KHOA HỌC VỀ KINH NGHIỆM CẬN TỬ
TÁC GIẢ: GIDEON LITCHFIELD
Việt dịch: Võ Quân
Kinh nghiệm cận tử đã thu hút nhiều chú ý gần đây. Năm 2014, bộ phim Heaven Is for Real (Thiên đường có thật), kể về một cậu bé nhỏ nói với cha mẹ mình là cậu đã lên chơi ở thiên đường khi đang được phẫu thuật cấp cứu, đã đem về doanh thu đáng ngưỡng mộ $91 triệu tại Hoa Kỳ. Cuốn sách chuyển thể thành bộ phim xuất bản vào năm 2010, bán được khoảng 10 triệu bản và chiếm 206 tuần trong danh sách bán chạy nhất của New York Times. Hai cuốn sách mới đây do các bác sĩ viết – Proof of Heaven (Chứng cứ về Thiên đường) của Eben Alexander kể về kinh nghiệm cận tử ông đã trải qua khi bị hôn mê kéo dài một tuần do viêm màng não gây ra, và To Heaven and Back (Đến Thiên đường và trở về) của Mary C. Neal kể về kinh nghiệm cận tử của bà khi bị chìm dưới sông trong một tai nạn chèo thuyền – đã lần lượt dành 94 và 36 tuần trong danh sách bán chạy nhất. (Tác giả của The Boy Who Came Back From Heaven, xuất bản năm 2010, gần đây thừa nhận ông đã dựng lên toàn bộ câu chuyện).
Những câu chuyện trên cũng tương tự như những gì được kể trong hàng chục nếu không muốn nói là hàng trăm cuốn sách và hàng ngàn cuộc phỏng vấn với các “cận-tử-nhân” – cách họ tự gọi mình – trong vài thập kỷ qua. Mặc dù các chi tiết và mô tả khác nhau tùy theo mỗi nền văn hóa, nhưng nội dung tổng thể của các trải nghiệm lại giống nhau đáng kể. Kinh nghiệm cận tử ở phương Tây được nghiên cứu nhiều nhất. Nhiều người kể về cảm giác bay lơ lửng bên trên và nhìn thấy cảnh vật xung quanh cơ thể đã mất hết tri giác của mình; về khoản thời gian ở một cảnh giới khác rất xinh đẹp; gặp gỡ cấc đấng tâm linh (một số người gọi là thiên thần) và sự hiện diện đầy yêu thương mà một số người gọi là Chúa Trời; gặp mặt người thân hoặc bạn bè đã mất từ lâu; nhớ lại những cảnh vật từ cuộc sống của mình; cảm thấy gắn kết với tất cả sinh vật cũng như cảm giác tràn ngập trong tình yêu siêu việt; và cuối cùng có ai đó gọi tên, họ miễn cưỡng rời khỏi cõi giới huyền diệu trở vào lại cơ thể của mình. Nhiều cận-tử-nhân báo cáo rằng kinh nghiệm của họ không hề giống một giấc mơ hay ảo giác, họ thường mô tả là “thật hơn cả cuộc sống thực”. Sau đó, họ thay đổi sâu sắc, và thường gặp khó khăn trong việc hòa nhập trở lại cuộc sống hàng ngày. Một số bắt đầu thay đổi nghề nghiệp hoàn toàn hoặc rời bỏ vợ chồng của họ.
Theo thời gian, ngày càng xuất hiện nhiều tài liệu khoa học cố gắng giải thích kinh nghiệm cận tử là kết quả của thay đổi vật lý bên trong một bộ não bị căng thẳng hoặc đang chết dần. Các nguyên nhân được đưa ra bao gồm thiếu oxy, gây mê không hoàn toàn, và phản ứng hóa học thần kinh của cơ thể đối với chấn thương. Các cận-tử-nhân bác bỏ những giải thích này, cho rằng chúng không xác đáng. Theo họ thì khi xảy ra kinh nghiệm cận tử, các điều kiện y khoa khác nhau rất nhiều, không thể giải thích chung cho một hiện tượng phổ biến rộng rãi và nhất quán.
Các cuốn sách gần đây của hai bác sĩ Sam Parnia và Pim van Lommel mô tả các nghiên cứu đăng trên tạp chí chuyên ngành nhằm cố gắng xác định những gì xảy ra trong kinh nghiệm cận tử trong điều kiện thí nghiệm được kiểm soát. Vào tháng Mười, Parnia và các đồng nghiệp đã công bố kết quả nghiên cứu mới nhất này, khảo sát hơn 2.000 bệnh nhân bị ngưng tim. Và gần đây, Mary Neal và Eben Alexander xuất bản cuốn sách kể lại kinh nghiệm cận tử của mình, thu hút thêm nhiều sự quan tâm đối với quan điểm tâm linh của họ. Vài năm trước khi trải qua kinh nghiệm cận tử, Mary Neal phụ trách khoa phẫu thuật cột sống tại Đại học Southern California (hiện giờ bà làm việc tại phòng khám tư). Eben Alexander là nhà giải phẫu thần kinh dạy học và làm việc tại một số bệnh viện và trường y khoa uy tín, bao gồm Brigham and Women’s và Harvard.
Chính Alexander là người thực sự dựng nên những cọc nhọn khoa học. Ông nghiên cứu biểu đồ y khoa của mình, và kết luận ông đang ở trong tình trạng hôn mê sâu, bộ não của ông hoàn toàn ngưng hoạt động, và cách duy nhất để giải thích những gì ông cảm nhận và nhìn thấy được là linh hồn của ông đã thực sự tách rời khỏi cơ thể, du hành đến một thế giới khác, và ông cho rằng thiên thần, Chúa Trời, sự sống kiếp sau đều có thực như vậy.
Alexander đã không công bố những phát hiện y khoa liên quan đến bản thân trong bất kỳ tạp chí chuyên ngành nào. Một bài báo điều tra năm 2013 trong Esquire đã nghi vấn một số chi tiết trong câu chuyện của ông, trong đó có tuyên bố quan trọng là trải nghiệm của ông đã diễn ra trong khi não không có khả năng thực hiện bất kỳ hoạt động nào. Đối với những người hoài nghi thì câu chuyện của ông và gần đây, việc thừa nhận The Boy Who Came From Heaven chỉ là câu chuyện tạo dựng, cung cấp thêm chứng cứ để xếp kinh nghiệm cận tử ngang hàng với những vụ bắt cóc của người ngoài hành tinh, những quyền năng tâm linh, và hiện tượng poltergeists (linh hồn ồn ào), và những câu chuyện này giống như mớ cỏ khô của lang băm dùng đánh lừa những kẻ dốt nát và những người bị ám thị.
Tuy nhiên, ngay cả những người hoài nghi như vậy cũng hiếm khi buộc tội người trải nghiệm cận tử hư cấu câu chuyện của họ hoàn toàn. Mặc dù một số chuyện có thể bịa đặt, và không nghi ngờ là một số được thêm thắt khi kể lại, nhưng những câu chuyện này quá phong phú và cũng được ghi chép cẩn thận nên không thể bác bỏ hoàn toàn. Cũng khó mà bỏ qua các tường trình của những bác sĩ uy tín mà danh tiếng nghề nghiệp của họ có thể đảm bảo tính xác thực. Ngay cả khi thế giới bên kia là không có thật, thì cảm giác khi có mặt ở đó chắc chắn là thật.
Có điều gì đó khiến cho kinh nghiệm cận tử có tính hấp dẫn ở góc độ khoa học. Trong khi không thể tin vào một vụ bắt cóc của người ngoài hành tinh hoặc sự viếng thăm của một đấng tâm linh trừ khi bạn có trong tay công cụ thu thập chứng cứ, thì nhiều người đã trải qua kinh nghiệm cận tử khi bao quanh họ là một kho thiết bị đo đạc từng dấu hiệu riêng rẽ của cơ thể người.
Hơn nữa, khi công nghệ y khoa tiếp tục được cải tiến, nó đưa con người trở lại sự sống khi đã gần bờ vực của cái chết hơn bao giờ hết. Một số ít người may mắn bình phục hoàn toàn hoặc gần như hoàn toàn sau hàng giờ ngưng thở hoặc ngưng tim, bị chôn vùi trong tuyết hoặc chìm dưới nước lạnh. Bác sĩ phẫu thuật đôi khi cố ý tạo ra những điều kiện này, làm lạnh cơ thể hoặc làm ngưng tim của bệnh nhân để thực hiện những ca phẫu thuật phức tạp, nguy hiểm; gần đây, họ đã bắt đầu thử các kỹ thuật này trên nạn nhân bị chấn thương nặng, giữ bệnh nhân giữa trạng thái sống và chết cho đến khi chấn thương được chữa trị.
