TÔN-GIẢ ĐẠI CA-DIẾP
Toàn Không
(Phật A-Di-Đà, Chư Bồ-Tát & Tổ Sư, từ 81 đến 84)
Tôn-giả Đại Ca-Diếp trước khi xuất gia theo Phật, Ngài tu theo hạnh Đầu-đà (khất thực). Một hôm trong khi đi khất thực, có người mách bảo rằng: “Hiện có Phật ra đời, đang du hóa tại rừng Trúc (Trúc-Lâm), sao ông chẳng đến đó xin theo Phật mà học đạo tu hành”;nghe được mấy lời ấy, tự nhiên cảm thấy muốn đi, Ngài liền đích thân đến Trúc-Lâm. Khi gần đến nơi, Ngài trông thấy đức Thế-Tôn ngồi trên Bảo-tọa cao, hai bên có Vương-tử Vương-tôn, thiện-nam tín-nữ, và rất nhiều Tỳ-kheo, tất cả ngồi theo thứ lớp và yên lặng nghe Phật nói pháp. Khi đức Phật thấy Ngài vừa đến liền nói rằng:
– Ông Tỳ-kheo kia có nhân lành mà đến đây, vậy râu tóc phải trừ đi mà thọ Cụ-túc giới.
Ngài liền lễ bái Phật và thưa:
– Vâng.
Sau đóTôn-giả cạo bỏ râu tóc, rồi quy y, thọ giới hạnh Tỳ-kheo, và đi theo Phật đếnkhắp mọi nơi; đi đến đâu nghe Phật nói pháp thì tâm vẫn phát huệ, nên hay tỏngộ mọi lẽ huyền vi.
1)- Đại-Ca-Diếp ngồi nửa Toàngồi của Phật, được Phật truyền Tâm ấn.
Rồi mộthôm, đức Phật đang giảng Pháp cho đại chúng nghe, Tôn-giả đi tới đi lui tìm chỗngồi vì đến trễ, đại chúng nhìn theo Tôn-giả có ý bảo: “Ngồi xuống đi”. Ngay khi ấy, đức Phật trông thấy Tôn-giả, liềnbảo:
– Ma-Ha Ca-Diếp, hãy đến đây ngồi, ta chia cho phân nửachỗ ngồi.
Nói rồi:Ngài ngồi xích qua một bên, phân nửa chỗ ngồi để cho Tôn-giả; Tôn-giả liền đitới gần đảnh lễ Phật xong ngồi xuống, trước con mắt ngạc nhiên của đại chúng.
Một ngàynọ, đức Phật ở trong hội Linh-Sơn cầm một cành hoa giơ ra cho đại chúng xem(Niêm Hoa Thị Chúng), thì ai nấy đều chẳng rõ ý chi mà đâm ra ngơ ngác, nên tấtcả yên lặng làm thinh, duy có một mình Tôn-giả Đại Ca-Diếp mỉm cười (Niêm HoaVi Tiếu).
Đức Thế-Tônthấy thế mới nói rằng:
“Tacó Chính-pháp Nhãn-tạng, Diệu tâm Niết-Bàn, Pháp-môn ấy mầu nhiệm vô cùng,chẳng lập văn tự, truyền riêng ngoài giáo-lý. Nay Ta trao cho Ma-Ha Ca-Diếp,vậy ông phải ân cần mà nhận lãnh, giữ gìn Chính-pháp, rồi sau sẽ truyền cho hậuthế, để nối tiếp về sau, chớ để diệt mất”.
Về sau,trong khi Tôn-giả đi giảng đạo tại vùng núi Tất-bát-La, một hôm Ngài dùngThiên-nhãn xem, thấy đức Phật đã nhập diệt ở dưới gốc cây Long-thọ, trong rừngTa-La thuộc nước Câu-Thi, Tôn-giả vội vã dẫn năm trăm Tỳ-Kheo về chỗ ấy để điếuviếng. Khi trà-tỳ xác thân Phật xong, Tôn-giả là vị tổ thứ nhất đã được đứcPhật truyền Pháp trước kia tại hội Linh-Sơn.
2)- Tài biện luận của Tôn-giảĐại Ca-Diếp.
Một lần,tôn-giả Đại Ca-Diếp cùng năm trăm vị Tỳ-Kheo đi du hóa từ nước Câu-tát-La đếnthôn Tư-bà-Ê, nghỉ tại khu rừng Thi-xá-Ba; lúc đó có Bà-la-Môn tên Tệ-Túc, đượcvua Ba-tư-Nặc nước Xá-Vệ phong cho thôn này để lo phần cúng tế Phạm-Thiên.Tệ-Túc là người có kiến chấp theo ngoại đạo và dạy mọi người trong thôn rằng: “Không có đời sau, không có tái sinh, khôngcó qủa báo của việc làm lành và việc làm ác”.
Người trongthôn Tư-ba-Ê nghe tin Tôn-giả Đại Ca-Diếp cùng năm trăm vị Tỳ-kheo đến nghỉ tạirừng Thi-xá-Bà, thì họ bàn tán với nhau rằng: “Vị Đại Ca-Diếp này rất có tiếng tăm, và đã chứng qủa A-la-Hán. Ngài làbậc trưởng thượng tôn-túc, kỳ cựu, đa văn, thông minh, quảng bác, và có tàibiện luận đối đáp, nay nếu chúng ta gặp được Ngài thì may cho chúng ta lắm”.Do đó dân trong thôn này, ngày ngày cứ tiếp tục tuần tự đi đến chỗ tôn-giả ĐạiCa-Diếp. Bấy giờ bà-la-môn Tệ-Túc đang đứng trên lầu cao, trông thấy từng toánngười đi nhưng không biết đi đâu, mới hỏi người hầu, nên được biết chuyện nhưthế, rồi bảo người hầu rằng:
– Ngươi hãy mau tới nói với toán người kia dừng lại đợita cùng đi, vì ta biết ông Ca-Diếp kia cố ý mê hoặc người, lừa dối thế-gian,nên ta phải đến đó.
Người hầuvâng lời, đi nhanh đến nói với đoàn người rằng:
– Ngài Tệ-Túc bảo quý vị hãy dừng lại chờ Ngài cùng điđến gặp ông Ca-Diếp.
Nhữngngười ấy đáp:
– Hay lắm, nếu ông Tệ-Túc muốn đi thì mau tới đây đểcùng đi, chúng tôi chờ ở đây.
Người hầuliền trở về thưa với chủ:
– Con đã nói họ dừng lại chờ, và họ nói Ngài nên mau tớiđể cùng đi.
