XUẤT XỨ CỦA LỄ DÂNG Y KATHINA
Hằng năm vào ngày rằm tháng 9 (âm lịch), khắp mọi nơi trên các nước Phật giáo Nguyên Thủy Theravàda, chư Tỳ khưu Tăng sau khi làm đại lễ Pavāraṇā (lễ thỉnh mời nhắc nhở lỗi lẫn nhau) xong; bắt đầu ngày 16 tháng 9 cho đến ngày rằm tháng 10, trong suốt 30 ngày ấy, tất cả mọi người Phật tử tại gia là cận sự nam, cận sự nữ nô nức chuẩn bị làm lễ dâng y kathina đến chư Tỳ khưu Tăng đã an cư nhập hạ suốt 3 tháng mùa mưa, tại mỗi ngôi chùa hoặc một nơi thanh vắng trong rừng núi. Lễ dâng y kathina là một nghi lễ theo truyền thống trong Phật giáo từ ngàn xưa cho đến nay.
Trong đời, có số truyền thống bắt nguồn từ thời gian nào, do một vị nào khởi xướng đầu tiên khó mà biết được, cho nên người ta thường nói: “Xưa bày nay làm”. Nhưng truyền thống lễ dâng y kathina đến chư Tỳ khưu Tăng có xác định thời gian bắt đầu rõ ràng:
Trong Tạng Luật, bộ Mahāvagga, phần Kathinakkhandhaka ghi rõ về tích chuyện bắt đầu Đức Phật cho phép Tỳ khưu thọ y kathina như sau:
Một thuở nọ, Đức Thế Tôn đang ngự tại ngôi chùa Jetavana của ông phú hộ Anàthapindika gần kinh thành Sàvatthi. Khi ấy nhóm 30 vị Tỳ khưu xứ Pàveyya([1]) đều thọ hạnh đầu đà như: Hạnh đầu đà ở trong rừng, hạnh đầu đà đi khất thực, hạnh đầu đà thọ taṃ y,… Quý Ngài đều có ý định đi đến hầu đảnh lễ Đức Thế Tôn tại ngôi chùa Jetavana. Trên đường đi chưa đến kinh thành Sàvatthi, quý Ngài mới đến xứ Sàketa, thì nhằm vào ngày 16 tháng 6 (âm lịch) là ngày chư Tỳ khưu phải an cư nhập hạ tại một nơi cố định suốt 3 tháng mùa mưa. Cho nên, quý Ngài đành phải an cư nhập hạ suốt 3 tháng mùa mưa tại xứ Sàketa, mà tâm của quý Ngài luôn luôn hướng về Đức Thế Tôn, quý Ngài thường nói với nhau rằng:
“Đức Thế Tôn đang ngự tại ngôi chùa Jetavana gần kinh thành Sàvatthi, khoảng cách chỗ ở của chúng ta chỉ có 6 do tuần([2]), nhưng chúng ta không thể đến hầu đảnh lễ Đức Thế Tôn được”.
1- Khi qua 3 tháng mùa mưa, vào ngày rằm tháng 9 (âm lịch), quý Ngài làm đại lễ Pavàranà (Lễ thỉnh mời nhắc nhở lỗi lẫn nhau) xong, sáng ngày hôm sau (16 tháng 9), quý Ngài tiếp tục lên đường đi đến kinh thành Sàvatthi. Mặc dù tháng cuối mùa mưa([3]) trời vẫn còn mưa nhẹ hột, trên đường có những vũng nước đầy, đường xá lầy lội, quý Ngài mặc trên thân mình bộ y bị ướt đẫm và dính đầy sình lầy, thân phải chịu vất vả, đi đến ngôi chùa Jetavana vào hầu đảnh lễ Đức Thế Tôn xong, ngồi một nơi hợp lẽ.
Đức Thế Tôn truyền hỏi chư Tỳ khưu rằng:
– “Này các con, các con có kham nhẫn được không?
Các con có điều hòa thân tứ đại này được không?
Các con sống với nhau hòa hợp, đồng tâm nhất trí, không cãi cọ lẫn nhau, sống an cư nhập hạ được an lạc trong suốt 3 tháng mùa mưa phải không?
Hằng ngày các con đi khôngất thực không vất vả lắm phải không?”