Tất cả những điều này khiến kinh nghiệm cận tử có lẽ là trải nghiệm tâm linh duy nhất mà chúng ta có cơ hội nghiên cứu một cách khoa học và thực sự triệt để. Nó cung cấp phương tiện để khám phá niềm tin cổ xưa của con người cho rằng chúng ta không chỉ là một mớ thịt sống. Và nó cho chúng ta ống kính nhìn vào hoạt động của ý thức, một trong những bí ẩn lớn nhất về sự tồn tại của con người, ngay cả đối với các nhà duy vật kiên định nhất.
Đó là cách bản thân tôi tìm thấy vào mùa hè năm ngoái ở Newport Beach, California, tại hội nghị thường niên của Hiệp hội Quốc tế Nghiên cứu Cận tử (IANDS), thành lập chính thức từ năm 1981. Tôi muốn biết: Điều gì khiến một người khởi sự tin rằng mình đã thực sự nhìn thấy phía bên kia? Tại sao phía bên kia của một người trông rất giống với rất nhiều người khác? Và có cách nào để khoa học hiểu được điều gì đang thực sự xảy ra?
Hội nghị có không khí gặp gỡ vui vẻ, thân mật; nhiều người đã biết rõ nhau trong nhiều năm. Khách tham dự đeo những dải ruy băng màu sắc khác nhau, mang những tiêu đề như DIỄN GIẢ, THAM LUẬN VIÊN, TÌNH NGUYỆN VIÊN, và đối với những người đã có kinh nghiệm cận tử là NGƯỜI TRẢI NGHIỆM. Chương trình bao gồm các nhóm thảo luận và hội thảo về tất cả mọi thứ, từ “Khoa học thần kinh nội khoa có thể học gì từ kinh nghiệm cận tử” đến “Vũ điệu sắp đặt thiêng liêng: Kiến tạo cơn lốc mở vào cõi thánh” và “Cùng quay về kiếp sống trước”.
Diễn văn khai mạc của Diane Corcoran, chủ tịch của hiệp hội, rõ ràng dành cho những thành viên mới; khán phòng chính, chứa khoảng 300 người, gần như im phắt. Bà bắt đầu với việc phác thảo nhiều tình huống đa dạng mà con người trải qua kinh nghiệm cận tử – “bị nhồi máu cơ tim, sắp chết đuối, điện giật, bệnh giai đoạn cuối, rối loạn tâm lý sau chiến tranh” – sau đó, bà mô tả các đặc điểm điển hình của kinh nghiệm. Bà nhắc đến Bruce Greyson, một trong những bác sĩ đầu tiên nghiên cứu nghiêm túc kinh nghiệm cận tử, và đã phát triển một thang đánh giá cường độ của kinh nghiệm dựa trên 16 yếu tố riêng biệt, chẳng hạn như cảm giác hân hoan, được gặp gỡ các đấng tâm linh, và cảm giác tách rời khỏi cơ thể. Thang đánh giá cho 0 đến 2 điểm đối với mỗi yếu tố, cho phép số điểm tối đa có thể có là 32. Số điểm từ 7 hoặc cao hơn được xem là kinh nghiệm cận tử, và theo một nghiên cứu, số điểm trung bình của những người báo cáo có kinh nghiệm cận tử là 15 điểm.
Tuy nhiên, Corcoran nhấn mạnh, những ảnh hưởng lâu dài của kinh nghiệm cận tử cũng là một chỉ báo quan trọng như chính bản thân kinh nghiệm đó. Theo bà, nhiều người hàng năm trời không nhận ra họ đã trải qua kinh nghiệm cận tử, và xâu chuỗi lại câu chuyện chỉ sau khi họ nhận thấy những ảnh hưởng. Chúng bao gồm những dấu hiệu như nhạy cảm với ánh sáng, âm thanh, và một số hóa chất; trở nên hào phóng và quan tâm người khác nhiều hơn, đôi khi là thái quá; gặp rắc rối với giờ giấc và tiền bạc; cảm thấy có tình yêu vô điều kiện với tất cả mọi người, mà điều đó có thể trở thành áp lực đối với người thân và bạn bè; và có hiệu ứng kỳ lạ đối với các thiết bị điện. Corcoran kể lại, tại một hội nghị của cận-tử-nhân, hệ thống máy tính của khách sạn đã bị tắt. Bà nói: “Bạn đặt 400 người trải nghiệm cận tử trong một khách sạn với nhau, sẽ có điều gì đó xảy ra”. Khán giả cười khúc khích tán đồng.
Bản thân Corcoran đeo hai phù hiệu tên. Một cho biết tên của bà và kéo phía sau một dải ruy băng nhiều màu sắc giống như một màn sáo cửa sổ không được kéo lên, ghi những dòng chữ: 35 NĂM, XÃ HỘI KẾ THỪA, HỎI TÔI, và Ở ĐÂY ĐỂ PHỤC VỤ. (Bà kể với tôi về việc thêm các dải ruy băng ở mỗi hội nghị: “Nó bắt đầu như một câu chuyện đùa, và nó đã trở thành một truyền thống”). Phù hiệu còn lại ghi VỊ ĐẠI TÁ: sự nghiệp lâu năm của bà trải qua một loạt vị trí điều dưỡng cao cấp trong Tập đoàn điều dưỡng quân y (bà có học vị tiến sĩ quản lý điều dưỡng). Lần đầu tiên bà trải qua kinh nghiệm cận tử khi còn là một y tá cấp thấp phục vụ tại Long Bình, căn cứ quân sự lớn nhất ở Việt Nam, vào năm 1969.
“Không ai nói về chúng“, Corcoran nói khi chúng tôi gặp nhau trong bữa ăn sáng. “Một người đàn ông trẻ kể với tôi [về kinh nghiệm cận tử] và tôi không hiểu những gì ông kể, nhưng tôi có thể thấy được những cảm xúc và mức độ xúc động ở ông”. Kể từ đó, bà đã cố gắng dùng các hiểu biết y khoa để xem xét kinh nghiệm cận tử nghiêm túc hơn. “Không thể bắt đầu từ cái chết và quá trình chết, dù hầu hết các bác sĩ đều quen thuộc những vấn đề này”, bà nhận thấy một cách mỉa mai. “Vì vậy, khi bạn bắt đầu nói về hiện tượng rời khỏi cơ thể của mình và nhìn thấy, nghe thấy sự vật, thì lúc đó câu chuyện của bạn khó mà hiểu được“.
Gần đây, dù với nhiều khó khăn, bà đã cố gắng tìm gặp những cựu binh trong cuộc chiến Iraq và Afghanistan, những người sẵn sàng nói về bất cứ kinh nghiệm cận tử nào họ có thể đã có. “Khi làm việc trong quân y, tôi đã luôn cương quyết có ý kiến rằng chuyện này là vấn đề y khoa. Tôi nói [với các bác sĩ], họ có thể có quan điểm riêng, nhưng có rất nhiều bệnh nhân đã trải qua kinh nghiệm này, và nếu bạn đang chăm sóc họ, bạn cần phải có thông tin này”.
Các tài liệu viết về kinh nghiệm cận tử – hoặc những gì giống như vậy – được ghi chép ít nhất là từ thời Trung Cổ, và một số nhà nghiên cứu nói rằng từ thời cổ đại. Tạp chí y khoa Resuscitation (Hồi sức) vừa công bố một tài liệu ngắn gọn về các mô tả y khoa được biết đến lâu đời nhất về kinh nghiệm cận tử, do một bác sĩ quân y người Pháp viết vào thế kỷ 18. Những nghiên cứu hiện đại về kinh nghiệm cận tử được cho là đã bắt đầu vào năm 1975. Đó là năm Raymond A. Moody Jr., một nhà triết học sau này trở thành bác sĩ tâm thần, công bố cuốn sách Life After Life (Cuộc sống sau khi chết), một nghiên cứu dựa trên các cuộc phỏng vấn với khoảng 50 người trải nghiệm cận tử.
Cuốn sách của Moody khởi đầu cho sự xuất hiện đều đặn các cuốn hồi ký, chương trình truyền hình, và các bài báo. Kể từ đó, một cộng đồng nhỏ ra đời, bao gồm các nhà tâm thần học, tâm lý học, bác sĩ tim mạch, và các chuyên gia khác. Họ chia sẻ niềm tin của Moody cho rằng ý thức – tâm thức, linh hồn, có thể gọi bằng bất cứ tên gì bạn muốn – có thể tồn tại trong một hình thức phi vật chất nào đó, độc lập nhưng liên hệ chặt chẽ với bộ não, và kinh nghiệm cận tử có thể cung cấp bằng chứng cho điều này. Các thành viên hàng đầu của nhóm này đều có sự nghiệp lỗi lạc tại các trường đại học và bệnh viện danh tiếng. Họ viết lời giới thiệu cho các cuốn sách của các thành viên, và tổ chức các buổi nói chuyện về tâm linh và bản chất của ý thức.
