Trung đạo không chỉ là quan điểm sống của Phật giáo, biểu thị tinh thần trung dung cởi mở không cố chấp, nó còn là một hệ thống triết học thâm sâu của Phật giáo Đại thừa, cụ thể là trường phái Trung quán (Mādhyamaka, Mādhyamika).
> Trung đạo là hạnh tu thù thắng nhất
Nếu như Phật giáo Nguyên thủy đề cập đế giáo lý Trung đạo là đề cập đến sự xa lìa hai lối sống truy hoan của sự hưởng thụ dục vọng, và thực hành ép xác khổ hạnh, hay tránh hai cực đoan cho rằng thế giới là thường còn hay đoạn diệt, thì Phật giáo Đại thừa lại đề cập đến góc độ cố chấp về mặt nhận thức, quan điểm thuộc về tâm lý.
Trung đạo (madhyamā-pratipad) là con đường tránh xa hai cực đoan: hưởng thọ dục vọng và tu tập khổ hạnh, nó là kinh nghiệm rút ra từ bản thân của Ngài, sau khi sống hưởng thụ trong hoàng cung, và trải qua 6 năm tu khổ hạnh, nhờ con đường này mà Ngài thành đạt giác ngộ và giải thoát dưới cội cây Bồ đề.
Kề từ đó, trung đạo không chỉ là quan điểm sống của Phật giáo, biểu thị tinh thần trung dung cởi mở không cố chấp, nó còn là một hệ thống triết học thâm sâu của Phật giáo Đại thừa, cụ thể là trường phái Trung quán (Mādhyamaka, Mādhyamika).
Từ ý nghĩa Trung đạo được định nghĩa là tránh xa hai cực đoan: Hưởng thụ dục vọng và tu tập khổ hạnh, dần dần diễn biến phát triển thành tránh hai cực đoan: chấp hữu và chấp vô, chấp đoạn chấp thường, bất nhị, nói chung là phủ nhận thái độ cố chấp bảo thủ, dù là bên này hay bên kia. Từ ý nghĩa vô chấp này dẫn đến định nghĩa Trung đạo là con đường Bát chánh đạo, trung đạo là lý thuyết Duyên khởi, trung đạo là đệ nhất nghĩa không. Lẽ tất nhiên mỗi khái niệm Trung đạo của mỗi thời kỳ lịch sử khác nhau, dù ít hay nhiều tất nhiên chúng cũng mang ý nghĩa khác nhau, cách giải thích phân tích cũng có sự dị biệt, nhất là đến thời kỳ Phật giáo Đại thừa (Mahˆ-yˆna), khái niệm này được phân tích triết học rất chi ly.
Nội dung bài viết này, tác giả cố gắng làm sáng tỏ từng ý nghĩa của nó qua các kinh luận của từng Bộ phái.
1. Không rơi vào hai cực đoan: dục lạc và khổ hạnh là trung đạo
Là người Phật tử, có lẽ không ai lại không biết về thân thế của vị Đạo sư của mình là đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Ngài vốn là vị Hoàng tử của nước Ca Tỳ La Vệ (Kapila-vastu), là người con duy nhất của vua Tịnh Phạn (Śuddhodana). Do đó tương truyền, khi chưa xuất gia Ngài sống được hầu hạ nuông chiều trong hoàng cung. Mùa đông thì có cung điện ấm áp cho mùa đông, mùa hè thì cũng có cung điện mát mẻ cho mùa hè, cung phi mỹ nữ, ca múa, tiệc tùng vô số kể. Trải qua một thời gian hưởng thụ, tự Ngài cảm thấy trong ấy vẫn ẩn tàng những mầm mống khổ đau không những chỉ cho người mà ngay cả cho chính mình, cho Hoàng cung và quốc gia. Quả quyết sự hưởng thụ đó không phải là loại hạnh phúc chân thật, cho nên vào năm 29 tuổi (Bắc truyền cho là 19 tuổi) Ngài quyết định từ bỏ lối sống hưởng thụ đó xuất gia tìm cầu giác ngộ và giải thoát.