Chư Tỳ khưu bạch với Đức Thế Tôn rằng:
– “Kính bạch Đức Thế Tôn, chúng con đều kham nhẫn được; chúng con có thể điều hoà thân tứ đại này được; chúng con sống với nhau hòa hợp, đồng tâm nhất trí, không cãi cọ lẫn nhau, sống an cư nhập hạ được an lạc trong suốt 3 tháng mùa mưa. Hằng ngày chúng con đi khôngất thực không vất vả. Bạch Ngài.
Kính bạch Đức Thế Tôn, chúng con 30 người xứ Pàveyya đều có ý định đi đến hầu đảnh lễ Đức Thế Tôn, sau đó sẽ an cư nhập hạ suốt 3 tháng mùa mưa tại kinh thành Sàvatthi. Khi chúng con đến xứ Sàketa, thì nhằm vào ngày 16 tháng 6, chúng con đành phải an cư nhập hạ suốt 3 tháng mùa mưa tại đó, mà tâm của chúng con luôn luôn hướng về Đức Thế Tôn, chúng con thường nói với nhau rằng:
‘Đức Thế Tôn đang ngự tại ngôi chùa Jetavana gần kinh thành Sàvatthi, khoảng cách chỗ ở của chúng ta chỉ có 6 do tuần, nhưng chúng ta không thể đến hầu đảnh lễ Đức Thế Tôn được’.
Khi qua 3 tháng mùa mưa, vào ngày rằm tháng 9 chúng con làm đại lễ Pavàranà xong, sáng ngày hôm sau (16 tháng 9) tất cả chúng con tiếp tục lên đường đến hầu Đức Thế Tôn.”
Đức Phật Cho Phép Chư Tăng Thọ Y Kathina
Khi ấy, Đức Thế Tôn thuyết pháp tế độ nhóm 30 vị Tỳ khưu xứ Pàveyya, sau khi lắng nghe Đức Thế Tôn thuyết pháp, quý Ngài đều chứng đắc thành bậc thánh Arahán.
Nhóm 30 vị Tỳ khưu xứ Pàveyya là nguyên nhân bắt nguồn đầu tiên Đức Thế Tôn cho phép chư Tỳ khưu, sau khi đã an cư nhập hạ suốt 3 tháng mùa mưa, được thọ y kathina. Đức Phật dạy rằng:
Này chư Tỳ khưu, Như Lai cho phép chư Tỳ khưu đã an cư nhập hạ suốt 3 tháng mùa mưa xong, được thọ y kathina.
Này chư Tỳ khưu, Tỳ khưu đã thọ y kathina xong rồi, sẽ được hưởng đặc ân 5 quả báu là:
1- Khi được thỉnh mời, vị Tỳ khưu ấy có thể ra khôngỏi chùa, mà không báo vị Tỳ khưu khác biết. (không phạm giới).
2- Vị Tỳ khưu ấy không giữ gìn đủ taṃ y (không phạm giới).
3- Vị Tỳ khưu ấy được dùng vật thực cùng nhóm (4 vị Tỳ khưu trở lên), dù thí chủ gọi tên vật thực ấy (không phạm giới).
4- Vị Tỳ khưu thọ nhận y dư (ngoài taṃ y) cất giữ quá 10 đêm (không phạm giới).
5- Y phát sinh nơi nào, Tỳ khưu được phép thọ nhận nơi ấy.
Này chư Tỳ khưu, Tỳ khưu đã thọ y kathina xong rồi, sẽ được hưởng đặc ân 5 quả báu này([4]).
Sau khi đã làm lễ thọ y kathina của chư Tăng xong, Tỳ khưu nào đã nói lên lời hoan hỷ lễ thọ y kathina của chư Tăng, không thay đổi chỗ ở, dù đi nơi nào, tâm vẫn lưu luyến, ràng buộc với ngôi chùa cũ (chỗ đã an cư nhập hạ), vị Tỳ khưu ấy được hưởng đặc ân 5 quả báu ấy suốt 5 tháng, kể từ ngày 16 tháng 9 cho đến ngày rằm tháng 2, hết hạn quả báu kathina.
Nếu chư Tỳ khưu Tăng không làm lễ thọ y kathina, cũng không làm lễ hoan hỷ y kathina của chư Tăng, thì chư Tỳ khưu ấy chỉ được hưởng đặc ân 5 quả báu trong 1 tháng, kể từ ngày 16 tháng 9 cho đến rằm tháng 10, hết hạn quả báu.