Trong số những cuốn sách này, có lẽ tác phẩm độc lập có cái nhìn tổng quan tốt nhất là The Handbook of Near-Death Experiences: Thirty Years of Investigation (Sổ tay về kinh nghiệm cận tử: Ba mươi năm khảo cứu), một tuyển tập xuất bản vào năm 2009. Dựa trên những phát thảo của Cuốn sổ tay, đến năm 2005, hàng chục nghiên cứu khảo sát gần 3.500 đối tượng báo cáo trải qua kinh nghiệm cận tử đã trở thành tài liệu cho khoảng 600 bài báo khoa học. Nhiều bài được đăng trên Journal of Near-Death Studies (Tạp chí Nghiên cứu Cận tử), tạp chí của IANDS được hiệp hội tự hào là một tạp chí khoa học được bình duyệt (peer-reviewed). Nhưng nhiều bài báo khác được đăng trong các ấn phẩm y khoa chính thống. Vào tháng Hai, khi tìm kiếm trên PubMed, một cơ sở dữ liệu được quản lý bởi Thư viện Y khoa Quốc gia ( không bao gồm tạp chí của IANDS trong chỉ mục của thư viện), đã cho kết quả 240 bài báo nhắc đến các kinh nghiệm cận tử.
Hầu hết các nghiên cứu về kinh nghiệm cận tử mang tính hồi cứu, nghĩa là các nhà nghiên cứu tìm những người đã có kinh nghiệm cận tử để phỏng vấn. Việc này đặt ra một vài vấn đề về mặt khoa học. Các đối tượng đã tự sàn lọc, do đó có thể không mang tính đại diện. Ví dụ, một người có kinh nghiệm cận tử đáng sợ có thể ít hào hứng kể lại chuyện của họ so với những người có kinh nghiệm thú vị. (Một trong các lập luận cho rằng vì sao kinh nghiệm cận tử không phải là ảo giác tạo ra từ bộ não đang chết là vì có quá nhiều câu chuyện có cùng đặc điểm tương tự nhau. Nhưng đáng chú ý là, trong khi một số nghiên cứu chỉ báo cáo những kinh nghiệm tích cực nổi tiếng, thì những kinh nghiệm cận tử khó chịu lại chiếm đến 23% trong các báo cáo của cả chục nghiên cứu khác nhau. Chúng được chú ý ít hơn nhiều, và chắc chắn không thể bán được nhiều sách). Hầu hết các cuộc phỏng vấn diễn ra hàng năm trời sau khi xảy ra kinh nghiệm cận tử, do đó những ký ức có thể đã bị sai lạc. Và quan trọng nhất, nghiên cứu hồi cứu hầu như không thể có được dữ liệu đáng tin cậy về những gì thực sự xảy ra với cơ thể và bộ não của các đối tượng trong khi họ cảm thấy linh hồn của họ ở nơi khác.
Đã có khoảng chục nghiên cứu tiền cứu được công bố, một số được thực hiện trong những năm gần đây. Trong các nghiên cứu này, các nhà nghiên cứu thường sắp xếp phỏng vấn càng sớm càng tốt từng bệnh nhân ngay sau khi họ vượt qua một ca cấp cứu y tế cụ thể nào đó tại bệnh viện (chẳng hạn như ngừng tim). Bệnh nhân được đặt những câu hỏi mở về những gì họ đã trải qua trong khi bác sĩ đang cố gắng hồi sinh họ. Nếu họ báo cáo bất cứ điều gì bất thường, các nhà nghiên sẽ cứu kiểm tra hồ sơ y tế của họ và tường trình của những người điều trị, tìm kiếm những gì có thể giải thích các trải nghiệm này hoặc có thể chứng tỏ bộ não của họ đã ngưng hoạt động vào thời điểm liên quan. Tổng cộng các nghiên cứu này đã thu thập kinh nghiệm cận tử của dưới 300 người.
Mục tiêu đối với những người tin rằng tâm thức thực sự rời khỏi cơ thể là tìm thấy trường hợp nào đó có thể xác nhận điều một nhà nghiên cứu nổi tiếng đã gọi là “nhận thức xác thật phi vật chất một cách minh bạch (apparently nonphysical veridical perception)” – nói cách khác là có một trải nghiệm trong đó bạn nhìn thấy hoặc nghe thấy những điều mà lẽ ra bạn không thể nhận thức được, nhưng sau này những điều đó lại được xác nhận đã thực sự xảy ra. (Xác thật có nghĩa là “không hão huyền”). Trải nghiệm thoát-khỏi-cơ-thể chỉ là một trong số 16 thành phần của kinh nghiệm cận tử trong thang đánh giá Greyson, và tỷ lệ người báo cáo có loại trải nghiệm này thay đổi trong các nghiên cứu khác nhau.
Là giai đoạn duy nhất trong kinh nghiệm cận tử liên quan đến việc nhận thức thế giới mang tính vật lý hơn là tính tâm linh, trải nghiệm thoát-khỏi-cơ-thể có nhiều tiềm năng nhất để thuyết phục những người hoài nghi. Nếu bạn có thể chứng minh rằng ai đó đã nhìn thấy hoặc nghe thấy những điều mà các nhà khoa học não bộ cho biết họ lẽ ra không thể nhìn hoặc nghe được, thì ở mức thấp nhất, bạn sẽ có được bằng chứng cho thấy sự hiểu biết của chúng ta về bộ não không đầy đủ như chúng ta nghĩ, và ở mức nhiều nhất, có được một dấu hiệu cho thấy tâm thức có thể tồn tại bên ngoài một cơ thể sống.
Các báo cáo về nhận thức xác thật có ý nghĩa tôtem (vật tổ) đối với cận-tử-nhân. Một trong những câu chuyện nổi tiếng nhất là về Maria, một công nhân nhập cư đã trải qua kinh nghiệm cận tử trong một cơn ngừng tim tại một bệnh viện ở Seattle năm 1977. Sau đó, cô đã nói với nhân viên xã hội của mình là trong khi các bác sĩ đang hồi sinh cho cô, thì cô thấy mình đang bay lơ lửng bên ngoài bệnh viện, và thấy một chiếc giày quần vợt ở mép cửa sổ trên tầng ba, và chuyện này đã được cô mô tả một cách chi tiết. Nhân viên xã hội đã đi đến cửa sổ Maria chỉ, và không những tìm thấy chiếc giày, mà còn cho biết không có cách nào Maria có thể nhìn thấy một cách chi tiết từ trong phòng bệnh của cô về cách thức chiếc giày được đặt.
Người nhân viên xã hội đó, Kimberly Clark Sharp, bây giờ khoảng 60 tuổi, vui vẻ, có mái tóc quăn, là nhân viên báo chí không chính thức của tôi trong hội nghị. Bà và câu chuyện của bà trở nên thân quen tại IANDS; Tôi nghe một số người nhắc đến “vụ chiếc giày của Maria” hoặc đơn giản là “vụ chiếc giày quần vợt”.
Trong khi chiếc giày của Maria chắc chắn làm nên câu chuyện hấp dẫn, nhưng về mặt chứng cứ thì lại mong manh. Một vài năm sau khi được điều trị, Maria đã biến mất, và không ai tìm thấy cô để tiếp tục xác nhận câu chuyện của cô.
Một trường hợp có bằng chứng nhiều hơn là của Pam Reynolds, một ca sĩ-nhạc sĩ. Năm 1991, Reynolds, lúc đó 35 tuổi, trải qua ca phẫu thuật để loại bỏ chứng phình động mạch lớn ở mặt trong vỏ não. Lo lắng động mạch bị phình có thể vỡ gây tử vong trong khi phẫu thuật, bác sĩ đã đưa ra lựa chọn táo bạo “ngừng tim và giảm nhiệt (hypothermic cardiac arrest)” – làm lạnh cơ thể của cô đến 60 độ F (khoảng 15,6 độ C), ngừng hoạt động tim, và thoát máu từ vùng đầu. Việc làm lạnh sẽ ngăn các tế bào không bị chết trong khi thiếu oxy. Khi bác sĩ cho tim hoạt động trở lại và làm ấm cơ thể, cô sẽ trở lại bình thường.
