳ kiết tập kinh điển lần thứ IV.
- Di Bộ Tôn Luận
- Tôn Bà Tu Mật Bồ Tát Sở Tập Luận
3.- Mã Minh, ngài sanh ở vùng sông Hằng, khoảng hậu bán thế kỷ thứ II.
- Phật Sở Hạnh Tán
- Đại Trang Nghiêm Luận Kinh
- Thập Bất Thiện Nghiệp Đạo Kinh
- Lục Thú Luân Hồi Kinh
- Sự Sư Pháp Ngũ Thập Tụng
- Ni Kiền Tử Vấn Vô Ngã Nghĩa Kinh
- Đại Tôn Địa Huyền Văn Bản Luận
- Đại Thừa Khởi Tín Luận
4.- Long Thọ, ngài sanh khoảng đầu thế kỷ thứ III, ngườ Nam Ấn, dòng dõi Bà La Môn.
- Trung Quán Luận
- Thập Nhị Môn Luận
- Đại Trí Độ Luận
- Thập Trụ Tỳ Bà Sa Luận
- Thập Bát Không Luận
- Đại Thừa Phá Hữu Luận
- Bồ Đề Tư Lương Luận
- Bồ Đề Tâm Ly Tướng Luận
- Hối Tránh Luận
- Phương Tiện Tâm Luận
- Khuyến Phát Chư Vương Yếu Kệ
- Tán Pháp Giới Tụng
- Quảng Đại Phát Nguyện Tụng
5.- Đề Bà cũng gọi là Thánh Thiên, sinh cuối thế kỷ thứ III, người Nam Ấn.
- Bách Luận
- Bách Tự Luận
- Quảng Bách Luận
6.- La Hầu La Bạt Đà La (Ràhula-bhadra), người Trung Ấn sinh khoảng cuối thế kỷ thứ III, ngài truyền bá giáo lý Đại Thừa vùng Trung Ấn.
- (Sách của ngài chú thích Trung Quán Luận của Long Thọ nhưng đã thất truyền)
7.- Trước tác của Ngài Di Lặc (do Vô Trước ghi chép lại):
- Du Già Sư Địa Luận
- Đại Thừa Trang Nghiêm Kinh Luận
- Thập Địa Kinh Luận
- Trung Biên Phân Biệt Luận
8.- Vô Trước, sinh ở cuối thế kỷ thứ IV thuộc nước Gandhàra, Bắc Ấn, dòng dõi Bà La Môn. Có hai em là Thế Thân và Lân Trì Tử, cả ba cùng xuất gia đầu Phật.
– Hoa Nghiêm Kinh
- Hiển Dương Thánh Giáo Luận
- Nhiếp Đại Thừa Luận
- Đại Thừa A Tỳ Đạt Ma Tạp Luận
- Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Luận
- Thuận Trung Luận
9.- Thế Thân, sinh sau Vô Trước chừng 20 năm vào cuối thế kỷ thứ IV, xuất gia theo hệ thống Hữu Bộ ( Thượng Tọa Bộ), sau nghe lời khuyên của Vô trước, chuyển sang Đại Chúng Bộ. Tương truyền ngài là luận chủ của một ngàn bộ luận, đã được dịch sang Hán văn :
- A Tỳ Đạt Ma Câu Xá Luận (Hữu bộ)
- A Tỳ Đạt Ma Câu Xá Bản Tụng (Hữu bộ)
- Duy Thức Tam Thập Luận Tụng
- Duy Thức Nhị Thập Luận
- Đại Thừa Bách Pháp Minh Môn Luận
- Đại Thừa Ngũ Uẩn Luận
- Phật Tính Luận
- Nhiếp Đại Thừa Luận Thích
- Thập Địa Kinh Luận
- Diệu Pháp Liên Hoa Kinh Ưu Ba Đề Xá
- Vô Lượng Thọ Kinh Ưu Ba Đề Xá
- Chuyển Pháp Luân Kinh Ưu Ba Đề Xá
- Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật Đa Kinh Luận
- Lục Môn Giáo Thụ Tập Định Luận
10.- Trần Na, sinh vào cuối thế kỷ thứ V, ở nước Dràvida, Nam Ấn, lúc đầu ngài học giáo lý Thượng Tọa Bộ, sau chuyển sang Đại Chúng Bộ nên thông hiểu giáo nghĩa cả hai, ngài nhận thấy Nhân Minh học lúc ấy còn phức tạp, nên đã hoàn chỉnh thành hệ thống mới gọi là “Tân Nhân Minh”, sáng tác của Ngài gồm có :