Bà-la-mônTệ-Túc xuống lầu, gọi gia nhân cùng đi, trước sau vây quanh, lũ lượt cùng điđến rừng Thi-xá-Bà. Khi đến nơi, có người lễ bái, có người hỏi han, có ngườivòng tay, có người tự xưng tên mình, và có người im lặng ngồi xuống. Khi mọingười đã ngồi đâu đó xong xuôi, Tệ-Túc mới đứng dậy nói với Tôn-giả ĐạiCa-Diếp:
– Tôi là Tệ-Túc, được Vua trao cho thôn Ba-tư-Ê này đểlo phần cúng tế Phạm-Thiên, nay tôi có điều muốn hỏi, không biết ông có rảnhtrả lời không?
Tôn-giả Đại Ca-Diếp đáp:
– Ông cứ hỏi, sau khi nghe xong phải tự hiểu lấy.
– Nay chủ thuyết của tôi là không có đời sau, không cótái sinh, không có qủa báo thiện ác, còn chủ thuyết của ông thế nào?
– Tôi hỏi ông, hãy tuỳ ý mà đáp. Hiện nay mặt trời, mặttrăng là thuộc về đời này hay đời khác, thuộc về Trời hay Người?
– Mặt trời, mặt trăng thuộc về đời khác, không thuộc vềđời này, thuộc về Trời, không thuộc về Người.
– Vì mặt trời mặt trăng thuộc về đời khác và thuộc vềTrời, cho nên biết là có đời sau, có tái sinh, và có quả báo thiện ác.
– Tuy ông nói thế, nhưng theo ý tôi không có tất cả,chẳng có gì, chết là hết.
– Vì lý do gì mà ông biết là không có đời sau, không cótái sinh, và không có qủa báo thiện ác?
– Tôi có lý do, vì tôi có một người bà con mắc phải bệnhngặt nghèo, tôi đến nói với hắn rằng: “CácSa-môn có quan niệm rằng những người phạm mười điều ác là sát sinh, trộm cướp,tà dâm, nói dối, nói hai lưỡi, nói thêu dệt, nói lời độc ác, tham lam, sân hận,và ngu si tà kiến. Những người phạm mười điều ác như thế sau khi chết đều bịđọa vào Địa-ngục, bị Qủy-ngục hành hạ, chịu khổ sở vô cùng, nhưng tôi khôngtin, vì tôi chưa từng thấy người nào chết rồi trở lại nói cho biết là họ đã bịđọa vào Địa-ngục. Nay anh là bà con với tôi, chẳng may anh đã tạo đủ mười điềuác ấy, nếu qủa như lời các Sa-môn nói, thì sau khi anh qua đời, anh phải bị đọavào Địa-ngục. Nay tôi tin vào anh để xét xem có Địa-ngục hay không, anh nhớ trởlại báo cho tôi biết tôi mới tin”.
Tôi biếtchắc: quan điểm của tôi là đúng, vì anh ta đã im lặng nhận lời, mà từ khi anhta chết đến nay đã nhiều năm biệt tích hơi tăm, không hề trở lại báo tin; hơnnữa anh ta là người thân của tôi, không lẽ lại dối tôi sao?
Tôn-giả ĐạiCa-Diếp nói:
– Những người có trí nhờ thí dụ mà hiểu rõ, nay tôi dẫndụ để ông hiểu điều đó. Ví dụ như một tên đạo tặc thường giết người cướp của,bị người ta bủa vây bắt được đem đến trình Vua trị tội, Vua liền cho hỏi cungvà xử tội bằng cách trói người ấy lại, đem bêu xấu (làm nhục về thanh danh, làmcho mọi người đều biết việc làm xấu xa của người ấy) ngoài đường, sau đó giaocho đao phủ để hành quyết. Tên cướp đó dùng lời mềm dẻo nói với người giữ tùrằng: “Xin ông vui lòng thả tôi về thămgia đình bà con, vì tôi có chuyện cần nói với họ, sau đó tôi sẽ trở lại chịutội”.Ông nghĩ sao, người giữ tù kia có thả không?
Bà-la-MônTệ-Túc đáp:
– Không.
Tôn-giả nóitiếp:
– Họ cùng là loài người, cùng trong một nước, cùng sốngở đời này mà còn không tạm thả, huống người thân của ông đọa vào Địa-ngục,Qủy-ngục không có từ tâm, lại không phải là loài người, sống chết không cùngmột đời. Nếu người ấy dùng lời nói mềm dẻo cầu xin với Qủy-ngục rằng: <Xin Ngài tạm thả tôi về thế-gian gặpngười bà con vì tôi có điều cần nói, sau đó tôi sẽ trở lại>,liệu ngườiấy có được Qủy-ngục tạm thả về không?
Tệ-Túc đáp:
– Không.
– Cứ so sánh theo đó thì đủ biết rồi.
– Ông dẫn dụ có đời sau, nhưng tôi vẫn không tin, vì tôicó một người bà con khác, lúc ngưòi ấy mắc bệnh sắp qua đời, tôi đến thăm hỏivà nói với người ấy rằng: “Các Sa-Môn đềucó quan điểm khác rằng có đời sau, tôi không tin vì chưa có ai về báo lại saukhi chết. Nay chú là bà con của tôi lại tạo đủ mười điều thiện. Nếu các Sa-Mônnói đúng thì sau khi chú qua đời, sẽ được sinh lên cõi Trời. Giờ đây tôi chỉcòn tin cậy nơi chú để quyết định mà thôi, nếu chú thấy thật có qủa báo sinhlên cõi Trời, chú phải nhớ trở lại báo cho tôi biết, tôi mới tin được”.Lúcbấy giờ chú ấy đã im lặng nhận lời, nhưng từ khi chú ấy qua đời đến nay đã khálâu rồi, không thấy trở lại báo tin; do đó tôi biết chắc không có đời sau,không có tái sinh, và không có qủa báo thiện ác.
Tôn-giả ĐạiCa-diếp nói:
– Tôi sẽ nói một thí dụ khác cho ông hiểu. Ví như cóngười bị rơi xuống hầm cầu tiêu, cả đầu mình chìm ngấm dơ bẩn hôi thối. Ngườiấy được Vua cho vớt lên, lấy tro xoa khắp thân ba lần, lấy nước tháo đậu rửatrước, và lấy nước tro trong rửa sau; tiếp theo, lấy nước thơm tắm gội, và lấybột thơm xoa khắp thân người. Rồi lấy y phục nổi tiếng cho mặc, và đem thức ăntrăm vị ngon ngọt cho ăn. Sau chót đưa người ấy đến ở tại một ngôi nhà cao sangcó phong cảnh tuyệt vời, và cho hưởng năm thứ dục lạc sung sướng vô cùng; liệungười ấy có muốn rơi xuống hầm cầu tiêu nữa không?