Để đảm bảo chắc chắn là não của Reynolds hoàn toàn không hoạt động trong khi phẫu thuật, đội ngũ y tế đặt những chiếc loa nhỏ vào tai cô, phát ra tiếng lách tách rất nhanh và liên tục ở mức 100 decibel – mức âm thanh được mô tả là tương đương với tiếng máy cắt cỏ hoặc tiếng búa khoan. Nếu bất kỳ phần ý thức nào đang hoạt động, tiếng lách tách dai dẳng sẽ hiển thị thành các tín hiệu điện ở thân não, mà các bác sĩ đang theo dõi trên điện não đồ.
Thông tin trên điện não đồ xác nhận rằng trong một vài phút, cả não và cơ thể của Reynolds thật sự chết. Tuy nhiên, sau khi phẫu thuật, cô cho biết đã trải qua một kinh nghiệm cận tử mạnh mẽ, trong đó có trải nghiệm thoát-khỏi-cơ–thể, và kể lại chính xác một số chi tiết về những gì đang diễn ra trong phòng phẫu thuật, chẳng hạn như hình dạng của máy cưa xương được sử dụng trên hộp sọ của cô, các đoạn hội thoại của nhân viên y tế, và việc các nhân viên – lúc đó cô nghĩ là không được thích hợp lắm – đang nghe bài hát “Hotel California” (“You can check out any time you like, but you can never leave”). Đối với cộng đồng kinh nghiệm cận tử, Reynolds là ví dụ tiêu biểu nhất.
Nhưng không có một nhận thức xác thật nào của Reynolds đã xảy ra trong khi điện não đồ của cô thể hiện một đường thẳng phẳng lì. Tất cả xảy ra trước hoặc sau đó, khi cô đã được gây mê nhưng vẫn còn trong trạng thái nhận biết sống động. “Nhận thức trong lúc gây mê (Anesthesia awareness)” thường xảy ra với tỷ lệ 1 trên 1.000 bệnh nhân. (Xem “Awakening”, của Joshua Lang, Tháng Một/Tháng Hai 2013 trên Atlantic.) Do đó, có nhiều hoài nghi là Reynolds có thể đã nghe những đoạn hội thoại trước đó; cô có thể suy diễn một số điều về máy cưa xương từ tiếng ồn nó tạo ra hay tiếng rung trên hộp sọ của cô; và cô có thể đã xây dựng lại một số ký ức sai lệch từ những chi tiết mà cô nhận thấy trước hoặc sau khi phẫu thuật.
Năm 2011, một năm sau khi Reynolds qua đời (do suy tim), Tạp chí Nghiên cứu Cận tử dành nguyên một số phát hành đăng tải cuộc tranh luận về trường hợp của cô, trong đó một người hoài nghi và hai người tin thật tranh cãi về những chi tiết nhỏ như khoản thời gian của tiếng ồn do chiếc loa phát ra trong tai cô, cách thức xương tạo ra âm thanh, và các thuyết bí truyền về cách thức một tâm thức phi vật chất có thể cảm nhận một cách chính xác các kích thích vật lý. Đúc kết lại, Janice Miner Holden, biên tập viên của tạp chí, kết luận rằng trường hợp như Reynolds “cung cấp dữ liệu không hoàn hảo mà có lẽ không bao giờ có thể dẫn đến chứng cứ dứt khoát.”
Các trường hợp khác liên quan đến nhận thức minh bạch xác thật đều thú vị, nhưng ngạc nhiên là số lượng lại ít ỏi. Để viết một chương trong cuốn The Handbook of Near-Death Experiences, Holden đã lùng sục các tài liệu tìm kiếm những câu chuyện như vậy. Bỏ qua các nguồn như các cuốn hồi ký cá nhân xuất bản sau cuốn sách năm 1975 của Raymond Moody, và tập trung chủ yếu vào các sách xuất bản trước 1975 và các nghiên cứu có tính hệ thống của các nhà nghiên cứu và bác sĩ, bà đã thu thập được khoảng 100 báo cáo về nhận thức minh bạch xác thật khi xảy ra kinh nghiệm cận tử. Chỉ có 35 báo cáo có tường trình về các chi tiết mà các tác giả có thể xác minh là hoàn toàn chính xác từ một nguồn khác bên cạnh nguồn là người trải nghiệm. Đã không có một kết luận riêng rẽ nào mang tính triệt để – một trường hợp hoàn toàn không thể tranh cãi về việc một người nhìn thấy điều gì đó mà chỉ có một thần thức không bị ràng buộc trong cơ thể mới có thể nhìn thấy.
Để có được chứng cứ về trạng thái ý thức khi lìa khỏi cơ thể mà có thể làm thỏa mãn một nhà khoa học, bạn cần có phương thức nghiên cứu hiệu quả. Hóa ra nó không khó để xây dựng phương thức như vậy. Trong Cuốn sổ tay, Janice Holden đã phát thảo:
Tại nơi có khả năng xảy ra kinh nghiệm cận tử, sắp đặt một đối tượng kích thích giác quan, và sau đó phỏng vấn tất cả những người sống sót sau một biến cố sắp chết trong vùng lân cận của kích thích đó để xác định xem họ có cảm nhận kích thích đó hay không… Sắp đặt các đối tượng sao cho chỉ có cận-tử-nhân mới có thể cảm nhận được, còn những người khác trong khu vực thì không thể; trong thực tế, để loại trừ khả năng người phỏng vấn hoặc những người khác có thể cố ý hoặc vô ý truyền đạt nội dung của kích thích cho cận-tử-nhân thông qua các phương tiện bình thường, hoặc thậm chí là các phương tiện huyền bí, chúng ta sắp đặt các kích thích sao cho thậm chí nhóm nghiên cứu hoặc nhóm hỗ trợ cũng không biết được.
Cho đến nay, có sáu nghiên cứu đã thử áp dụng một hình thức nào đó trong phương pháp này, chủ yếu là trên các bệnh nhân bị ngưng tim, và tất cả đã không tìm thấy một trường hợp vững chắc nào về nhận thức xác thật. Trong các nghiên cứu này, người ta sắp đặt một số kích thích, chẳng như một hình ảnh hoặc một biểu tượng trên một mảnh giấy hoặc một màn hình hiển thị điện tử ở một vị trí cao, mà chỉ khi nào bay lên gần trần nhà mới nhìn thấy được. Các nhà thiết kế nghiên cứu đã cố gắng hết sức để đảm bảo rằng không ai – bao gồm bác sĩ, y tá, bệnh nhân, những người phỏng vấn bệnh nhân sau đó – biết được đối tượng kích thích là gì cho đến khi cuộc phỏng vấn kết thúc. (Holden cho biết yêu cầu nhân viên bệnh viện tuân theo phương thức này không phải lúc nào cũng dễ dàng).
Mới nhất và lớn nhất là nghiên cứu có tên Nhận Thức (Aware), dẫn đầu bởi Sam Parnia của trường Đại học bang New York tại Stony Brook, được công bố trên tạp chí Resuscitation tháng 10 năm ngoái. Trong đó, 15 bệnh viện tham gia tại Hoa Kỳ, Vương quốc Anh, và Áo lắp đặt các kệ chứa một loạt hình ảnh tại những phòng mà có khả năng tại đó sẽ thực hiện hồi sức cho bệnh nhân bị ngưng tim.
Các kết quả của nghiên cứu Nhận Thức ngay lập tức làm nổi bật vấn đề chủ chốt của loại nghiên cứu này: rất khó khăn để có đủ dữ liệu. Hơn bốn năm, nghiên cứu ghi chép tổng cộng 2.060 ca ngừng tim. (Số ca nhiều hơn, nhưng các nhà nghiên cứu không thể ghi lại tất cả). Trong số 330 bệnh nhân sống sót, 140 người được đánh giá đạt yêu cầu cho việc phỏng vấn và đã đồng ý tham gia. Rồi 101 người vượt qua cuộc phỏng vấn sàng lọc; những người khác không thể tiếp tục, “chủ yếu là do suy nhược”. Trong số 101 người, 9 trường hợp có trải nghiệm được xem là một kinh nghiệm cận tử theo thang đánh giá Greyson, và 2 trường hợp có trải nghiệm thoát-khỏi-cơ-thể. Trong 2 trường hợp này, 1 trường hợp trở nên quá suy nhược để phỏng vấn thêm. Chỉ còn lại một đối tượng có thể thuật lại những gì ông đã nhìn thấy một cách chi tiết.
Trường hợp còn lại nêu trên cũng thật thú vị. Bệnh nhân là một người đàn ông 57 tuổi, mô tả là đã bay lơ lửng tại một góc của căn phòng, nhìn thấy nhân viên y tế đang thao tác trên người ông, và thấy mình được khử rung tim (sốc điện). Theo tài liệu của Parnia, một vài chi tiết bệnh nhận mô tả đã kiểm chứng được. Hơn nữa, sau khi kiểm tra chéo các mô tả của bệnh nhân với hoạt động của máy khử rung tim, các nhà nghiên cứu nghĩ rằng ông có thể đã nhìn thấy những việc xảy ra trong khoảng ba phút sau khi tim ngừng hoạt động.