Theo ‘Kinh Thánh Cầu’ (Ariyapariyesanasuttam) trong “Kinh Trung Bộ” tập 1 ghi rằng, sau khi đức Thế Tôn từ bỏ gia đình, xuất gia học đạo, trong 6 năm đầu tiên đó Ngài đã theo tu học pháp tu khổ hạnh với hai vị đạo sư danh tiếng đương thời là Alara Kalama và Uddaka Ramaputta, Ngài siêng năng nổ lực thực tập khổ hạnh, nhịn ăn uống, cho đến một ngày chỉ ăn một hạt mè, thân thể Ngài gầy còm, chỉ còn da bọc xương, Ngài đã chứng ngộ quả vị cao nhất mà hai vị đạo sư này tuyên bố, thế nhưng, Ngài cảm thấy sự khổ hạnh không ích gì, không liên hệ gì đối với đời sống xuất gia, nó cũng không giải quyết được nổi khổ của con người, cho nên Ngài quyết định từ bỏ phương pháp tu tập khổ hạnh, sau khi từ bỏ nơi tu tập khổ hạnh, trên đường đi đến dòng sông Ni Liên Thiền, Ngài thọ nhận bát sữa từ sự cúng dường của người chăn cừu, Ngài cảm thấy thân thể khỏe dần và tinh thần minh mẫn, chính sự kiện này đã giúp Ngài tuyên bố phương pháp tu tập của Ngài là con đường Trung đạo, tránh hai cực đoan hưởng thọ dục vọng và hành khổ hạnh. Như Ngài đã đề cập trong nhiều kinh trong A hàm cũng như Nikˆya, cụ thể là ‘Kinh Vô Tránh Phân Biệt’ trong “Kinh Trung Bộ” tập 3, được ghi như sau:
“Chớ có hành trì dục lạc, hå liệt, đê tiện, phàm phu, không xứng bậc Thánh, không liên hệ mục đích. Và cũng không nên hành trì tự kỷ khổ hạnh, đau khổ, không xứng bậc Thánh, không liên hệ mục đích. Từ bỏ hai cực đoan ấy, có con đường Trung đạo đã được Như Lai giác ngộ, tác thành mắt, tác thành trí, đưa đến an tịnh, thắng trí, giác ngộ, Niết-bàn.”1
Nội dung đoạn kinh vừa dẫn, đức Phật khuyên các vị Tỷ kheo hay nói đúng hơn là cho tất cả mọi người không nên rơi vào hai cực đoan là sống đời sống buông thả hưởng thụ hay sống khổ hạnh ép xác. Theo Ngài hai lối sống này không mang lại lợi ích cho mình cho người. Thế nào là đời sống buông thả hưởng thụ dục vọng ? Để cho vần đề được hiểu rõ ràng, chúng thử tìm hiểu phái duy vật của ông Ajita Kesa Kambala, là một trong 6 phái triết học. Chủ trương của phái này được ghi trong “Kinh Tạp A hàm” số 154 như sau:
“Do có cái gì, do khởi cái gì, do hệ lụy cái gì, do đắm đuối cái gì, do thấy ngã nơi cái gì, khiến cho chúng sanh thấy như vầy, nói như vầy: ‘Không có bố thí, không hội tế, không có chú thuyết, không có nghiệp báo đường lành, đường ác, không có đời này, không có đời khác, không có cha mẹ, không có chúng sanh, không có thế gian, trong thế gian không có A-la-hán, không có bậc chánh hành, chánh hướng để đời này hay đời sau…”2
Ajita Kesa Kambala là vị tổ sư của phái Duy vật, còn có tên là Thuận Thế, cho rằng 4 đại: địa, thủy, hỏa, phong là những nhân tố tồn tại độc lập, con người và thế giới do 4 đại này hình thành. Phủ định sự tồn tại của linh hồn hay ngã, chết là hết, tứ đại trả về cho tứ đại, ngoài 4 yếu tố này chẳng còn gì. Do vậy, mục đích sống của con người là truy tìm những khoái lạc, và bằng mọi cách tận hưởng những khoái lạc đó, ngay khi mình còn sống, để khỏi hối hận về sau. Với quan điểm tư tưởng như vậy, cho nên ông ta đã chủ trương phủ nhận mọi giá trị đạo đức, cho rằng: Không có bố thí, không có nghiệp báo đường lành, đường ác, không có đời này, không có đời khác, không, thậm chí không có đạo lý mẹ cha luân thường vợ chồng con cái, không có nhân, không có quả….mọi việc sẽ chấm dứt sau khi chết, cho nên cuộc sống này cứ tha hồ hưởng lạc, thâm chí lạc đó được người đời gọi là bất chính, cướp của hay giết người, cướp giật vợ người…