Tệ-Túc đáp:
– Không muốn, đấy là chỗ hôi thối bẩn thỉu, ai mà muốntrở xuống làm gì?
– Các vị Trời cũng thế, họ cho cõi trần gian này là nơitanh hôi bất tịnh, họ ở xa hàng nghìn vạn do tuần còn thấy mùi tanh hôi củanhân-gian xông lên. Bà con của ông đã tạo đủ mười điều lành, tất nhiên sau khiqua đời người ấy được sinh lên cõi Trời, hưởng vui thú vô cùng, liệu người ấycó chịu trở lại cõi giống như hầm cầu tiêu thế-gian này không?
– Không.
– Ngoài ra ở cõi trần này, cứ một trăm năm mới bằng mộtngày ở cõi Trời Đạo-Lợi; tại cõi ấy nếu cũng lấy ba mươi ngày một tháng, mườihai tháng một năm, thì họ sống một nghìn năm ở cõi ấy (bằng 365,000 năm ởthế-gian). Ông nghĩ sao nếu bà con ông sinh lên cõi Trời Đạo-Lợi, và người ấynghĩ rằng: “Ta mới sinh lên cõi này, vậyta hãy vui thú vài ngày rồi hãy ráng trở lại báo tin cho bà con cũng chưamuộn”,như vậy liệu ông có gặp được người bà con không?
– Không gặp được, vì lúc đó tôi đã chết lâu rồi, khôngsao gặp được; nhưng tôi không hiểu ai đã nói với ông có cõi Trời Đạo-Lợi sốnglâu như thế?
– Tôi sẽ dẫn dụ cho ông hiểu. Ví như có người mới sinhra đã bị mù hai mắt, không trông thấy, không hiểu về năm màu xanh, đỏ, vàng,trắng, đen; đồng thời cũng không thấy mặt trời, mặt trăng, tinh tú v.v. Nếu cóngười khác hỏi về màu xanh, đỏ, vàng, đen, trắng như thế nào, người mù đápkhông có năm màu như thế; cho đến mặt trời, mặt trăng, tinh tú v.v., người mùđều nói không có các thứ đó; Ông nghĩ sao, người mù trả lời như vậy có đúngkhông?
– Không đúng, vì sự thực có năm màu, có mặt trời, mặttrăng, và tinh tú.
– Ông cũng giống như vậy, sự sống lâu ở cõi Trời Đạo-Lợilà có thật, chẳng phải không, vì ông không thấy, nên không tin là có.
– Ngài tuy bảo có, tôi vẫn không tin, vì ở trong thôntôi trước đây có kẻ cướp của giết người, bị người ta bắt được đem đến tôi vànói: “Xin Ngài trị tội nó, vì nó đã nhiềulần cướp của giết người”. Tôi bảo tuần thôn bỏ hắn vào trong một cái vạclớn, đậy nắp lại, không để cho thần-thức hắn tiếp xúc với bên ngoài bằng cáchtrét kín với một lớp keo dầy, sau đó tôi bảo người đốt lửa bên dưới; lúc ấy vìmuốn tìm để biết chỗ tẩu thoát thần-thức của hắn, nên tôi bảo các người tuầnhầu vây quanh cái vạc mà nhìn kỹ, nhưng họ không thấy thần-thức chui ra; saucùng, tôi cho mở nắp vạc ra, cũng không thấy thần-thức đâu cả, mặc dù hắn đãchết. Vì lý do đó tôi biết chắc là không có đời sau.
Tôn-giả ĐạiCa-Diếp nói:
– Tôi hỏi ông, cứ tuỳ ý mà đáp. Khi ông ngủ đã từng mơ,thấy núi rừng, sông ngòi, ao hồ, vườn tược, đường sá, cầu cống, và đi tới đilui chỗ này chỗ nọ; trong khi đó bà con trong nhà có ở quanh ông không, và họcó thấy thần-thức của ông đi ra đi vào không?
– Trong khi tôi ngủ nghỉ ấy, có khi có người ở quanhtôi, và những lúc ấy họ không trông thấy thần-thức của tôi đi ra đi vào.
– Như vậy khi còn sống, thần-thức ra vào còn không trôngthấy huống chi là người chết. Có những vị Tỳ-kheo từ đầu hôm đến cuối đêm khôngngủ nghỉ, chỉ siêng tu về đạo phẩm giác-ý, vị ấy không lười biếng, không buônglung, và dùng sức tam muội mà tu luyện; nhờ thế mà vị ấy quán chiếu thấy chúng-sanhchết chỗ này, sinh chỗ kia, tuổi thọ dài ngắn, nhan sắc đẹp xấu, tuỳ theo hànhđộng thiện ác mà thụ qủa báo tương ưng. Ông dùng con mắt người phàm phu mà nhìnthì không thấy được, do đó biết chắc là có đời sau.
– Tuy Ngài dẫn giải như thế, nhưng chỗ tôi thấy thì vẫnkhông phải như vậy, vì có lần một tội nhân trọng tội, Triều-đình giao cho tôiphải hành xử tội nhân ấy bằng cách lột da; tôi sai tuần thôn lột da tử tội, vàsai nhiều người khác vây quanh quan sát tìm thần-thức của hắn, nhưng không thấy;tôi lại sai phanh thây ra coi, cũng không thấy gì cả.
Một lầnkhác, tôi cho giết tội nhân bằng cách sai đem tội nhân đi cân, sau mới giết mộtcách êm thấm, và không mất một giọt máu. Xong rồi đem cân lại, nhưng lần cânsau lại nặng hơn lần cân trước khi chưa chết. Đáng lẽ khi có thần-thức thì phảinặng hơn, đằng này ngược lại, do đó mà tôi biết chắc không có đời sau.