Nếu đúng như vậy thì rất đang lưu ý. Trên điện não đồ, não thường sẽ chết (đường não đồ thẳng) trong khoảng 20 giây khi tim ngừng hoạt động. Hồi sức tim và phổi tạo đủ lượng máu làm tế bào chết chậm lại, nhưng không đủ để bơm lên não. Không giống như bộ não của người được gây mê hoặc trong tình trạng hôn mê, não của bệnh nhân này lẽ ra đã hoàn toàn ngưng hoạt động cho đến khi tim bắt đầu đập trở lại.
Tuy nhiên, các bằng chứng thuyết phục vẫn khó đạt được. Mặc dù các bệnh viện tham gia trong nghiên cứu Nhận Thức lắp đặt khoảng 1.000 kệ với những hình ảnh đặc biệt tại các địa điểm khác nhau, chỉ có 22 % các ca ngừng tim xảy ra ở địa điểm có kệ đặt gần đó. Bệnh nhân sáng giá lại không phải là một trong số đó.
Ít ngạc nhiên là bên cạnh những câu chuyện về kinh nghiệm cận tử siêu việt, những người trải nghiệm thấy không thỏa mãn với những giải thích do khoa học cung cấp. Không thiếu các lý thuyết khoa học về nguyên nhân gây ra kinh nghiệm cận tử, nhưng chúng lại nhàm chán, không hấp dẫn, không đầy đủ so với những gì cận-tử-nhân nói đã xảy ra với họ.
Ví dụ, ai cũng hiểu rằng thiếu hụt oxy (hypoxia), thường gây ra bởi chứng ngưng tim, có thể dẫn đến mất phương hướng, nhầm lẫn, hoặc ảo giác. Trải nghiệm thoát-khỏi-cơ-thể có thể là do một trục trặc ở vùng tiếp giáp giữa thùy đỉnh và thùy thái dương (temporoparietal junction) – một phần của não hoạt động như bộ phận tích hợp dữ liệu từ các giác quan và các cơ quan, và đóng vai trò quan trọng trong việc sắp xếp chúng thành nhận thức chung của cơ thể người. Người ta cho rằng quá nhiều carbon dioxide (hypercarbia) có thể tạo ra cảm giác tách ra khỏi cơ thể hoặc ở trong một đường hầm (mặc dù không có nhiều bằng chứng về điều này). Chất hóa học thần kinh có thể đóng vai trò trong việc phát khởi ảo giác hoặc tạo cảm giác bình an. Và còn nhiều giải thích như vậy.
Nhiều bác sĩ đồng cảm với câu chuyện của những người trải nghiệm cận tử cũng không thiếu những lập luận bác bỏ những lời giải thích duy vật này. Sam Parnia, Pim van Lommel, và những người khác dành nhiều phần trong các cuốn sách của mình thể hiện sự bác bỏ này. Cuối cùng, họ đúc kết lại là những lời giải thích này có vẻ như hợp lý, nhưng lại không có bằng chứng nào cho thấy chúng thực sự giải thích những gì đang xảy ra. Nhiều kinh nghiệm cận tử xảy ra mà không có khoản này hoặc khoản kia trong các điều kiện có thể đo lường một cách khoa học như ở trên. Trong khi đó, những điều kiện như trên lại thường xảy ra mà không có một kinh nghiệm cận tử nào. Đơn giản là chưa có dữ liệu đầy đủ để xác lập mối tương quan như vậy, chứ chưa nói đến quan hệ nhân quả.
Hơn nữa, như thế nào được xem là có thể có đủ dữ liệu cũng thật khó, ít nhất là khi phương pháp thực nghiệm được dùng để xem xét hồ sơ của các ca ngưng tim. Nghiên cứu Nhận Thức của Parnia chỉ nêu lên 9 bệnh nhân có kinh nghiệm cận tử tại 15 bệnh viện trong 4 năm. Một nghiên cứu tiền cứu ở Slovenia công bố năm 2010 tìm thấy mối tương quan giữa kinh nghiệm cận tử và tình trạng dư thừa carbon dioxide ở các bệnh nhân nhồi máu cơ tim – nhưng lại không có mối tương quan với tình trạng thiếu hụt oxy; tuy nhiên chỉ có 52 bệnh nhân trong số lượng mẫu nghiên cứu, và chỉ có 11 người báo cáo là có kinh nghiệm cận tử.
Có một nghiên cứu khá mới mà nhóm duy vật dựa vào trong lập luận của họ. Một nghiên cứu tại Đại học Michigan, công bố năm 2013, thực hiện trên chuột bị gây mê và cho tim ngưng hoạt động. Trong 30 giây, tín hiệu điện não đồ của chuột phẳng lì – nhưng ở khoản đầu, tín hiệu tăng vọt với cường độ cho thấy các phần khác nhau của não bộ đang giao tiếp với nhau tích cực hơn nhiều so với khi chuột còn tỉnh táo.
Loại giao tiếp này được coi là một bước quan trọng trong nhận thức; trên thực tế, các vùng khác nhau của não bộ đang so sánh thông tin trên các kích thích chúng nhận được. Nếu con người trải qua tín hiệu điện não tăng vọt vào lúc chết giống như chuột, có thể là não đang co thắt tăng động thái quá lần cuối khi nguồn cung cấp oxy bị cắt đứt và não cố gắng tìm hiểu những gì đang xảy ra. Nếu đúng như vậy, thì mức hoạt động tăng cao có thể giải thích tại sao những người có kinh nghiệm cận tử báo cáo là những gì họ đã trải qua có vẻ thật hơn thế giới vật chất.
Nhưng một lần nữa, những giải thích có vẻ như xác đáng cũng không có nghĩa là thực đúng. Nếu các nhà nghiên cứu như Parnia có thể chỉ ra một cách thuyết phục rằng một bệnh nhân, như người đàn ông trong nghiên cứu Nhận Thưc đã đề cập ở trên, có thể lóe lên những nhận thức tỉnh táo một vài phút hoặc lâu hơn sau khi tim ngừng đập, thì toàn bộ cuộc tranh luận sẽ bùng phát trở lại. Còn bây giờ, tín hiệu não đồ tăng vọt vào lúc chết vẫn chỉ là một mảnh ghép rời rạc trong câu đố ghép hình về kinh nghiệm cận tử mà chúng ta chưa tìm ra được cách lắp ráp.
“Vậy thì, khoa học về kinh nghiệm cận tử sẽ đi tiếp về đâu?”, tôi đã hỏi Susan Blackmore, một nhà tâm lý học người Anh – có lẽ là người hoài nghi khoa học nổi tiếng nhất đối với các giải thích duy tâm về kinh nghiêm cận tử. Khi còn là thiếu phụ, bà đã trải nghiệm trạng thái thoát-khỏi-cơ-thể mạnh mẽ. Từ đó, bà bắt đầu nghiên cứu về các lời tuyên bố mang tính huyền bí, và dành phần lớn sự nghiệp của mình để giải thích chúng một cách khoa học.
Theo như Blackmore biết, bí ẩn phần lớn đã được giải quyết. Bà nói, chúng ta đều biết một bộ não tăng động thái quá dưới áp lực của cái chết gần kề có thể kích hoạt bất kỳ một hoặc tất cả các hiện tượng trên. Câu hỏi lớn còn lại, bà viết trong một e-mail, là:
“Chúng ta nhìn thấy tất cả các hiện tượng này một cách riêng biệt và tự phát – khi dùng các loại thuốc khác nhau, khi bị bệnh, và vân vân – nhưng trong kinh nghiệm cận tử, chúng có xu hướng diễn ra theo một thứ tự cụ thể. Tại sao lại như vậy? Chúng ta có thể đoán là nó có liên quan đến dòng hoạt động liên tục của các chất dẫn truyền thần kinh, hoặc có thể là cách thức lan truyền của trạng thái tăng động, hoặc là …? Tôi không biết câu trả lời nhưng tôi đoán chúng ta sẽ sớm tìm ra”.