Theo đức Phật, quan điểm sống và cách hưởng thụ như vậy, thật ra không có hạnh phúc, hơn nữa điều đó không những nguy hiểm cho chính mình mà còn gây nguy hiểm cho xã hội, dự phần phiền não, không mang lại sự giác ngộ và giải thoát, cho nên đức Phật khuyên các Tỷ kheo nên từ bỏ lối sống này. Tuy nhiên Ngài không phủ nhận giá trị của vật chất. Như được trình bày trong “Kinh Tạp A hàm” Kinh số 912 như sau:
“Này thôn trưởng, có ba hạng người thích hưởng thụ dục lạc, thuộc hàng phàm phu, tục tử, quê mùa thấp kém…
“Này thôn trưởng, những gì là ba hạng người thích hưởng thụ dục lạc, thuộc hàng phàm phu tục tử quê mùa thấp kém ? Là có kẻ hưởng thụ dục lạc bằng cách lạm chiếm một cách bất hợp pháp, không mang lại an vui cho chính mình, cũng chẳng phụng dưỡng cha mẹ, cung cấp đầy đủ cho anh em, vợ con, kẻ ở, bà con quyến thuộc, bạn bè quen biết; cũng không tùy thời cúng dường cho Sa-môn, Bà-la-môn, để cầu quả báo an lạc nơi tốt đẹp, mong đời sau sanh lên cõi trời. Đó gọi là hạng người thứ nhất hưởng thụ dục lạc ở thế gian.
“Lại nữa, này thôn trưởng, có kẻ hưởng thụ dục lạc bằng cách dùng pháp lạm chiếm tài vật một cách bất hợp pháp, để tự cung cấp mọi sự vui sướng cho chính mình, phụng dưỡng cho cha mẹ, cung cấp đầy đủ cho anh em, vợ con, kẻ làm, bà con quyến thuộc, bạn bè quen biết; nhưng không tùy thời cúng dường cho Sa-môn, Bà-la-môn, để cầu quả báo an lạc nơi tốt đẹp, mong đời sau sanh lên cõi trời. Đó gọi là hạng người thứ hai hưởng thụ dục lạc.
“Lại nữa, này thôn trưởng, có kẻ hưởng thụ dục lạc bằng cách dùng pháp tìm cầu tài vật chứ không bằng lạm chiếm để tự cung cấp mọi sự vui sướng cho chính mình, cung phụng cho cha mẹ, cung cấp đầy đủ cho anh em, vợ con, kẻ ở, bà con quyến thuộc, bạn bè quen biết, cũng tùy thời cúng dường cho Sa-môn, Bà-la-môn, để cầu quả báo an lạc nơi tốt đẹp, mong đời sau sanh lên cõi trời. Đó gọi là hạng người thứ ba hưởng thụ dục lạc”.3
Qua nội dung đoạn kinh vừa dẫn, đức Phật đề cập 3 hạng người hưởng thụ dục vọng: Thứ nhất, là hạng người bằng mọi cách chiếm đoạt tài sản của người khác rồi phung phí buông xả trong việc tiêu xài, phục vụ cho sự tham muốn của mình, không giúp đỡ chia xẻ cho vợ con, cha mẹ, anh em, người thân và ngay cả cũng không bố thí cúng dường cho các vị sa môn Bà la môn để mong cầu phước báo trong tương lai .Thứ hai, là hạng người cũng bằng bất chính lạm dụng chiếm đoạt tài sản của người khác.
Sau khi chiếm đoạt người ấy tiêu xài hưởng thụ vui sướng, phục vụ cho mình và cho gia đình mình, nhưng không cúng dường Sa môn, Bà la môn, để mong cầu phước báo trong tương lai. Thứ ba, là hạng người kiếm được tài sản không phải là sự chiếm đoạt bất chính, bằng sức lực của mình. Sau khi kiếm được tiền tài, người ấy hưởng thụ tài sản mà mình kiếm được, biết phân chia giúp đỡ cho vợ con, cha mẹ, anh chị em và người thân, đồng thời biết bố thí cúng dường cho Sa môn Bà la môn để mong cầu quả báo trong tương lai. Trong 3 hạng người hưởng thụ sử dụng tài vật này, đức Phật phê phán hạng người thứ nhất và tán thán hạng người thứ 3. Qua đó cho thấy đức Phật không chủ trương hưởng thụ một cách cực đoan, nhưng không đồng nghĩa tuyệt đối phản bác hưởng thụ tiêu xài vật chất, kiếm tiền hợp lý và tiêu xài hợp lý thì vẫn được đức Phật tán đồng. Tuy nhiên chúng ta cũng cần chú ý rằng, dẫu rằng tài sản mình kiếm được một cách hợp pháp, sử dụng đồng tiền đó hưởng thụ dục lạc một cách vô độ, cách hưởng thụ đó cũng không phù hợp với tinh thần thọ dụng vật chất trong đạo Phật, vì sao?