Như vậy, sự thật rõ ràng là Đức Phật cho phép chư Tỳ khưu Tăng, sau khi đã an cư nhập hạ suốt 3 tháng mùa mưa, được thọ y kathina. Cho nên, lễ dâng y kathina trở thành truyền thống của Phật giáo từ thời kỳ Đức Phật mãi cho đến nay.
Đức Phật Gotaṃa cho phép Tỳ khưu Tăng được thọ y kathina từ thời gian nào?
Từ khi Đức Phật Gotaṃa xuất hiện trên thế gian cho đến khi Đức Phật tịch diệt Niết Bàn có 45 hạ (vassa: năm). Vào hạ thứ 14, Đức Phật cùng chư Tỳ khưu Tăng an cư nhập hạ tại ngôi chùa Jetavana của ông phú hộ Anàthapindika, gần kinh thành Sàvatthi. Sau khi ra hạ, nhóm 30 vị Tỳ khưu xứ Pàveyya đến hầu đảnh lễ Đức Thế Tôn tại ngôi chùa Jetavana. Chính nhóm 30 vị Tỳ khưu xứ Pàveyya là nguyên nhân bắt nguồn đầu tiên, Đức Thế Tôn cho phép chư Tỳ khưu Tăng sau khi đã an cư nhập hạ suốt 3 tháng mùa mưa, được thọ y kathina.
Như vậy, lễ dâng y kathina bắt đầu từ sau hạ thứ 14 của Đức Phật và được lưu truyền trở thành truyền thống của Phật giáo mãi cho đến nay.
Y Kathina Không Thành Tựu và Thành Tựu
Thời xưa, những thí chủ dâng vải đến chư Tỳ khưu Tăng để may y, cho nên, may y là công việc của chư Tỳ khưu. Đặc biệt vải may y kathina phát sinh một cách hoàn toàn trong sạch và cao quý. Trong Tạng Luật bộ Mahāvagga, phần Kathinakkhandhaka, Đức Phật quy định có 24 trường hợp vải may y làm lễ thọ y kathina không thành tựu và 17 trường hợp vải may y làm lễ thọ y kathina được thành tựu.
* Lễ Thọ Y Kathina Không Thành Tựu
Đức Phật dạy:
– Này chư Tỳ khưu, 24 trường hợp phát sinh vải may y làm lễ thọ y kathina không thành tựu như sau:
1- Tấm vải chỉ vạch đường ngang đường dọc để cắt: Làm lễ thọ y kathina không thành tựu.
2- Tấm vải mới giặt: Làm lễ thọ y kathina không thành tựu.
3- Tấm vải mới được chia 5 điều hoặc 7 điều chưa may thành y: Làm lễ thọ y kathina không thành tựu.
4- Tấm vải được cắt rời từng điều chưa may thành y: Làm lễ thọ y kathina không thành tựu.
5- Tấm y mới được ráp vào: Làm lễ thọ y kathina không thành tựu.
6- Tấm y đang được may chưa xong: Làm lễ thọ y kathina không thành tựu.
7- Tấm y được may hai thành đứng hai bên chưa xong: Làm lễ thọ y kathina không thành tựu.
8- Tấm y được may ráp các điều vào chưa xong: Làm lễ thọ y kathina không thành tựu.
9- Tấm y được may hai thành y trên và dưới chưa xong: Làm lễ thọ y kathina không thành tựu.
10- Tấm y mới được may chỗ cột dây (y chưa xong): Làm lễ thọ y kathina không thành tựu.
11- Tấm y mới được kết gút (y chưa xong): Làm lễ thọ y kathina không thành tựu.
12- Tấm y nhuộm màu còn nhạt: Làm lễ thọ y kathina không thành tựu.
13- Tấm vải may y có được do vị Tỳ khưu biểu lộ bằng lời nói cho thí chủ biết: Làm lễ thọ y kathina không thành tựu.
14- Tấm vải may y có được do vị Tỳ khưu nói trực tiếp hoặc gián tiếp với thí chủ: Làm lễ thọ y kathina không thành tựu.
15- Tấm vải may y được mượn của người khác: Làm lễ thọ y kathina không thành tựu.