Tôn-giảnói:
– Tôi sẽ dẫn giải nữa cho ông hiểu. Về một kiếp xa xưatrong qúa khứ, có một quốc độ điêu tàn hoang phế, lúc đó có một đoàn lái buônđi qua quốc độ này, bỗng họ gặp một Phạm-chí tu đạo thờ lửa ở trong một khurừng. Đoàn thương buôn xin Phạm-chí cho ngủ nhờ một đêm tại túp lều phụ bêncạnh, rồi sáng sớm hôm sau lên đường. Sáng hôm sau Phạm-chí qua túp lều bên cạnhđể xem xét, thì thấy một đứa nhỏ cỡ hơn một tuổi đang ngồi sụt sịt khóc;Phạm-chí nghĩ thầm: “Ta đâu nỡ để đứa bénày chết, ta nên nuôi đứa trẻ này”,tức thì ông bế đứa bé lên, dỗ dành vànuôi nấng.
Đứa bé mỗingày một lớn lên, đến khi nó sáu bảytuổi, lúc đó Phạm-chí có chút việc cần đi vào nhân-gian, bèn bảo đứa bé: “Ta có chút việc tạm đi khỏi ít ngày, ngươiở nhà có sẵn thức ăn đấy cứ lấy mà ăn. Ngươi trông coi giữ gìn đống lửa, đừngcho lửa tắt, nếu lửa có tắt thì hãy lấy hai thanh củi cọ vào nhau để lấy lửa màđốt lên”, căn dặn xong, Phạm-chí ra đi.
Đứa nhỏ ởnhà, lúc đầu còn trông coi đống lửa, và cho thêm củi, sau mải chơi quên khôngngó tới, nên củi cháy hết, lửa tắt mất; đứa nhỏ đi chơi về thấy lửa tắt, ảo nãothan thầm: “Mình dại qúa, mải đi chơi nênquên không trông coi đống lửa, nên nó tắt mất, bây giờ biết làm sao đây?”Đứa nhỏ quên lời dặn dò, vội vàng bới tro tìm lửa, tro đã nguội lạnh, và nódùng đủ mọi cách để tìm lửa, nhưng đều thất bại.
Sau ít ngàyPhạm-chí trở về, vừa tới cửa, thấy đứa bé, Phạm-chí hỏi: “Trước khi đi ta đã dặn bảo ngươi ở nhà coi chừng đống lửa, ngươi cócoi không?”. Đứa nhỏ đáp: “Vì con mảiđi chơi, quên canh chừng nên lửa tắt mất”.Phạm-chí hỏi: “Ngươi làm cách nào để lấy lại lửa?”.Đứa nhỏ đáp: “Khi con bới tro để tìmkhông thấy lửa, con bèn lấy hai miếng củi đập vào nhau, dùng búa chẻ củi để tìmlửa. Rồi chặt củi nhỏ vụn ra, và sau cùng là con bỏ củi vụn vào cối đá mà giã,nhưng đều không thấy lửa đâu cả”.
Lúc đóPhạm-chí đi vào chỗ đống lửa đã tắt, lấy hai thanh củi cọ vào nhau nhiều lầnthì lửa phát ra cháy miếng mồi; đồng thời ông ta để củi lên đốt và bảo đứa nhỏ:“Như muốn tìm lửa ngươi phải dùng đúngcách này, chứ không nên đập, chẻ, chặt, hay giã củi mà có lửa được đâu”.
Trường hợp của ông cũng vậy, không theođúng phương pháp, lại đi lột da, xả thân người để tìm thần-thức, thì chắc chắnkhông tìm được.
Về trườnghợp người chết nặng hơn người sống cũng dễ hiểu thôi, cũng giống như người cânsắt, khi sắt nguội cân nặng hơn sắt nóng; Ông có biết tại sao sắt nóng có màusắc đỏ chói, mềm mại, lại nhẹ không?
Bà-la-mônTệ-Túc đáp:
– Sắt nóng có màu sắc đỏ sáng, mềm mại nên nhẹ, sắtnguội không có màu đỏ sáng và cứng nên nặng.
Tôn-giả ĐạiCa-Diếp nói tiếp:
– Con người cũng thế, khi sống thì có nhan sắc, mềm mại,cho nên nhẹ; nhưng khi chết, không còn nhan sắc và cứng, cho nên nặng. Do đóbiết chắc là có đời sau.
Tệ-Túc nói:
– Trước đây, tôi có một người bà con mắc phải bệnh nặng,tôi đến thăm và bảo người hầu đỡ người bệnh nằm nghiêng về phiá tay phải, khiđó người bệnh liếc ngó, co duỗi. Tôi lại bảo người hầu đỡ bệnh nhân nằm nghiêngbên trái, rồi lật sấp, lật ngửa, người bệnh vẫn còn liếc nhìn, co duỗi nhưthường, sau một lúc bệnh nhân tắt thở; tôi lại bảo người hầu đỡ người ấy nằmnghiêng bên phải, bên trái, lật sấp, rồi lật ngửa; trong khi đó tôi nhìn kỹthấy người ấy không còn liếc nhìn, co duỗi gì cả. Do đó, tôi biết là không cóđời sau.
Tôn-giảnói:
– Tôi lại dẫn chứng nữa cho ông hiểu. Thuở xa xưa, bấygiờ tại một nước nọ, không một người nào trong nước được nghe tiếng tù và; mộthôm, có một người từ nước khác sành nghề thổi tù và đi đến thôn xóm của nướcnày, ông ta cầm vỏ ốc biển lớn thổi ba tiếng rồi để xuống đất; khi ấy mọi ngườitrong thôn xóm nghe tiếng kêu của tù và, thì giật mình, không hiểu là tiếng gìmà kỳ lạ như thế, nên một số thanh niên trai gái đi về phiá có tiếng phát ra.Họ gặp người ấy và hỏi: “Thứ gì mà trongtrẻo bi ai kêu to vang xa như vậy?”Người ấy chỉ vào vỏ ốc dưới đất mà nói:“Tiếng của cái đó”.Lúc ấy ngườingười trong thôn lấy tay sờ, rồi vỗ vào vỏ ốc mà nói: “Ngươi hãy kêu lên cho chúng ta nghe”,nhưng vỏ ốc vẫn không kêu.Người ấy cầm vỏ ốc lên kề vào miệng thổi ba tiếng rồi lại để xuống đất, mọingười thấy thế trầm trồ khen: “Đấy làtiếng hay ho mà chúng ta nghe khi nãy, chứ không phải tự vỏ ốc mà có tiếng kêu, phải có tay, có miệng, có hơi thổi mới có tiếng kêu”. Con người cũnggiống như vậy, cần phải có tri giác, có tinh thần, và có hơi thở ra vào mớiliếc nhìn, co duỗi, nói năng được. Do đó ông nên bỏ tà kiến ấy đi, chớ giữ làmgì để thêm khổ não.