Tôi nghĩ rằng câu trả lời khoa học cho câu hỏi của Blackmore – tại sao rất nhiều kinh nghiệm cận tử lại diễn ra theo một trình tự tương tự nhau – sẽ có ý nghĩa nhiều hơn so với việc hoàn tất câu đố về cách thức chúng xảy ra như thế nào. Nó cũng sẽ giúp chúng ta hiểu tại sao kinh nghiệm cận tử có tác động sâu sắc đối với những người trải nghiệm chúng. Một trong những diễn giả tại hội nghị, Alana Karran, huấn luyện viên điều hành một chương trình thiền tập có hướng dẫn của chuyên gia, mà những bài thiền tập đó truy ngược các bước xảy ra trong một kinh nghiệm cận tử điển hình, đã giúp tôi hiểu được ý nghĩa của trình tự đó. Cô cho biết trình tự đó tương tự như câu chuyện về cuộc hành trình của vị anh hùng, hoặc một bài ký thuật thám hiểm có kiểu cấu trúc mà nhà văn và nhà thần thoại học người Mỹ Joseph Campbell đã mô tả và đặt tên là “monomyth” vào năm 1949. Cuộc thám hiểm cần đến mọi hình thức kể chuyện, từ huyền thoại tôn giáo đến sử thi Hy Lạp đến bom tấn Hollywood đến hồi ký cá nhân. Trong cấu trúc này, nhân vật chính bị đẩy ra khỏi lối sống bình thường của mình do một biến động nào đó gây ra và – lúc đầu thường là miễn cưỡng, nhưng do sự thúc giục của một vị thầy hoặc một nhân vật thông thái nào đó – nhân vật bắt đầu cuộc hành trình tới một vùng đất xa lạ. Ở đó, anh ta đối mặt với các thử thách, chiến đấu với kẻ thù, hoài nghi lòng trung thành của bằng hữu và đồng minh, chống chọi với một thử thách tột độ, mấp mé trên bờ vực của thất bại hay cái chết, và cuối cùng trở về nơi anh đã bắt đầu, trong chiến thắng vẻ vang nhưng theo một phong thái đã được chuyển hóa.
Nhiều người trải qua kinh nghiệm cận tử theo một phiên bản nào đó của cấu trúc này. Trong Proof of Heaven, Eben Alexander mô tả kinh nghiệm của mình bắt đầu với việc ông bị mắc kẹt trong một nơi tối tăm, giống như một loại bùn nửa đục nửa trong hoặc là “món Jell-O bẩn” (Jell-O là thương hiệu của món thạch trái cây – ND), đầy rẫy những “mặt thú kỳ quái”, và sau đó cảm thấy ngột ngạt và sợ hãi khôn cùng. Cuối cùng, có cái gì đó kéo ông lên và đi vào “một thế giới đẹp nhất và kỳ lạ nhất mà tôi từng thấy” – một miền quê thơ mộng đẹp như tranh. Ở đó, ông gặp một cô gái xinh đẹp cưỡi trên cánh bướm, và nói là ông được “yêu thương và trân quý, tha thiết, mãi mãi”, rồi cùng đi với ông đến một khoảng trống tràn ngập ánh sáng, nơi ông gặp một vị thần đã mở ra cho ông nhiều bí mật về vũ trụ. Sau khi đi lại giữa hai cõi giới trong một khoản thời gian, vào lần cuối cùng ông rơi xuống lại vào nơi tối tăm mà ông bắt đầu, và lần này, các sinh vật kỳ quái đã được thay thế bởi khuôn mặt của những người đang cầu nguyện cho ông.
Hành trình của vị anh hùng là mô tuýp kể chuyện rất phổ biến (thực ra, một số người cho rằng Campbell hủy hoại nền giải trí hiện đại khi mô tả cách kể chuyện này) vì nó chứa đựng đầy khát vọng. Nó cho chúng ta một lối thoát, ra khỏi những gì đang kìm hãm mình, và chuyển hóa thành những điều tốt đẹp hơn.
Không ai tại hội nghị có thể nhân cách hóa niềm hy vọng về sự cứu chuộc và sự chuyển hóa hay hơn Jeff Olsen, một trong hai diễn giả chính. Câu chuyện của Olsen đau xé lòng, vốn đã được ông kể trong hai cuốn sách và trong các đoạn video khác nhau trên YouTube: Khi đang lái xe đưa gia đình trở về nhà từ kỳ nghỉ, bỗng xe của ông va đập mạnh do ông ngủ thiếp đi. Nằm trong đống đổ nát với lưng bị gãy, một cánh tay gần như bị xé nát, và một chân bị hủy hoại, ông vẫn đủ tỉnh táo để nhìn thấy cậu con trai 7 tuổi đang gào khóc, còn vợ và đứa con trai sơ sinh thì im phắt. Trong cuốn sách I Knew Their Hearts (Hiểu được nỗi lòng), ông viết, “Bạn sẽ nói gì đây với một người đàn ông cảm thấy phải chịu trách nhiệm về cái chết của nửa số người trong gia đình mình?”.
Câu trả lời, ít nhất nếu bạn là một đấng tâm linh – là “Con là toàn hảo; con là con trai của ta như bất cứ ai đã từng là; và con là bất khả xâm phạm”. Olsen kể lại đó là những gì ông đã nghe – hoặc cảm thấy, hoặc bằng cách nào đó được truyền đạt đến ông – khi chỉ còn là một “đống não” trong thời gian ông trải qua kinh nghiệm cận tử. Ông dường như thấy mình ở trong một căn phòng có một cái cũi, ôm đứa con đã chết. Khi ông bế đứa con lên, ông cảm thấy mình được bao bọc bởi một sự hiện diện đầy yêu thương mà ông biết đó là “đấng sáng tạo thiêng liêng” của mình.
Đây là điều then chốt làm cho kinh nghiệm cận tử mạnh mẽ như vậy, và khiến con người bám chặt vào chúng bất chấp bằng chứng khoa học. Cho dù bạn thực sự nhìn thấy một đấng thiêng liêng, hay bộ não của bạn chỉ đơn thuần tiết ra các chất hóa học không giống như trước đây bao giờ, trải nghiệm này mãnh liệt và mới mẻ đến nổi buộc bạn phải suy nghĩ lại về vị trí của mình trên Trái đất. Nếu kinh nghiệm cận tử xảy ra trong một bi kịch, thì nó giúp nhận diện được ý nghĩa của bi kịch đó và xây dựng lại cuộc sống của bạn. Nếu cuộc sống của bạn là cuộc tranh đấu với bệnh tật hoặc nỗi hoài nghi, thì kinh nghiệm cận tử sẽ đặt bạn trong một chiều hướng khác: Bạn gần như đã chết, nên phải thay đổi điều gì đó.
Và điều đó đưa chúng ta trở lại với câu hỏi của Susan Blackmore: Nếu kinh nghiệm cận tử chỉ là kết quả khi não bộ đang bị rối loạn, tại sao rất nhiều trải nghiệm đều theo một trình tự mà ngẫu nhiên lại tương tự với cấu trúc tường thuật cơ bản nhất (như mô tả ở trên)?
Dường như không có ai tại hội nghị nghĩ rằng kinh nghiệm cận tử chỉ là sản phẩm của quá trình vật lý trong não bộ. Tuy nhiên có một số người trình bày những bài nói chuyện hứa hẹn tiếp cận kinh nghiệm cận tử dưới góc độ khoa học.
Alan Hugenot là một kỹ sư cơ khí trung niên nhưng ông đi đứng và trò chuyện rất năng động mạnh mẽ, như thể ông khó có thể giữ cho mình không nảy bật ra khỏi các bức tường. Phần trình bày của ông được gọi là “Khoa học tiên phong về đời sống kiếp sau”. Thu hút khán giả thông qua sự kết hợp giữa vật lý hiện đại và thuyết huyền bí, ông kết luận rằng toàn bộ vũ trụ đều có ý thức, và điều này giúp giải thích cho cả kinh nghiệm cận tử lẫn những nghịch lý nhất định của lý thuyết lượng tử.
Là người có bằng cấp về vật lý, tôi biết rằng lý thuyết của Hugenot đầy lỗ hỗng, nhưng tôi cũng biết rằng ý tưởng cơ bản về ý thức vũ trụ không phải là điên rồ mà cũng không mới mẻ. Erwin Schrödinger, một trong những cha đẻ của vật lý lượng tử, là một học trò say mê triết học Ấn giáo, và cũng tin tưởng điều tương tự. Có một truyền thống lâu đời là các nhà khoa học hàng đầu thường nắm giữ những niềm tin tôn giáo và thần bí.
Nhưng họ trở thành nhà khoa là do họ biết và duy trì được sự phân biệt giữa các lý thuyết khoa học có thể kiểm chứng dựa trên các bằng chứng quan sát được và thuyết huyền bí hoặc sự suy đoán. Vì vậy, cuối bài nói chuyện của Hugenot, tôi yêu cầu ông cho tôi biết làm thế nào để kiểm chứng lý thuyết của ông. Lúc đầu ông không trả lời câu hỏi, nhưng cuối cùng nói rằng chúng ta có thể thiết kế được các thí nghiệm.