- Nhân Minh Chỉnh Lý Môn Luận Bản
- Quán Sở Duyên Duyên Luận
- Vô Tướng Tư Trần Luận
- Thủ Nhân Giả Thiết Luận
- Quán Tổng Tướng Luận Tụng
- Chưởng Trung Luận
11.- Thanh Biện, sanh khoảng tiền bán thế kỷ thứ VI, người Trung Ấn, lúc đầu theo học phái Số Luận, sau theo Phật giáo, chịu ảnh hưởng Long Thọ và Dề Bà, sáng tác của ngài có:
- Đại Thừa Chưởng Trân Luận
- Bát Nhã Đăng Luận Thích
12.- Hộ Pháp, sinh khoảng thế kỷ thứ VII, người nước Dràvida, ông mất lúc 32 tuổi, thầy của Giới Hiền, trước tác ngài gồm có:
- Thành Duy Thức Luận
- Thành Duy Thức Bảo Sinh Luận
- Quán Sở Duyên Duyên Luận Thích
- Đại Thừa Quảng Bách Luận
Nói đến Kinh điển Nam Tông, người ta nghĩ ngay đến kinh điển Pali, chẳng những kinh điển Pali lưu truyền trong các nước Tích Lan, Miến Điện, Thái Lan, Campuchea mà đã lan truyền sang các nước Tây phương trên 100 năm qua, đó là nhờ có Hiệp Hội Thánh Điển Pali (Pàli Text Society) do Tiến sĩ T.W. Rhys Davids (1843-1922) người Anh đã khởi xướng thành lập Hiệp Hội nầy từ năm 1881, trụ sở đặt tại Luân Đôn, đến nay Hiệp Hội vẫn còn hoạt động và đã dịch trên 100 quyển kinh điển Pali ra Anh ngữ.
Còn nói đến kinh điển Bắc Tông, các kinh điển Sanscrit đã được nhiều dịch giả như Cưu Ma La Thập, Huyền Trang … dịch sang Hán văn hầu hết các kinh điển nêu phần trên, từ trước đến nay đã có nhiều bộ sưu tập như sau:
I.- Bộ 1 (chép tay) sưu tập từ thời Lương Võ Đế, các kinh điển dịch ra Hán văn có tại Trung quốc từ năm 67 đến năm 517.
II.- Bộ 2 (chép tay) sưu tập dưới thời vua Hiếu Võ nhà Nguyên Ngụy, gồm các kinh điển đến năm 533-534.
III.- Bộ 3 (chép tay) sưu tập tới năm 594, dưới thời Tùy Văn Đế.
IV.- Bộ 4 (chép tay) sưu tập đến năm 602, dưới thời Tùy Văn Đế, gồm 2109 bộ, thành 5058 quyển.
V.- Bộ 5 (chép tay) sưu tập đến năm 616 dưới thời Tùy Văn Đế.
VI.- Năm 644, dưới thời nhà Đường, lập xong thư tịch của 2847 bộ, thành 8476 quyển kinh đã phiên dịch xong, trong số có 650 bộ do Ngài Huyền Trang thĩnh từ Ấn Độ về.
VII.- Bộ 6 (chép tay) hoàn tất năm 695, dưới thời Võ Hậu gồm 3616 bộ, thành 8641 quyển.
VIII.- Bộ 7 (chép tay) hoàn tất năm 730, dưới thời Đường Huyền Tôn.
IX.- Bộ 8 (in bằng gỗ) hoàn tất năm 972, dưới thời Tống Thái Tổ. Phải khắc 130 ngàn bản gỗ mới in xong bộ Tam Tạng nầy, năm 995, Phật giáo Trung Hoa có cho Cao Ly ( Đại Hàn) thỉnh một bộ Tam Tạng của bản in nầy. Phật giáo Cao Ly khắc và in lại thành bộ Cao Ly bổn.
X.- Bộ 9 (in) năm 1285-1287 dưới thời Thế Tôn nhà Nguyên.