Vì theo quan điểm của đức Phật, hưởng thụ vật chất có hai tác dụng tốt và xấu: Nó được gọi là tốt và bổ ích chỉ khi nào thụ dụng hợp lý, giúp cho thân thể khỏe mạnh, không bịnh tật; ngược lại được gọi là xấu, vì chúng sẽ làm cho thân thể bịnh hoạn, không mạnh khỏe, ăn uống quá độ, dinh dưỡng quá cao mà thân thể không tiêu hóa được trở thành bịnh hoạn. Qua các nước phát triển dư thừa vật chất, chứng bịnh thuộc về ăn uống hưởng thụ rất nhiều, như các loại bịnh béo phì, mỡ trong máu… đều có nguồn gốc từ việc ăn uống hưởng thọ. Đây chính là ý nghĩa tại sao đức Phật phản bác cực đoan thứ nhất là đời sống hưởng thụ. Tuy nhiên đức Phật cũng không đồng tình với đời sống khổ hạnh, là đời sống đày đọa thân xác, không có lợi ích , như phái Kỳ Na giáo chủ trương. Đề cập đến lối tu khổ hạnh của phái này, như ‚’ ‘Tiểu Kinh Khổ Uẩn’ trong “Kinh Trung Bộ” tường thuật như sau:
“Này Mahànàma, một thời Ta ở tại Rajagaha (Vương Xá), trên núi Gijjhakuta (Linh Thứu). Lúc bấy giờ, rất nhiều Ni kiền Tử (Nigantha) tại sườn núi Isigili, trên Kalasila (Hắc Nham), đứng thẳng người, không chịu ngồi và cảm giác những cảm thọ thống thiết, khổ đau, khốc liệt, bén nhạy… “4
Đây là câu chuyện được chính mắt Thế Tôn trông thấy những vị Ni Kiền Tử tại sườn núi Isigili thực hành khổ hạnh, họ suốt ngày suốt đêm đứng thẳng người không ngồi hay nằm, hoặc nằm trên gai, nằm bên người chết hôi thối, không ăn không uống… chịu đựng những cảm thọ khổ đau khốc liệt. Với mục đích truy tìm sự giác ngộ và giải thoát. Như họ lý giải:
“Nigantha Nataputta – là bậc toàn tri, toàn kiến… Vị ấy nói như sau: Này các Nigantha, nếu xưa kia Người có làm ác nghiệp, hãy làm cho nghiệp ấy tiêu mòn bằng khổ hạnh khốc liệt này. Sự không làm ác nghiệp trong tương lai chính do sự hộ trì về thân, sự hộ trì về lời nói, sự hộ trì về ý ngay trong hiện tại, ở tại nơi đây. Như vậy chính nhờ sự thiêu đốt, sự chấm dứt các nghiệp quá khứ, sự không làm các nghiệp mới, mà không có sự tiếp tục trong tương lai. Do sự không tiếp tục trong tương lai, các nghiệp được diệt trừ; do nghiệp được diệt trừ, khổ được diệt trừ; do khổ được diệt trừ, cảm thọ được diệt trừ; do cảm thọ được diệt trừ, tất cả khổ đau sẽ được tiêu mòn…”5
Qua nội dung đoạn kinh vừa dẫn, vị Tổ sư của phái Ni Kiền Tử giải thích, muốn làm tiêu diệt các ác nghiệp trong quá khứ, bằng cách thực hành khổ hạnh, làm cho thân xác càng đau khổ khốc liệt bao nhiêu thì các nghiệp ác càng được tiêu mòn sớm. Sự làm tiêu mòn các ác nghiệp khiến cho thân thể được thanh tịnh, giác ngộ và giải thoát xuất hiện. Quan điểm diệt nghiệp này hoàn toàn khác với quan điểm diệt nghiệp của Phật giáo. Phật giáo cho rằng, trong 3 nghiệp, ý nghiệp là quan trọng nhất, thân có làm ác, miệng có nói lời ác, đều do ý chỉ đạo. Do vậy, nguồn gốc khổ đau phiền não của con người là do vô minh, muốn diệt trừ vô minh này, phải lấy minh tức trí tuệ , để chỉ đạo cho thân và miệng làm việc thiện nói năng hợp thời hợp lý, không phải là sự đày đọa hành hạ thân xác, nếu khổ hạnh mang lại sự giác ngộ giải thoát, thì những người tù khổ sai sẽ là người thành Phật giác ngộ giải thoát trước chúng ta.