Tôi hỏi ông có thiết kế những thí nghiệm đó chưa.
“Không, tôi chưa có cơ hội để làm điều đó”.
Một nhân vật nghiêm trang hơn là Robert Mays, một vị giáo sư có bộ râu kiểu Sigmund Freud, đưa ra một lý thuyết chi tiết mà ông đã phát triển cùng với vợ mình là Suzanne. Mays đề xướng một ý thức phi vật chất – một “thực thể tâm trí” – có thể chỉ đạo bộ não vật lý, giống như Phù thủy xứ Oz (the Wizard of Oz) kéo đòn bẩy sau một bức màn. Mays nói giải thích này giải quyết được cả hai vấn đề là: cách thức mà một loạt các xung điện trong não trở thành cảm giác của ý thức, và những bí ẩn của kinh nghiệm cận tử.
Ít nhất là Mays trình bày rất cụ thể những tế bào não ông nghĩ rằng thực thể tâm trí tương tác với chúng để kiểm soát bộ não. Thậm chí, ông còn có một số ý tưởng mô tả thực thể tâm trí về mặt thể chất: “Một cấu trúc được biệt hóa tinh tế của lưỡng cực điện trường hoặc từ trường dao động rất nhỏ”. Khi tôi hỏi ông làm thế nào để kiểm tra thuyết của ông, ông nói rằng chúng ta có thể đo lường ảnh hưởng của “trường năng lượng tràn đầy (energetic filed)” của một người đối với “tế bào thần kinh sống trong ống nghiệm”. Sẽ tốt thôi, ngoại trừ ý tưởng của ông về trường năng lượng tràn đầy thì không nhà vật lý nào từng nhìn thấy.
Với những khác biệt trong phong cách và chủ đề, Mays, Hugenot, và những người khác đều đưa ra cái nhìn tương tự: Những giải thích rộng lớn và bao trùm nối kết những điều chúng ta biết là đúng với những điều chúng ta muốn là đúng, và mang lại hiểu biết về bản chất đối với vũ trụ. Rõ ràng là các cận-tử-nhân thấy cuốn hút với những giải thích như vậy.
Nhưng tại sao tại hội nghị lại có quá nhiều kháng cự đối với nền khoa học vốn vững chắc và mang tính thực tế? Khi dùng bữa sáng với Diane Corcoran, tôi hỏi bà tại sao không ai tại hội nghị có vẻ như thảo luận về quan điểm duy vật luận.
Bà nói: “Trong nhiều năm qua, chúng tôi đã tiến hành nghiên cứu và đã vượt qua điều đó”. “Luôn luôn có một hoặc hai người hoài nghi, nhưng chúng tôi không đưa họ vào môi trường này, bởi vì cần có một môi trường hỗ trợ, không phải là môi trường nghi vấn”. Bà nói thêm: “Chúng tôi kêu gọi các công trình nghiên cứu, nhưng chúng tôi chưa bao giờ đưa sự hoài nghi vào nghiên cứu”.
Tôi nói: “Họ có thể cảm thấy không được hoan nghênh”.
“Có thể đúng như vậy!”, bà trả lời. “Nhưng chúng tôi đang cố gắng mở rộng lĩnh vực này, và có rất nhiều điều liên quan đến trạng thái ý thức hiện hữu bên ngoài não bộ”. Bà nói, một nhà nghiên cứu nổi tiếng lập luận rằng “khi ai đó công bố một nghiên cứu nói rằng “Đây chính là lời giải thích”, thì nó không xứng đáng để hồi đáp lại. Hầu hết những người làm việc đó đều không hề nghiêm túc khảo cứu vấn đề này”.
Ở mức độ nào đó, tôi thấy điều này hợp lý. Rất nhiều bài viết về kinh nghiệm cận tử không chỉ nghi hoặc những người trải nghiệm mà còn chế giễu họ. Và đúng là những giải thích khoa học, dường như xác đáng, nhưng không toàn diện.
Tuy nhiên, tại hội nghị tôi không chỉ gặp phải sự kháng cự mà còn có rất nhiều quan niệm sai lầm về khoa học. Bên ngoài hành lang khách sạn, tôi tình cờ gặp Hugenot. Tôi nói: “Điểm chung của các lý thuyết khoa học là phải kiểm chứng được”. Kiểm chứng được có nghĩa là có khả năng sai: Về nguyên tắc, bạn có thể thực hiện một thí nghiệm cho thấy một lý thuyết là sai lầm. Ví dụ, nếu tôi thả rơi tách cà phê đang cầm, và nó không lan ra khắp sàn mà thay vào đó, nó lại nổi lơ lửng xuống dưới hành lang, như vậy là lý thuyết về lực hấp dẫn đã sai. Mỗi khi lý thuyết vượt qua một thử nghiệm như vậy, niềm tin của chúng ta đối với nó gia tăng. Nhưng niềm tin của chúng ta đối với lý thuyết luôn luôn chỉ là tạm thời: Chúng ta liên tục xem xét các tình huống mà lý thuyết đó không còn đúng. Vậy làm thế nào, tôi hỏi, có thể kiểm chứng ý thức vũ trụ?
Ông né tránh câu hỏi bằng câu trả lời lắt léo: Nếu bạn thả tách cà phê, bạn nói rằng nó sẽ rơi xuống. Nhưng hướng nào gọi là hướng xuống? Nếu bạn thay đổi quan điểm và tưởng tượng mặt đất ở phía trên chúng ta, có lẽ hướng xuống lúc này là hướng lên. Tôi di chuyển đưa cái tách lên phía trên đầu của ông và đề nghị kiểm tra lý thuyết đó. Ông cười to nhưng căng thẳng.
Đến ngày thứ ba của hội nghị, tôi bắt đầu tuyệt vọng tìm kiếm một tiếng nói của lý trí. Mọi người dường như trên một dải quang phổ khác nhau từ giả khoa học (pseudoscience) đến thần bí toàn diện, với rất nhiều sự thiếu hiểu biết tuyệt đối ở giữa các thái cực này. Đó là khi tôi gặp Mitch Liester.
Liester, một bác sĩ tâm thần cao lớn, đẹp trai, nam tính, dạy học tại Đại học Colorado và Đại học California tại Irvine, có phong cách nhẹ nhàng, dễ tiếp thu ý kiến người khác, khiến bạn muốn nói với anh ta tất cả mọi thứ. Anh nói với tôi là công việc đào tạo y khoa đã khiến anh hoài nghi về kinh nghiệm cận tử. Nhưng khi anh còn đi học, ông nội của anh đã trải qua kinh nghiệm cận tử, và sau đó anh tiếp tục gặp gỡ những người trải nghiệm – mà không phải lúc nào cũng là bệnh nhân. “Mọi người chỉ mới nói chuyện với tôi thôi”.
Liester cũng thừa nhận là bản thân anh đã có một “kinh nghiệm cận tử” – cái gì đó có đặc điểm của kinh nghiệm cận tử, mặc dù khi trải nghiệm này xảy ra, anh không phải là sắp chết hoặc bị ảnh hưởng bởi bất kỳ chất gây ảo giác nào. Vì vậy, tôi hỏi anh, quan điểm của anh như thế nào đối với ý tưởng cho rằng tâm trí và cơ thể tách biệt nhau?
“Bộ não lý trí của tôi không tin tưởng nó lắm, nhưng vì đã trải qua, tôi biết nó là thật. Vì vậy, đó là một cuộc thảo luận đang tiếp diễn ở trong chính tôi”.
Tôi hỏi: Có một lập luận trung hòa nào giữa các nhà duy tâm và duy vật? Anh thừa nhận là khó có được điều đó. “Rất nhiều nhà khoa học duy vật dường như không nghĩ rằng đó là một lĩnh vực nghiên cứu khoa học nghiêm túc … Trong khi đó, nhiều người có kinh nghiệm cận tử thì không quan tâm đến khoa học”.
Vào mỗi thứ Hai, Liester dùng điểm tâm với một nhóm chiết trung nhỏ. Nhóm bao gồm một nhà vật lý, nhà khoa học vật liệu, một nghệ sĩ, một giáo sĩ có bằng về triết học, và một nhân viên tư vấn nhà tế bần cũng là một vũ công nhóm nhạc thổ dân Native American. Họ trao đổi cách thức làm thế nào để thúc đẩy nghiên cứu kinh nghiệm cận tử với một thái độ khoa học nghiêm ngặt và một tâm trí cởi mở. “Tôi nghĩ là có cách để thu hẹp khoảng cách”, anh nói.