Tệ-Túc đáp:
– Tôi không bỏ được vì từ khi sinh ra đến giờ, tôi đãđược giảng dạy, học hành, thảo luận, đọc tụng thường xuyên, luyện tập kiên cố,thì đâu bỏ được.
– Những người có trí do dẫn dụ mà hiểu rõ, tôi sẽ vì ôngmà dẫn dụ thêm. Cũng trong thuở xa xưa, có một nước mà người dân ở vùng biêngiới thật điêu tàn; tại một xóm hẻo lánh kia có hai người thanh niên, một anhcó trí, một anh ngu si, họ bàn với nhau: “Tôivà anh, chúng ta cùng nhau vào rừng tìm kiếm cây gai đem về dùng”, và họtính với nhau lúc đi bằng ngả gồ ghề lên dốc khó đi, khi về bằng lối xuống dốcbằng phẳng dễ đi cho tiện việc mang nặng.
Rồi họ cùng đi đến một khu rừng thấy có câygai mọc đầy mặt đất, tức thì họ cùng nhau lấy mỗi người một gánh nặng đem về; khihọ đi ngang qua một chỗ nọ, thấy có đống chỉ gai, người trí nói: “Chỉ gai từ cây gai mà ra, nhỏ nhẹ đáng lấyhơn”. Người ngu nói: “Tôi đã lấy câygai, bó buộc gọn gàng chặt chẽ, nay không bỏ được, anh muốn lấy tuỳ ý”.Bấygiờ chỉ có người trí lấy một gánh chỉ gai và bỏ lại gánh cây gai, hai người lạicùng nhau tiến bước, bỗng họ gặp cây bạch diệp, tiếp theo là họ gặp một đốngđồng, rồi sau họ gặp một đống bạc. Mỗi lần gặp như thế, người trí đều bảo ngườingu nên đổi cây gai để lấy thứ quý hơn, người ngu nhất mực không nghe.
Sau chót,họ gặp một đống vàng, bấy giờ người trí nói: “Nếu không có vàng ta lấy bạc, nếu không có bạc ta lấy đồng, nếu khôngcó đồng ta nên lấy bạch diệp, nếu không có bạch diệp ta nên lấy chỉ gai, nếukhông có chỉ gai, ta mới lấy cây gai, vì cây gai ít giá trị nhất, nhưng tại đâycó rất nhiều vàng, mà vàng là quý nhất. Vậy anh hãy bỏ cây gai, tôi bỏ bạc đểcùng nhau lấy mỗi người một gánh vàng mang về”.Người ngu nói: “Tôi đã lấy cây gai bó buộc cẩn thận, gọnghẽ, chặt chẽ; lại mang đi đã quá xa, tôi không bỏ được, nếu anh có muốn lấy cứtuỳ ý, tôi không muốn lấy vàng”,thế rồi người trí bỏ bạc lấy vàng, mộtgánh nặng mang về.
Khi haingười về đến nhà, bà con biết được người trí lấy được nhiều vàng thì vui mừngđến thăm hỏi, trong khi người ngu mang cây gai về không ai thèm đến hỏi thăm vàcho là người khờ dại nên anh ta buồn tủi khổ sở.
Nếu cứ chấpchặt ý nghĩ sai lầm của mình như người lấy cây gai kia, ông cũng chỉ thêm buồnnão suốt đời mà thôi.
Tệ-Túc nói:
– Tôi không bỏ được những điều đã gắn liền với cuộc đờitôi, vì nhờ những sự tin tưởng tuyệt đối đó mà tôi đã dạy dỗ nhiều người, đemlại nhiều sự lợi ích. Từ Vua-Quan đến hàng Bà-la-Môn tăm tiếng bốn phương đềunghe danh tôi, đều biết rõ tôi là hàng học-giả uyên thâm chủ trương đoạn diệt,không có đời sau, không có tái sinh, và không có quả báo thiện ác.
Tôn-giả ĐạiCa-Diếp bảo:
– Tôi thấy ông thật là cố chấp, tôi đã dẫn giải biết baonhiêu như thế mà ông vẫn khăng khăng một mực không chịu từ bỏ tà kiến ấy, naytôi sẽ dẫn dụ nữa cho ông hiểu: Cũng về thuở xa xưa có một nước nhân dân ở vùngbiên giới thật điêu tàn, lúc đó có hai đoàn thương buôn đi ngang qua vùng hẻolánh này, nhưng hai đoàn đi cách nhau một tháng; vì đường xa nên họ không mangđủ lương thực, và phải mua thêm ở dọc đường.
Khi đi đếnđoạn đường đó, người cầm đầu đoàn thứ nhất nghĩ trong đầu rằng: “Đi đã mấy ngày rồi, sao không có nhà cửachợ búa gì cả, mà số lương thực mang theo đã gần hết, thật là nguy hiểm!”Đoàn thương buôn tiếp tục đi thêm một đoạn đường nữa, bỗng nhiên người trưởngđoàn nhìn thấy một người thân hình to lớn, mặt đen, mình mẩy dính bùn đi từđằng xa đi lại, bèn hỏi:
– Anh từ đâu đi đến đây?
– Tôi từ thôn phiá đằng kia đến đây.
Người ấyvừa nói vừa chỉ tay về hướng phiá trước đoàn thương buôn.
– Chỗ anh ở có củi, nước, gạo, rau không?
– Chỗ tôi ở có gạo, củi, nước, rau, và đủ thứ dư thừa;lúc tôi đi giữa đường gặp trời mưa, nên ở thôn phiá trước kia lại càng có nhiềunước và rau tươi. Nếu trên xe các ông có gạo, củi, nước và rau héo nên bỏ đicho nhẹ xe đi mau hơn, vì tại thôn phiá trước kia cách đây không xa có đủ thứrất rẻ, không cần chở cho nặng xe lâu tới nơi.
Nghe nóinhư thế, người trưởng đoàn cho là phải, bèn bảo các người trong đoàn:
– Chúng ta hãy bỏ đi các thứ gạo, củi, nước, rau đã lâungày để cho xe được nhẹ đi mau tới, vì ở thôn phiá trước có đủ cả, lo gì.
Thế rồi, cảđoàn đều làm theo, và quả thật xe của họ đi mau hơn, nhưng qua một ngày khôngthấy thôn xóm chợ búa, hai ngày, ba ngày, rồi đến năm bảy ngày cũng chẳng thấythôn xóm chợ búa đâu cả! vẫn chỉ là nơi hoang vu, không cây cối, không bóngngười. Cả đoàn thương buôn lâm vào cảnh đói khát mà chết dần hết, thật là tộinghiệp đáng thương!