Do vậy, phương pháp tu tập trong Phật giáo không phải là tu tập khổ hạnh, với đời sống vật chất vừa đủ, biết thiểu dục tri túc, và bằng mọi cách làm sống dậy Phật tánh, là chức năng trí tuệ của con người, khi chức năng này xuất hiện, nó là ngọn đuốc phá vỡ bóng tối vô minh, cắt đứt sợi giây phiền não. Thế nào là đời sống thiểu dục tri túc ? Là người biết hổ thẹn, biết vị trí và khả năng của mình, những nhu cầu cần thiết không thể thiếu cho người xuất gia vừa đủ không thiếu thốn là được, sống không đua đòi, không phải là người muốn hết cái này rồi lại muốn cái khác. Mức độ đủ như thế nào đều tùy thuộc vào mỗi người, tùy thuộc vào hoàn cảnh sống xã hội, cho nên không lấy một nguyên tắc nào làm tiêu chuẩn cho sự biết đủ.
Tóm lại, sự hưởng thụ dục vọng quá độ là một cực đoan; ngược lại lối sống khổ hạnh, đọa đày thân xác cũng là một cực đoan, cả hai lối sống này không mang lại lợi ích cho mình cho người khác, dự phần phiền não, mang lại khổ đau…, cho nên đức Phật khuyên chúng ta nên tránh xa hai cực đoan đó, và nên sống đời sống Trung đạo, tức là cuộc sống không cực đoan quá thiên về hưởng thự hay thiên về khổ hạnh. Đây là ý nghĩa về khái niệm Trung đạo được đức Phật phát hiện và tuyên bố sau khi Ngài trải qua hai lối sống hưởng thụ vật dục và thực hành khổ hạnh. Đây cũng chính là lý do tại sao Ngài định nghĩa Trung đạo là con đường Bát chánh đạo (S. îryŒ•ÊŒvgika-mŒrga, P. Ariya aÊÊhaºgika magga), như được Ngài trình bày trong ‘Kinh Câu Lâu Sấu Vô Tránh’ trong “Kinh Trung A hàm” như sau:
“ Xa lìa hai cực đoan này thì có trung đạo, tác thành con mắt, tác thành trí tự tại, tác thành định, đưa đến trí, đưa đến giác ngộ, đưa đến Niết-bàn’. Vấn đề này được nói lên với những nguyên nhân nào ? Ở đây, Thánh đạo tám chi, từ chánh kiến cho đến chánh định, gọi là tám. Do bởi sự kiện này mà nói: Xa lìa hai cực đoan này thì có trung đạo, tác thành con mắt, tác thành trí tự tại, tác thành định, đưa đến trí, đưa đến giác ngộ, đưa đến Niết-bàn.”6
Ngay cả trong ‘Phẩm Chuyển Pháp Luân’ trong “Kinh Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm” cũng giải thích Trung đạo là con đường ‘Bát Chánh Đạo’ như sau:
“Phật dạy các Tỷ kheo…các ông cần phải biết, người xuất gia có hai loại chướng ngại. Cái gì gọi là hai? Một là tâm đắm trước vào cảnh dục, khó có thể thoát ly cảnh này, đây là hạng người phàm phu vô tri hạ liệt, không phải là cảnh để bậc Thánh để mắt, vì nó chẳng phải là nhân của giải thoát, chẳng phải là nhân mang lại sự ly dục, chẳng phải nhân dẫn đến thần thông, chẳng phải nhân thành Phật, cũng chẳng phải nhân dẫn đến Niết bàn. Hai là người không chân chánh tư duy sẽ mang lại khổ não tự thân, không những chỉ khổ trong quá khứ mà còn phải chịu khổ quả ở hiện tại và tương lai. Do vậy, các Tỷ kheo cần phải từ bỏ hai loại này. Ta nay vì các ông nói pháp Trung đạo, các Tỷ kheo cần phải lắng nghe. Cái gì gọi là Trung đạo? Chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm và chánh định”7