XI.- Năm 1306, hoàn tất thư tịch kinh điển (đã soạn từ đời Tống cho đến đời Nguyên mới xong).
XII.- Bộ 10 (in) năm 1368-1398, dưới thời Minh Thái Tổ, bộ Tam Tạng nầy được gọi là Đại Minh Nam Kinh Đại Tạng Kinh, vì đã được in tại Nam kinh (Nankin)
XIII.- Bộ 11 (in) năm 1403-1424, dưới thời Minh Thành Tổ. Bộ Tam Tạng nầy được gọi là Đại Minh Bắc Kinh Đại Tạng Kinh, vì được in tại Bắc kinh (Pékin).
XIV.- Ngài Pháp sư Mật Tạng hổn hợp hai bộ trên thành một và lập thư tịch.
XV.- Bộ 12 (in) năm 1735-1737 dưới thời vua Thế Tôn và Cao Tôn đời nhà Thanh.
XVI.- Bộ 13 (in) năm 1911, Tinh Xá Tần Già ở Thượng Hải in lại bộ Súc Loát Tạng Kinh của Nhật Bản gọi là Tần Già Bản.
XVII.- Bộ 14 (in) Thương vụ ấn quán in lại Tục Tạng Kinh của Nhật Bản.
XVIII.- Bộ 15 (in) khoảng từ năm 1931-1936, có in lại Tống bản Tích Sa tạng kinh và Kim bản Đại Tạng Kinh, là những sự nghiệp vĩ đại của Phật giáo Trung Quốc, được mệnh danh là Tống Tạng Di Trân.
Về sau nầy, chắc chắn còn có lần in thêm Đại Tạng Kinh, nhưng bài nầy chưa có đủ tài liệu để tham khảo.
Ngoài Hán Tạng ra, kinh điển Sanscrit được Tây Tạng dịch trực tiếp từ nguyên bản rất tinh tường và chính xác, gọi là Tây Tạng Phật điển, chia làm 2 phần, một phần gọi là Cam Thù (Kanjur) và một phần gọi là Đan Thù (Tanjur), cả hai gồm đủ Kinh, Luật và Luận, phân chia như sau:
I. Cam Thù:
- Luật Bộ
- Bát Nhã Bộ
- Hoa Nghiêm Bộ
- Bảo Tích Bộ
- Kinh Tập (hơn 200 bộ)
- Đại Niết Bàn
- Bí Mật Bộ
II. Đan Thù:
- Tán Ca Tập (gồm 58 bộ)
- Bí Mật Nghi Quỹ (hơn 2600 bộ)
- Luận Thích Tập ( rất quan trọng vì có nhiều sớ thích kinh điển, các môn học khác như Nhân Minh, Văn pháp, Âm nhạc, Toán số …
Ở Việt Nam, từ trước kinh điển dùng chữ Hán, vào những thập niên 30 trở đi mới phiên âm chữ Việt, từ thập niên 50 trở đi mới dịch kinh sang chữ Việt, những dịch giả tên tuổi như Đoàn Trung Còn, Thích Thiện Hoa, Thích Trí Tịnh, Thích Thiện Siêu, Thích Minh Châu, Thích Thanh Từ …
I. Luật :
- Luật Sa Di và Sa Di Ni
- Luật Sa Di Giải
II. Kinh :
- Trường A hàm (2 quyển)
- Trung A Hàm (4 quyển)
- Tạp A Hàm (4 quyển)
- Tăng Nhứt A Hàm (3 quyển)
- Trường Bộ Kinh (2 quyển)
- Trung Bộ Kinh (3 quyển)
- Tương Ưng Bộ Kinh (5 quyển)
- Tăng Chi Bộ Kinh (4 quyển)
- Đại Bát Niết Bàn
- Hoa Nghiêm
- Pháp Hoa
- Thủ Lăng Nghiêm
- Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Kinh
- Bảo Tích
- Vị Tằng Hữu
- Giải Thâm Mật
- Kinh Hiền Ngu
- …
III. Luận:
- Luận Nhiếp Đại Thừa
- Luận Thành Duy Thức
- Luận Đại Trí Độ
- Luận Đại Thừa Khởi Tín
- Đại Thừa Phật Giáo Tư Tưởng Luận
- Đại trí Độ Luận
- Trung Quán Luận
- …
Bảng kê trên đây còn thiếu sót nhiều, nhưng những kinh quan trọng đều đã được dịch, Tiểu Bộ gồm 15 quyển trong Ngũ Bộ Kinh cũng đã được dịch xong, cuối năm 1999 đã in các tập 1, 2, 3. Kết quả dịch kinh, cho thấy từ trước tuy chưa có tổ chức, nhưng công việc dịch kinh ra Việt Ngữ được chư Tăng, cư sĩ dịch khá nhiều, khá đầy đủ.