16- Tấm vải may y kathina, vị Tỳ khưu nhận xong cất giữ qua đêm: Làm lễ thọ y kathina không thành tựu.
17- Tấm vải may y kathina may chưa xong đã qua rạng đông (sang ngày khác): Làm lễ thọ y kathina không thành tựu.
18- Tấm y chưa làm dấu tròn kappabindu: Làm lễ thọ y kathina không thành tựu.
19- Tấm y không phải là y 2 lớp (saṃghāti): Làm lễ thọ y kathina không thành tựu.
20- Tấm y không phải là y vai trái (uttarasaṅga): Làm lễ thọ y kathina không thành tựu.
21- Tấm y không phải là y nội (antaravāsaka): Làm lễ thọ y kathina không thành tựu.
22- Tấm y không cắt may thành 5 điều hoặc 7 điều: Làm lễ thọ y kathina không thành tựu.
23- Không phải là vị Tỳ khưu: Làm lễ thọ y kathina thì không thành tựu.
24- Tỳ khưu thọ y kathina bên ngoài sìmà (ngoài phạm vi) và chư Tỳ khưu nói lời hoan hỷ: Lễ kathina không thành tựu.
– Này chư Tỳ khưu, đó là 24 trường hợp phát sinh vải may y làm lễ thọ y kathina không thành tựu.
* Lễ Thọ Y Kathina Được Thành Tựu
Đức Phật dạy:
– Này chư Tỳ khưu, 17 trường hợp phát sinh vải may y làm lễ thọ y kathina được thành tựu như sau:
1- Tấm vải còn mới may thành y: Làm lễ thọ y kathina được thành tựu.
2- Tấm vải giặt rồi còn mới may thành y: Làm lễ thọ y kathina được thành tựu.
3- Tấm vải cũ may thành y: Làm lễ thọ y được kathina được thành tựu.
4- Lượm lặt những tấm vải dơ (paṃsukūlacīvara) may thành y: Làm lễ thọ y kathina được thành tựu.
5- Lượm lặt vải người ta xả bỏ may thành y: Làm lễ thọ y kathina được thành tựu.
6- Tấm vải may y có được không phải do vị Tỳ khưu biểu lộ bằng lời nói cho thí chủ, may thành y: Làm lễ thọ y kathina được thành tựu.
7- Tấm vải may y có được không phải do vị Tỳ khưu nói trực tiếp hoặc gián tiếp với thí chủ, may thành y: Làm lễ thọ y kathina được thành tựu.
8- Tấm vải may y có được không phải mượn của người khác, may thành y: Làm lễ thọ y kathina được thành tựu.
9- Tấm vải may y kathina mà vị Tỳ khưu may thành y xong, không cất giữ qua đêm: Làm lễ thọ y kathina được thành tựu.
10- Tấm y kathina may hoàn thành xong trước lúc rạng đông (chưa qua ngày khác): Làm lễ thọ y kathina được thành tựu.
11- Tấm y đã làm dấu tròn nhỏ kappabindu xong: Làm lễ thọ y kathina được thành tựu.
12- Tấm y ấy là y 2 lớp (saṃghāti): Làm lễ thọ y kathina được thành tựu.
13- Tấm y ấy là y vai trái (uttarasaṅga): Làm lễ thọ y kathina được thành tựu.
14- Tấm y ấy là y nội (antaravāsaka): Làm lễ thọ y kathina được thành tựu.
15- Tấm y cắt may đủ 5 điều (hoặc 7 điều) làm xong trong ngày: Làm lễ thọ y kathina được thành tựu.
16- Vị Tỳ khưu là người làm lễ thọ y (không phải nhóm hoặc chư Tỳ khưu Tăng): Làm lễ thọ y kathina được thành tựu.
17- Tỳ khưu làm lễ thọ y kathina bên trong sìmà và chư Tỳ khưu Tăng nói lời hoan hỷ: Lễ thọ y kathina được thành tựu.
– Này chư Tỳ khưu, đó là 17 trường hợp phát sinh vải may y làm lễ thọ y kathina được thành tựu.