Chúng ta thử đặt vấn đề: Tại sao con người lại rơi vào hai lối sống cực đoan: buông thả trong việc hưởng thụ vật dục và đày đọa thân mình bằng lối tu khổ hạnh? Một cách nghiêm túc tìm hiểu nguyên nhân, chúng phát sinh từ vô minh (avidyŒ), do vô minh không nhận biết được việc đúng sai, phải quấy, chánh tà, cho nên cho việc đúng là sai, cho việc sai là đúng, thực hành pháp không nên thực hành, không thực hành pháp đáng được thực hành, dẫn đến phiền não khổ đau. Muốn chấm dứt vô minh này cần phải thắp sáng trí tuệ, được biểu hiện bằng con đường Bát chánh, tức là: 1. Chánh kiến (P. samma – ditthati), 2. Chánh tư duy (P. samma – sankappa), 3. Chánh ngữ (P. samma – vaca), 4. Chánh nghiệp (P. samma – kammanta), 5. Chánh mạng (P. samma – ajiva), 6. Chánh tinh tấn (P. samma – vayama), 7. Chánh niệm (P. samma – sati), 8. Chánh định (P. sammˆdhiti). Có nghĩa là khi con người sống bằng chánh kiến thì người ấy có sự suy nghĩ chân chánh; vì có suy nghĩ chân chánh cho nên nói lời chân chánh và việc làm cũng chân chánh, mạng sống cũng được chân chánh; cũng nhờ chánh kiến chánh tư duy này, cho nên sự nổ lực cố gắng của vị ấy cũng chân chánh, niệm cũng được chơn chánh, do niệm đã chân chánh, cho nên vị ấy sống và làm việc trong định; ai sống trong định thì người ấy có trí tuệ; người có trí tuệ là người biết việc đúng việc sai, việc thiện việc bất thiện, việc lợi mình lợi người, việc hại mình hại người, nhờ biết như vậy cho nên vị ấy không rơi vào hai cực đoan này. Đây chính là ý nghĩa được đức Phật định nghĩa Trung đạo là con đường ‘Bát Chánh Đạo’.
Một cách nghiêm túc mà nói, ý nghĩa của khái niệm Trung đạo này, nó có liên quan đến vật chất, đề cập trung đạo là đề cập đến hưởng thụ và khổ hạnh là hai cực đoan. Nhưng đây không phải là ý nghĩa duy nhất về lý thuyết Trung đạo, từ khái niệm này về sau diễn biến phát triển thành lý luận có không, thường đoån là hai cực đoan về tri kiến. Đây là điểm chúng ta cần chú ý. Ở mục hai phần dưới đây, chúng ta sẽ tìm hiểu về khái niệm như vừa đề cập.
(Còn tiếp)
Chú thích:
1. HT. Minh Châu dịch, “Kinh Trung Bộ” tập 3, Viện NCPHVN ấn hành, 2001, trang 528.
2. Thích Đức Thắng dịch, “Kinh Tạp A hàm” trong bộ “Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh” tập 5, Hội Văn Hóa Giáo Dục Linh Sơn Đài Bắc xuất bản, 2000, trang 747.
3. Thích Đức Thắng dịch, “Kinh Tạp A hàm” trong bộ “LSPBĐTK”, tập 6, HVHGDLSĐB xuất bản, năm 2000, trang 595.
4. HT. Minh Châu dịch, “Kinh Trung Bộ” tập 1, Viện NCPHVN ấn hành, năm 1992, trang 212.
5. HT. Minh Châu dịch, “Kinh Trung Bộ” tập 1, Viện NCPHVN ấn hành 1992, trang 213.
6. Thích Tuệ Sỹ dịch, “Kinh Trung A hàm” trong bộ “LSPBĐTK” tập 4, HVHGDLSĐB xuất bản, năm 200, trang 466.
7. 《方廣大莊嚴經》卷11〈26 轉法輪品〉:「佛告諸比丘…汝等應知,出家之人有二種障。何等為二 ? 一者、心著欲境而不能離,是下劣人,無識凡愚,非聖所行,不應道理,非解脫因,非離欲因,非神通因,非成佛因 ,非涅槃因。二者、不正思惟自苦其身而求出離過現未來皆受苦報。比丘汝等當捨如是二邊。我今為汝說於中道,汝 應諦聽常勤修習。何謂中道?正見、正思惟、正語、正業、正命、正精進、正念、正定。如是八法名為中道。」(CBETA, T03, no. 187, p. 607, b13-24).