Về sau đoànthứ hai lên đường, trên đường đi, họ cũng gặp anh chàng mặt đen mình mẩy dínhbùn; người trưởng đoàn cũng hỏi tương tự như người trưởng đoàn thứ nhất đã hỏi,và anh chàng mặt đen cũng trả lời và nói y như hắn đã nói với trưởng đoàn thứnhất, nhưng trưởng đoàn thứ hai bảo mọi người trong đoàn rằng: “Gạo, nước, củi, rau của chúng ta nên giữkỹ, chớ bỏ đi, bao giờ có lương thực mới, rồi sau sẽ bỏ thứ cũ dư thừa cũngkhông muộn, vì sao?, vì lương thực cũ và mới phải được liên tục mới mong quakhỏi nơi hoang vu vắng vẻ này”.Hơn thế nữa, người trưởng đoàn hai còn ralệnh cho mọi người trong đoàn phải tiết kiệm để đủ lương thực ăn trong nhiềungày. Do đó, cả đoàn cứ thế mà đi, họ đi hết một ngày không thấy thôn xóm chợbúa, rồi hai ba ngày, năm bảy ngày, cho đến chín mười ngày cũng chẳng thấy thônxóm chợ búa. Đi thêm mấy ngày nữa, đột nhiên họ thấy xác các người trong đoànthứ nhất chết đã rữa thối dọc đường, trông thật là thảm thương vô cùng!
Như vậy thìông hiểu rằng trưởng đoàn thứ hai vì là người trí tuệ nên cả đoàn thoát khỏi bịtai nạn, ngược lại trưởng đoàn thứ nhất vì là người ngu si, nên gây ra hậu qủatai hại là không những tự giết mình mà còn làm cho cả đoàn người bị chết oanuổng nữa; vậy ông nên nghĩ kỹ mà bỏ tà kiến ấy đi, nếu không chỉ gây khổ nãosuốt đời cho mình, và còn gây khổ não cho người khác nữa, cũng giống như trưởngđoàn thương buôn thứ nhất mà tôi vừa nói.
Bà-la-môn Tệ-Túc đáp:
– Tôi nhất quyết không từ bỏ quan điểm sắt đá của tôi,nếu ai can gián, chỉ làm cho tôi phát bực tức, oán giận mà thôi.
Tôn-giả ĐạiCa-Diếp nói tiếp:
– Về thời xa xưa, có một anh chàng kia đi đến một thônvắng, thấy có nhiều phân khô, bèn lấy cỏ bó lại rồi đội lên đầu mang về để nuôilợn (heo); khi đang đi về, trời đổ mưa lớn, nước chảy xuống đầu mặt, thân ngườianh ta, nhưng vẫn cố đội về, do đó nước phân chảy dính khắp đầu mặt, quần áo.Mọi người trông thấy thế đều chê anh ta là người điên dại ngu si và khuyênrằng: “Thứ phân dơ bẩn ấy, giả thử khôngmưa, trời mát mẻ, cũng không ai đội lên đầu, huống là đội đi giữa trời mưa”.Anh ta nghe nói như vậy thì nổi giận mắng lại rằng: “Các anh là đồ ngu, không biết lợn của ta ở nhà đang đói, nếu các anhlà người hiểu biết dã không nói như thế”.Vậy ông chớ nên giữ chặt sự mêlầm giống như người đội phân kia đã không cám ơn người can gián, mà còn trở lạimắng nhiếc người khác là đồ ngu không hiểu biết.
Bà-la-mônTệ-Túc nói:
– Nếu các ông nói rằng: “Làm lành được sinh lên cõi trời, chết vui hơn là sống”,sao cácông không tự tử, uống thuốc độc mà chết; hoặc nhảy từ lầu cao xuống mà tự vận?,tôi chỉ thấy người nào người ấy đều ham sống sợ chết cả, như thế đủ biết chếtkhông vui hơn sống.
Tôn-giảnói:
– Cũng thuở xưa, tại thôn Tư-ba-Ê này, có một ngườiPhạm-chí trưởng lão, có hai vợ, người vợ cả (vợ lớn) có con đã lớn, người vợ lẽ(vợ nhỏ) mới có thai thì Phạm-chí đó qua đời. Bấy giờ mẹ con người vợ cả đòilấy hết gia tài, người vợ lẽ nói: “Chịhãy chờ một thời gian, tôi sẽ sinh, nếu là con trai thì phải có một phần giatài, nếu là con gái chị đem gả chồng để lấy của hồi môn”.Nhưng mẹ conngười vợ cả nhiều lần đòi lấy hết gia tài, người vợ lẽ nổi giận, lấy dao tự mổbụng mình để coi con trai hay con gái!
Ông thấyđấy, người mẹ tự sát mà chết, lại hại luôn cả đứa con trong bào thai, ông cũnggiống như vậy, đã hại mình, còn hại luôn cả người khác nữa; trái lại, Sa-Mônnào siêng tu, có giới đức đầy đủ, nếu sống lâu ở đời, sẽ đem lại vô lượng lợiích cho Trời và Người, tôi không nói hết được những lợi ích ấy.
Nàybà-la-môn Tệ-Túc, ông hãy lắng nghe tôi nói thí dụ cuối cùng: nếu ông vẫn khônghiểu, tôi sẽ không thuyết pháp cho ông nghe nữa. Một con heo (lợn) lớn, thủlãnh của một bầy heo rừng, nó đi một mình vào con đường nguy hiểm, đi đến giữađường, nó gặp một con cọp (mãnh hổ). Khi heo đã thấy cọp, nó liền nghĩ: “Nếu ta đấu với cọp, nó sẽ giết ta, nếu sợbỏ chạy, thân tộc sẽ khinh dễ ta, vả lại nếu chạy cũng chưa chắc đã thoát chết,không biết làm cách nào để thoát nạn đây?”
Nghĩ xong,nó nói với cọp: “Nếu ngươi muốn đấu thìđấu, nếu không ngươi phải tránh đường để ta đi”,cọp nghe xong bảo heo: “Ta chấp nhận đấu với ngươi chứ không tránhđường cho ngươi đi”.