Trong cuộc trò chuyện của chúng tôi và trong một e-mail tiếp theo, Liester nêu lên một vài lĩnh vực mà các nhà nghiên cứu có thể theo đuổi sâu hơn. Họ có thể chụp ảnh bộ não của những người đang hôn mê hoặc trong trạng thái “siêu việt”. Họ có thể nghiên cứu những người tuyên bố có năng lực tinh thần đặc biệt, chẳng hạn như các pháp sư. Họ có thể tìm hiểu bản chất của ký ức được hình thành khi xảy ra kinh nghiệm cận tử, và xem chúng khác với ký ức bình thường như thế nào (Liester đang nghiên cứu về vấn đề này). Họ có thể đưa ra cách thức thực nghiệm hiệu quả để kiểm chứng tuyên bố của những người cho rằng mình trở nên nhạy cảm với điện từ trường hoặc có thể can thiệp vào các thiết bị điện tử. Họ có thể nghiên cứu thêm các tình huống tăng vọt điện não vào lúc chết mà các nhà nghiên cứu của Đại học Michigan tìm thấy ở chuột, và thậm chí cố gắng để nghiên cứu tình huống này trên con người. Và nhiều khía cạnh khác.
Hơn hết, anh cho biết, dù bạn giải thích như thế nào, thì kinh nghiệm cận tử là sự kiện rất quan trọng trong cuộc sống con người. “Nó là chất xúc tác cho sự phát triển trên nhiều cấp độ khác nhau – về mặt tâm lý, mặt xúc cảm, thậm chí có thể là mặt sinh lý.”
Ngay cả khi nghiên cứu cuối cùng cho thấy – mà hầu hết các nhà khoa học đều giả định sẽ có kết luận như vậy – kinh nghiệm cận tử không có gì hơn là sản phẩm của các cơn co thắt trong bộ não đang chết, thì vẫn có lý do chính đáng để theo đuổi việc nghiên cứu, đó là chúng đặt ra một thách thức cho sự hiểu biết của chúng ta về một trong những vấn đề bí ẩn nhất trong khoa học: ý thức.
Ranh giới giữa sự sống và cái chết, vốn đã từng được cho rằng rất sắc nét, đã trở nên mờ nhạt hơn bao giờ hết. Trong một bài báo tổng quan gần đây có tựa đề “Cái chết và ý thức,” Sam Parnia thừa nhận một kết quả nghiên cứu khẳng định rằng, trái với niềm tin phổ biến, những gì gây tổn thương cho não khi bạn ngừng thở trong hơn một vài phút không phải chỉ là thiếu oxy. Các tế bào não bị thiếu oxy có thể mất nhiều giờ mới phân hủy đến mức không thể phục hồi – nhất là nếu được giữ lạnh – vì thế có những trường hợp nạn nhân sống lại sau khi bị chôn vùi trong tuyết hoặc rơi vào hồ nước đang đóng băng. Thay vào đó, nguyên nhân gây ra tổn thương nặng chính là sự bất ngờ cung cấp oxy trở lại cho tế bào não do máu và các chất hóa học dồn mạnh về, được gọi là “hội chứng sau hồi sức”. Các kỹ thuật y tế mới ngày càng tăng khả năng giúp ngăn chặn những tổn thương như vậy, và hồi sinh những người được tuyên bố là đã chết.
Đối với một số người, điều này cung cấp thêm bằng chứng cho thấy tâm trí phải có khả năng tồn tại độc lập ngoài cơ thể – nếu không thì nó đi về đâu khi bộ não chết? Đối với các nhà duy vật, đó lại là bằng chứng đối lập: tâm trí không “đi” đâu cả, không khác gì chuyện đi đâu đó của hình ảnh từ một máy chiếu khi bạn tắt máy chiếu đi. Thay vào đó, nó cho thấy tâm trí và ý thức là thuộc tính nổi trội (emergent properties) của não, bằng cách nào đó đan lại với nhau bởi tất cả các quá trình vật lý và hóa học trong hệ thần kinh của chúng ta.
Nhưng nếu như vậy, thì quá trình đan xen đó xảy ra như thế nào? Đây là câu hỏi rất quan trọng khi nghiên cứu ý thức. George A. Mashour, đồng tác giả trong nghiên cứu của Đại học Michigan trên chuột, là một người kiên định trong nhóm duy vật. Ông lưu ý nếu giải thích làm thế nào một bộ não khỏe mạnh sinh ra ý thức đã khó, thì thậm chí còn khó khăn hơn để giải thích làm thế nào một bộ não suy nhược gần chết sản sinh ra cảm giác “siêu thực” sống động như vậy. “Việc có thể có lời giải thích khoa học cho kinh nghiệm cận tử hay không là tiêu điểm quan trọng cho nền khoa học về ý thức”, ông nói với tôi.
Nếu chúng ta có thể thiết lập những đột biến trong hoạt động thần kinh xảy ra trong não người đang chết giống như Mashour và đồng nghiệp đã thấy ở chuột, thì có thể sẽ giúp giải thích cả kinh nghiệm cận tử lẫn cung cấp cho chúng ta một số manh mối về bản chất sinh học thần kinh của ý thức. Tuy vậy, con người không phải là chuột. Mashour cho biết không chắc là chúng ta có thể thu thập đủ dữ liệu hữu ích về những người có kinh nghiệm kinh tử đang trong cơn ngừng tim và còn sống để kể lại câu chuyện kỳ diệu. Nhưng nghiên cứu của ông trên chuột, ông nói, ít nhất là “soi sáng khả năng” giúp giải thích kinh nghiệm cận tử mà không cần phải “từ bỏ mối liên kết giữa não bộ và ý thức”.
Ý thức xuất hiện như thế nào có thể sẽ là một trong những vấn đề định hình nên thế kỷ 21, khi mà trước tiên có thể chúng ta chế tạo được các loại máy móc phức tạp như não người. Liệu những máy móc này sẽ có ý thức? Làm sao chúng ta có thể nhận biết được? Liệu ý thức đối với chúng có giống chút gì với chúng ta? Và chúng ta sẽ bị tác động như thế nào với tư cách là người tạo ra chúng? Chỉ có thể trả lời những câu hỏi này khi chúng ta hiểu biết tường tận ý thức của mình bao gồm những gì.
Cuối cùng, cũng đáng nghiên cứu nghiêm túc về kinh nghiệm cận tử, chỉ với lý do là ít nhất dùng để bác bỏ một số giải thích mang tính tâm linh. Những người tin tưởng nhiệt thành về một thế giới bên kia không bao giờ có thể bị lung lay. Sau hết, tồn tại rất nhiều niềm tin mà con người nắm giữ dù có bằng chứng khoa học áp đảo chứng minh ngược lại (vắc xin, hay sự nóng lên toàn cầu). Nhưng khoa học chỉ có thể phát triển khi thừa nhận những giới hạn hiểu biết của mình, và dần dần đẩy lùi những giới hạn đó. Chúng ta không có căn cứ nào để chế nhạo niềm tin về kinh nghiệm cận tử đến khi thực hiện được những nghiên cứu làm sáng tỏ chúng.
Giả như các thí nghiệm được thực hiện, và cuối cùng có một đánh giá toàn diện, nghiêm ngặt về mặt khoa học, và mang tính duy vật luận về nguyên nhân gây ra kinh nghiệm cận tử. Chuyện gì sau đó? Liệu nó có nghĩa là tất cả những câu chuyện nhìn thấy thiên thần và gặp gỡ người thân quá cố chỉ là những chuyện cổ tích không cần quan tâm?
Tôi sẽ nói không. Những gì tôi nhìn thấy tại hội nghị – thậm chí là kỳ lạ nhất – cho tôi thấy rằng ngay cả một nhà duy vật cứng cỏi vẫn có thể học hỏi được rất nhiều từ kinh nghiệm cận tử về cách con người nhận ra được ý nghĩa của những việc xảy ra với mình, và trên hết, về vai trò cốt yếu của những câu chuyện được kể trong việc hình thành nhận thức chúng ta là ai.
Susan Blackmore, một người hoài nghi mềm mỏng, cảm thấy tương tự. Bà kết luận trong e-mail gửi cho tôi với những lời gắt gỏng dành cho những người lúc nào cũng đưa ra sự so sánh trắng đen một cách sai lầm và vô ích giữa việc kinh nghiệm cận tử là “đúng thật, tuyệt vời, thần thánh, vv” [so với] kinh nghiệm cận tử “CHỈ LÀ một ảo giác không có gì quan trọng”. Dường như với tôi, thực sự kinh nghiệm cận tử có thể là trải nghiệm tuyệt vời, làm thay đổi cuộc sống và làm sáng tỏ về ý nghĩa của con người và nỗi trăn trở về sự sống và cái chết.
Nguồn: http://www.theatlantic.com/features/archive/2015/03/the-science-of-near-death-experiences/386231/
Nguồn : Source link
Hits: 36