8. Thích Tuệ Sỹ dịch, “Kinh Trung A hàm” trong bộ “LSPBĐTK” tập 4, HVHGDLSĐB xuất bản, năm 2000, trang 939.
9. HT. Minh Châu dịch, “Kinh Tương Ưng” tập 2, Viện NCPHVN ấn hành, năm 1993, trang 37.
10. 《大般涅槃經》卷25〈10 光明遍照高貴德王菩薩品〉:(CBETA, T12, no. 374, p. 516, b16-c2).
11. 《大般涅槃經》卷27〈11 師子吼菩薩品〉:「佛性者名第一義空,第一義空名為智慧。所言空者不見空與不空,智者見空及與不空,常與無常 苦之與樂、我與無我。空者一切生死,不空者謂大涅槃,乃至無我者即是生死,我者謂大涅槃。見一切空,不見不空 不名中道,乃至見一切無我,不見我者不名中道。中道者名為佛性,以是義故,佛性常恒無有變易。無明覆故令諸眾 生不能得見,聲聞緣覺見一切空不見不空。乃至見一切無我不見於我。以是義故。不得第一義空,不得第一義空故不 行中道。無中道故不見佛性。」(CBETA, T12, no. 374, p. 523, b11-c9).
12. 6 nhân (六因sad-hetavah): 1. Tương ưng nhân (相應因samprayukta-hetu)﹔2. Câu hữu nhân (俱有因sahabhè-hetu)﹔3. Đồng loại nhân (同類因sabbŒga-hetu)﹔4. Biến hành nhân (遍行因sarvatraga-hetu)﹔5. Dị Thục nhân (異熟因vipŒka-hetu)﹔6. Năng tác nhân (能作因kŒraöa-hetu); 4 duyên (四緣catvārah pratyayāh): 1. Nhân duyên (因緣hetu-pratyaya)﹔2. Đẳng vô gián duyên (等無間緣samanantara-pratyaya)﹔3. Sở duyên duyên (所緣緣Œlambana-pratyaya)﹔4. Tăng thượng duyên (增上緣adhipati-pratyaya).
13. 《大般涅槃經》卷23〈22 光明遍照高貴德王菩薩品〉:(CBETA, T12, no. 375, p. 760, b29-c6).
14. 《大智度論》卷6〈1 序品〉(CBETA, T25, no. 1509, p. 105, a5-10).
15. Lữ Trưng, “Ấn Độ Phật Học Tư Tưởng Khái Luận” (印度佛學思想概論)Taipei, NXB Thiên Hoa, Trung Hoa dân quốc năm71, trang 97~98.
16. 姚秦.羅什譯《金剛般若波羅蜜經》卷1:(CBETA, T08, no. 235, p. 752, b28-29).
17. 《中論》卷4〈24 觀四諦品〉(CBETA, T30, no. 1564, p. 33, b11-14).
18. 《大智度論》卷26〈1 序品〉: (CBETA, T25, no. 1509, p. 253, c18-23).
19. 《大智度論》卷43〈9 集散品〉:(CBETA, T25, no. 1509, p. 370, a24-b9).
20. 《大般若波羅蜜多經》卷574:「舍利子!不可思議與五無間,皆住實際性無差別,無生無滅,無去無來,非因非果,非善非惡。」(CBETA, T07, no. 220, p. 967, b29-c2).
21. 《大般若波羅蜜多經》卷568〈4 法界品〉:「諸菩薩知無倒路,凡所示導不違眾根。為大乘人說無上道,不說獨覺及聲聞道,為獨覺人說獨覺道,不 說菩薩及聲聞道,為聲聞人說聲聞道,不說獨覺及菩薩道…」(CBETA, T07, no. 220, p. 933, a17-28).
22. Xin đọc Thích Hạnh Bình, “Y Pháp Bất Y Nhân” trong phần ‘Sáu Ba La Mật’, TP. Hồ Chí Minh, NXB Phương Đông, năm 2008.
Hits: 272