Heo lạinói: “Này cọp, được rồi, ngươi hãy đợi ởđây một lúc, để ta về mặc áo giáp của tổ-phụ, xong rồi ta sẽ trở lại đây ngayđể quyết đấu với ngươi một trận thí mạng cùi”,cọp nghe rồi liền nghĩ: “Nó chẳng phải địch thủ của ta như loài beo,sư tử, huống là nó mặc áo giáp tổ-phụ của nó ư? Ta chấp nó mặc một trăm áo giápcũng chẳng coi nó ra gì cả”,nghĩ xong, cọp bảo heo: “Ta chấp thuận cho tuỳ ý ngươi đi về mặc áo giáp của tổ phụ ngươi vànhớ mau tới đây đấu với ta”.
Heo liềntrở về nơi hàng ngày của đàn heo ở, lăn mình trên đống phân, làm cho phân dínhcùng khắp mình mẩy đầu mặt, rồi trở lại chỗ cọp nằm đợi chờ, heo nói: “Ngươi muốn đấu hãy đến đây đấu với ta, nếukhông, ngươi phải tránh đường để ta đi”.Sau khi thấy heo như vậy, cọpnghĩ: “Ta thường không ăn sâu bọ tạp nhạpvì uổng hàm răng ta, huống là lại phải đến gần con heo hôi hám bẩn thỉu này”,nghĩ xong, cọp liền bảo heo: “Ta tránhđường cho ngươi đi chứ không muốn đấu với ngươi nữa”.
Cọp nói rồiliền lảng bước đi, khi heo đi qua được rồi, quay về hướng cọp mà nói lớn lênrằng: “Này cọp, ngươi bốn chân, ta cũngbốn chân, hãy đến đấu với ta, sợ gì mà phải bỏ chạy?”Cọp nghe vậy trả lời:“Ngươi lông mọc như rừng, hèn nhất trongcác loài vật, này heo, hãy mau cút đi, mùi hôi thối ta chịu không nổi”.
Heo tự khoenói: “Nước Ma-Kiệt, nước Ương-Già nghe tađấu với ngươi, hãy đến đấu với ta, sợ gì mà phải lảng chạy đi như thế?, đúng làngươi đã sợ sức mạnh và oai phong của ta rồi!”Cọp liền đáp: “Toàn thân dơ bẩn hôi thối, ngươi làm ta lâythối, ngươi muốn cầu thắng, nay ta cho ngươi thắng”.
Tôn giả ĐạiCa Diếp nói tiếp:
– Tôi cũng như thế, để cho ông thắng, đối với quan niệmấy, ông ngoan cố bảo thủ vì tham dục, vì sân hận, vì tà kiến không bao giờ chịutừ bỏ, thì ông sẽ chịu vô số điều khổ dữ về sau.
Lúc đóTệ-Túc vội nói:
– Thưa Tôn-giả, ngay thí dụ đầu tiên về mặt trời, mặttrăng, và tinh tú, tôi đã hiểu rồi, sở dĩ tôi lý luận như thế là vì tôi muốnđược thấy trí-tuệ biện tài của Ngài để thêm vững chắc lòng tin mà thôi, nay tôiđã tín thọ và xin được quy y với Ngài.
Tôn-giả ĐạiCa-Diếp nói:
– Ông chớ quy y với tôi, mà nên quy y với đấng VôThượng-Tôn như tôi đã quy y, nhưng đức Thế-Tôn, Thầy tôi đã diệt độ chưa baolâu.
Ông Tệ-Túcnói:
– Nếu đức Thế-Tôn còn tại thế, chẳng quản gần xa, tôi sẽđến gặp Ngài và quy y lễ bái, nhưng nay đức Thế-Tôn đã diệt độ rồi. Vậy tôi xinquy y đức Thế-Tôn đã diệt độ, xin quy y pháp và đại chúng Tỳ-kheo, xin Ngài hãychấp nhận cho tôi là kẻ Ưu-bà-Tắc ở trong chính pháp; từ nay về sau, trọn đờitôi nguyện không còn làm các điều ác, và chỉ làm các việc lành mà thôi, tôi xinmở đại bố thí cho tất cả.
Tôn-giả nóithêm:
– Nếu sát hại chúng-sanh, đánh đập tôi tớ để mở hội bốthí, điều đó chẳng phải là tạo phúc thanh tịnh, và nếu không sát hại chúng-sanh,không đánh đập tôi tớ để bố thí cho hạng người tà kiến, đó cũng chẳng phải làtạo phúc thanh tịnh. Ví như trên đất khô nhiều sỏi đá sạn mà đem gieo trồngvào, chắc chắn không gặt hái được gì; trái lại nếu mở hội đại thí, mà khônggiết hại chúng-sanh, không hành hạ tôi tớ, đem lòng hoan hỷ mở hội bố thí chohạng người tu phạm hạnh thanh tịnh thì sẽ được nhiều phúc lợi, cũng giống nhưruộng đất tốt, có nước, có phân mà gieo đúng mùa, thời tiết điều hòa, tất nhiênsẽ thu hoạch được nhiều lợi lộc.
Tệ-Túc nói:
– Từ nay về sau, tôi sẽ thường xuyên cúng dàng chúngTăng, và kể từ ngày mai, xin thỉnh Ngài và chúng Tỳ-kheo đến nhà tôi thỉnhchay.
Tôn-giả ĐạiCa-Diếp im lặng nhận lời, ông Tệ-Túc đứng dậy vái chào rồi cùng đoàn người thônTư-ba-Ê ra về.
LỜI BÀN VỀ SỰ CỐ CHẤP QUAN ĐIỂM
Đọc hết cuộc đốithoại, chúng ta thấy rõ tài biện luận (Biệntài vô ngại) của Tôn Giả Đại Ca Diếp, và BàLa Môn Tệ Túc tiêu biểu cho con người cố giữ những điều ông cha truyền lại, bảothủ những điều đã ghi trong Kinh sách, chấp chặt những điều đã được học hành đọctụng, kiêu hãnh tự tôn những gì đã đem dạy người vì sự tin tưởng của mình; khicó người nói khác thì quyết liệt phản đối, dùng mọi lý lẽ biện hộ cho sự tin tưởngcủa mình mà thực ra không có nền tảng trí tuệ.
Từ xưa cho đến ngày nay, nhiềungười giống như Bà La Môn Tệ Túc, cố chấp quan điểm của mình; những người này lợidụng uy thế Tôn Giáo để bảo thủ quan điểm của mình, tạo sự chia rẽ thù nghịch, đưatới giết hại khủng bố chiến tranh, gây ra biết bao đau khổ cho con người. Vô tình hay cố ý, họ đã làm ngược lại những điềuđạo đức, và hậu qủa là vị Giáo Chủ Tôn Giáo của họ đã thất bại trong việc đưanhân loại đến Hạnh phúc an vui…
3)- Tôn-giả Đại Ca-Diếp khởiviệc kết tập Kinh Phật.