Theo trào lưu phát triển khoa học, Đại Tạng Kinh Pali ở Tích Lan, Thái Lan đã đưa vào CD Rom, Hán Tạng cũng được một hãng điện tử Nhật tài trợ đưa vào CD Rom.
Theo ngài Phật Âm (hay Phật Minh), có 7 cách phân loại thánh điển:
1. Hương vị: Trong Tăng Nhứt Bộ Kinh, Trung A Hàm, Tăng Nhứt A Hàm đều có ghi chép lời Phật dạy sau đây: “Giống như nước biển chỉ có một vị mặn, giáo pháp và giới luật của Phật cũng chỉ có một hương vị duy nhất, đó là hương vị giải thoát.”
2. Pháp và Luật: Những lời Phật dạy gồm có giáo lý gọi là Pháp, và những phép tắc hành trì mà người tu phải tuân thủ gọi là Luật.
3. Ba phần pháp âm : Những lời Phật dạy gồm có 3 phần : đầu giữa và cuối có ghi trong các kinh: Trường bộ, Trung bộ, Tương Ưng bộ, Tăng Nhứt bộ và trong tạng Luật như sau : “Pháp Phật giảng dạy thuần thiện cả phần mở đầu, phần giữa lẫn phần cuối. Pháp ấy tốt đẹp cả ý nghĩa lẫn lời văn. Toàn bộ pháp âm đều đồng nhất, viên mãn và trong suốt, thể hiện trọn vẹn phạm hạnh thanh tịnh.”
4. Năm Bộ Kinh. Theo bi ký ở Sanci và Bharhut thì Năm Bộ Kinh là chỉ cho toàn bộ những lời Phật dạy, nhưng theo ngài Phật Âm, Năm Bộ Kinh là Trường Bộ, Trung Bộ, Tương Ưng Bộ, Tăng Nhứt Bộ và Tạp Bộ, trong Tạp Bộ gồm cả Tiểu Bộ, tạng Luật và A Tỳ Đàm.
5. Chín Bộ Loại: Giáo điển Nam Phương chia thành chín bộ loại là:
- Khế kinh
- Ưng Tụng hay Trùng Tụng
- Cô Khởi
- Tự Thuyết
- Bản Sự
- Bản Sanh
- Vị Tằng Hữu
- Vệ Đà La
- Vê Da
6. 84,000 Pháp Uẩn
Có nhiều vị cao tăng cho rằng phiền não của chúng sanh có đến 84 ngàn phương cách cho nên Phật dạy 84 ngàn pháp môn để đối trị. Đây chỉ là ước lệ mà thôi, bởi vì Phật thuyết pháp trong 45 năm, vị chi có 16,436 ngày chẳng lẽ mỗi ngày Phật phải dạy trên 5 pháp môn để đối trị với phiền não ?
7. Tam Tạng, có nghĩa là 3 cái kho chứa, đó là Kinh, Luật và Luận, Phật chỉ thuyết Kinh và Luật còn Luận do các Thánh Tăng hệ thống hóa thành cơ sở triết lý và nó chỉ bắt đầu hình thành trong kỳ Kiết Tập lần thứ ba với tác phẩm “Thuyết Sự” do ngài Đế Tử Tu trước tác.
Theo ngài Trí Khải thuộc Thiên Thai Tông ở Trung Hoa, ngài chia Kinh điển Phật thuyết ra làm 5 thời :
Thời thứ nhất: Sau khi Phật đắc đạo ngồi lại dưới gốc cây Bồ Đề giảng kinh Hoa Nghiêm cho chư thiên nghe.