Trong việckết tập Kinh Luật, Tôn-giả Đại Ca-Diếp là người khởi xướng đầu tiên, vì sau khiPhật nhập Niết-Bàn ba tháng, Tôn-giả thấy bắt đầu có hiện tượng một vài Tỳ-kheotụng khác nhau, và khác lời giảng của Phật. Tôn-giả thấy nguy cơ Phật pháp cóthể đổ vỡ, nên nói với các vị Thánh Tăng rằng: “Đức Thế-Tôn đã vào Niết-Bàn rồi, tôi khuyên các vị hãy ngồi lại vớinhau để kết tập những lời đức Thế-Tôn đã thuyết pháp, giảng dạy trong gần 50 năm, để truyền bá về sau, và khôngnên để cho giáo pháp của Ngài đoạn diệt mất”. Tôn-giả nói kệ tuyên cáo như sau:
Các đệ tử của Phật,
Chớ Niết-Bàn vội vã,
Vị nào đủ thần thông,
Nên đồng nhau kết tập.
Tôn-giảĐại-Ca-Diếp cùng các vị Thánh Tăng bèn nhờ Vua A-Xà-Thế nước Ma-Kiệt-Đà đứng ratuyên triệu các Tỳ-kheo từ các nơi về, và tổ chức đại hội kết tập những lờigiảng dạy của đức Phật.
Vua A-Xà-Thếvâng lời các vị Thánh Tăng, liền cho rao truyền quảng bá đến nhân dân và cácnước lân bang; Vua cho mời tất cả các vị Thánh Phàm Tăng đến động Thất-Diệp,cũng gọi là hang Tát-Ba-La, thuộc núi Kỳ-Xà-Quật, gần thành Vương-Xá, nướcMa-Kiệt-Đà để góp phần công đức kết tập những lời giảng của đức Phật trong suốtthời gian Ngài còn tại thế.
Vua cho làmcổng, chuẩn bị chu đáo mọi việc cần thiết cho đại hội như trang trí phòng ốc,dựng cột cao lớn treo đại kỳ phướn ngay phiá ngoài cổng động, chăng hoa, đènđuốc v.v… tất cả đều chu toàn. Số người tham dự gồm có ngoài hơn một nghìn vịTỳ-kheo ra, còn có Vua A-Xà-Thế và các Vua lân bang, các quan Đại thần, cácCư-sĩ, và nhân dân các nước tới chứng kiến, tất cả có trên mười nghìn người.
Tôn-giả ĐạiCa-Diếp không những là người khởi xướng, mà còn là người hướng dẫn, đôn đốc, vàđóng góp để hoàn thành các bộ kinh; khi kết tập xong thì Tôn-giả nói vớiTôn-giả A-nan-Đà rằng:
– Ta trụ ở thế gian này chẳng còn bao lâu nữa, nay ta đemChính Pháp của đức Như-Lai phú chúc lại cho Hiền-đệ, vậy Hiền-đệ phải khéo giữgìn để lưu truyền Phật-Pháp về sau, chớ để đoạn tuyệt. Hiền-đệ phải hết lòngtrân trọng mà hộ trì, và lắng nghe bài kệ của ta mà lãnh Pháp:
Pháp vốn pháp bản lai,
Không pháp không phi pháp,
Sao lại trong một pháp,
Có pháp có chẳng pháp.
4)- Tôn-giả Ca-Diếp nhập diệtđịnh chờ Phật Di-Lặc.
Một hôm,Tôn-giả Đại Ca-Diếp thấy đã đến thời xa thế gian, Tôn-giả nhớ lời Vua A-xà-Thếthỉnh cầu là khi nào nhập diệt cho Vua biết, nên Ngài ghé cung Vua để từ biệt ,nhưng khi tới nơi lại không đúng buổi lâm triều, nên Tôn-giả nói với quan giữcửa rằng:
– Ca-Diếp này đã gần đến thời tiết nhập định nơi núiKê-Túc, nên đến đây báo trước cùng Đại-Vương. Hiện nay không được gặp mặt Vuamà yết kiến, vậy xin nhờ quan trình giùm rằng có Ca-Diếp đến từ tạ Đại-Vương.
Nói rồi,Tôn-giả liền từ giã mà đi, khi tới núi Kê-Túc, Tôn-giả đi thẳng vào hònTam-Nhạc, rồi kết cỏ làm nệm mà ngồi kiết-già; trong khi tĩnh tọa, Tôn-giả phátra lời thệ nguyện rằng: “Xác thân ta mặcáo Cà-Sa do đức Thế-Tôn ban cho, còn tay ta bưng giữ Bình Bát mà ngồi tronghang đá này; từ nay cho đến khi đức Di-Lặc giáng sinh, ta nguyện xin không mụcrã, để cho tất cã đệ-tử của Ngài đều được trông thấy thân ta và Bình Bát này”.
Khi phátnguyện xong, đất tự nhiên rung động, Tôn-giả nhập định rồi, có những vị Trờiđem hoa thơm qúy lạ ở cõi Trời rải xuống.
VuaA-xà-Thế, ngủ mơ màng, bỗng nhiên thấy cây đòn dông trên nóc cung điện tự nhiênrớt xuống gẫy nát, thì giật mình tỉnh dậy; lúc Vua biết là chiêm bao, nên tronglòng đâm ra kinh sợ vì không biết là điềm gì sẽ xảy ra. Sau đó quan Thủ-môn vàotrình việc Tôn-giả Đại Ca-Diếp đến báo với Vua việc vào núi Kê-Túc để nhậpđịnh, Vua hay tin ấy, trong lòng buồn bã, bèn sai người đi thỉnh Tôn-giảA-nan-Đà, và truyền chỉ chuẩn bị xe giá, hương hoa, rồi cùng Tôn-giả A-nan-Đàđến núi Kê-Túc.
Khi Vua và Tôn-giả A-nan-Đà vừa tới nơi,hai vị bước vào, cúng dàng lễ bái, âu sầu thảm thiết; hai người đứng nhìn chândung hình hài Ngài Ca-Diếp ngồi kiết-già, một hồi lâu hai người mới chịu luigót ra về, vừa ra khỏi cửa hang, tự nhiên miệng hang núi từ từ khép kín lại, đểcho bao đời sau chiêm bái núi Kê-Túc..,.
Toàn Không
Nguồn : Source link
Hits: 39