Thời kỳ thứ hai: Thấy lời nói của mình khôn ai hiểu, Phật đến Vườn Nai, giảng Tứ Diệu Đế và Thập Nhị Nhân Duyên cho nhóm ông Kiều Trần Như nghe, những lời Phật giảng trong thời gian nầy được ghi vào kinh A Hàm, nên gọi là thời A Hàm, kéo dài 12 năm.
Thời kỳ thứ ba: Giáo lý của Phật đã lan rộng trong dân gian, bị ngoại đạo và các phái triết học khác công kích, nên Phật giảng dạy cho đệ tử các giảng minh giải đáp được ghi trong kinh Duy Ma, Đại Tập, thời kỳ nầy kéo dài trong 8 năm, gọi là thời Phương Đẳng.
Thời thứ tư: Do các phái triết học và ngoại đạo công kích với những triết thuyết cao siêu, nên Phật phải giảng về những nguyên lý cùng tột của vũ trụ, đó là thời kỳ kinh Bát Nhã, kéo dài trong 22 năm.
Thời kỳ thứ năm: Phật giáo đã vượt lên các học thuyết đương thời, bấy giờ Phật đem lý tưởng Bồ Tát đạo và Nhất Thừa Phật Giáo giảng cho đệ tử, thời kỳ nầy là thời Pháp Hoa, kéo dài trong 8 năm và cuối cùng Phật thuyết về Niết Bàn trước khi tịch diệt.
Từ thế kỷ thứ VIII quân Hồi luôn xâm chiếm Ấn Độ, đốt phá chùa chiền, hảm hại Tăng, Ni, cho đến năm 1203, quân Hồi đem quân đánh chiếm Ấn Độ lần cuối cùng, hoàn tất cuộc xâm lăng đất Ấn, đạo Phật bị diệt vong ngay quê hương của Đức Phật, do vậy mà không còn những Thánh Tăng sáng tác kinh, luận để truyền bá Phật Giáo, chẳng những thế mà Tam Tạng kinh điển ghi chép bằng Sanscrit hầu hết đều không còn.
Liệt kê những Kinh Sách nêu trên, để thấy Kinh điển nguyên thủy Nam Tông và Bắc Tông không sai khác nhiều, chỉ có những kinh điển do Thánh Tăng Ấn Độ sáng tác mang lại cho Phật Giáo Bắc Tông nhiều kinh điển hơn. chung quy vì lợi ích chúng sinh, đề cao lý tưởng Bồ Tát Đạo và quy nguyên Nhất Thừa Phật Giáo.
Có một điều quan trọng, xin nhắc lại lời Phật dạy trong kinh Kim Cang : “Tu Bồ Đề ! Ông đừng cho là Như Lai nghĩ như vầy: Ta Có Thuyết Pháp. Tại sao vậy ? Nếu người ta nói: Như Lai có thuyết pháp, tức là phỉ báng Phật, vì không thể hiểu nổi lời ta nói. Tu Bồ Đề! Thuyết pháp là không có pháp chi để thuyết. Tạm gọi là thuyết pháp.”
Và trong Kinh Lăng Già Tâm Ấn Phật dạy: Thế nên nói rằng: ”Ta từ đêm ấy được tối chánh giác, cho đến đêm ấy vào niết bàn, ở trong khoảng giữa không nói một chữ, cũng chẳng đã nói, sẽ nói”.
Khởi thảo Feb. 20, 2000
Sửa chữa Mar. 12, 2000
Sách tham khảo :
HT Thích Thanh Kiểm Lịch
Sử Phật Giáo Ấn Độ ,Vạn Hạnh, Sàigòn, Việt Nam, 1963
HT Thích Thanh Từ Kinh Lăng Già Tâm Ấn, Tu Viện Chơn Không, Việt Nam,
1989
HT Thích Thiền Tâm Phật Học Tinh Yếu, Việt Nam, 1999
Nguyễn Duy Cần Phật Học Tinh Hoa, tái bản lần I, Hồng Ân, Việt Nam, 1996
Cao Hữu Đính Văn Học Sử Phật Giáo, Tập 1, Hương Sen, Việt Nam, 1996
Nhiều tác giả Phật Học Cơ Bản Việt Nam, 1999
Kinh Nhật Tụng, Kinh Kim Cang, Việt Nam, 1992
Hits: 31