Lễ Dâng Y Kathina Thời Xưa và Thời Nay
Trong thời xưa, thí chủ làm lễ dâng vải may y kathina (kathinadussa) đến chư Tỳ khưu Tăng đã an cư nhập hạ suốt 3 tháng mùa mưa. Sau khi thọ nhận vải may y kathina xong, chư Tỳ khưu Tăng hội họp tại sìmà, tuyển chọn một vị Tỳ khưu nào xứng đáng, hiểu biết rõ 8 chi pháp mà Đức Phật đã chế định và ban hành đến chư Tỳ khưu Tăng. Chư Tỳ khưu Tăng làm lễ hành Tăng sự tụng Ĩattidutiyakaṃmavācā trao tấm vải may y kathina đến cho vị Tỳ khưu đã được chọn ấy.
Việc may y để làm lễ thọ y kathina rất quan trọng và cần kíp, bởi vì tấm y cần phải được may xong trong ngày hôm ấy, để làm lễ thọ y kathina trước lúc rạng đông. Nếu tấm y may chưa xong, trễ sang ngày hôm sau, thì không thể làm lễ thọ y kathina với tấm y ấy được. Vì vậy, tất cả chư Tỳ khưu trong ngôi chùa, bất luận là vị Tỳ khưu nào đều phải tập hợp chung, lo may cho xong một tấm y, để kịp làm lễ thọ y kathina hợp pháp của chư Tăng. Cho nên, mỗi vị Tỳ khưu mỗi việc, trước tiên, vạch đường ngang đường dọc, cắt tấm vải thành tấm y 2 lớp (saṃghāti), hoặc y vai trái (uttarasaṅga), hoặc y nội (antaravāsaka), tất cả chư Tỳ khưu, mỗi vị lo may mỗi phần, ráp vào thành tấm y rồi nhuộm cho đúng màu mà Đức Phật đã chế định. Vị Tỳ khưu kính thỉnh chư Tỳ khưu Tăng đã an cư nhập hạ suốt 3 tháng mùa mưa tại trong ngôi chùa ấy hội họp lại, để cho vị Tỳ khưu đã được tuyển chọn làm lễ thọ y kathina của chư Tăng với tấm y ấy xong, tiếp theo vị Tỳ khưu ấy thỉnh mời tất cả chư Tỳ khưu Tăng đồng thanh nói lên lời hoan hỷ lễ thọ y kathina hợp pháp của chư Tăng. Tất cả chư Tỳ khưu Tăng đồng thanh nói lên lời hoan hỷ lễ thọ y kathina hợp pháp của chư Tăng.
Sau khi làm lễ thọ y kathina của chư Tăng xong, nếu vị Tỳ khưu nào tâm không muốn từ bỏ ngôi chùa cũ, thì vị Tỳ khưu ấy hưởng được đặc ân 5 quả báu, kể từ ngày 16 tháng 9 cho đến ngày rằm tháng 2 (suốt 5 tháng) mới hết quả báu của kathina.
Trong thời nay, phần đông thí chủ không làm lễ dâng vải may y kathina, mà dâng y kathina (kathinacīvara), tấm y đã may sẵn, đến chư Tỳ khưu Tăng đã an cư nhập hạ suốt 3 tháng mùa mưa tại trong ngôi chùa ấy. Cho nên, tất cả chư Tỳ khưu không bận rộn chung lo công việc may y, để làm lễ thọ y kathina. Sau khi thọ nhận tấm y kathina xong, chư Tỳ khưu Tăng hội họp tại sìmà, tuyển chọn một vị Tỳ khưu nào xứng đáng, hiểu biết rõ 8 chi pháp mà Đức Phật đã chế định và ban hành đến chư Tỳ khưu Tăng. Chư Tỳ khưu Tăng làm lễ hành Tăng sự tụng Ĩattidutiyakaṃmavācā trao tấm y kathina đến cho vị Tỳ khưu đã được chọn ấy.
Vị Tỳ khưu ấy làm lễ thọ y kathina của chư Tăng với tấm y ấy, và thỉnh mời chư Tỳ khưu Tăng đồng thanh nói lên lời hoan hỷ lễ thọ y kathina hợp pháp của chư Tăng. Chư Tỳ khưu Tăng đồng thanh nói lên lời hoan hỷ lễ thọ y kathina hợp pháp của chư Tăng.
Sau khi làm lễ thọ y kathina của chư Tăng xong rồi, nếu vị Tỳ khưu nào tâm không muốn từ bỏ ngôi chùa cũ, thì vị Tỳ khưu ấy hưởng được đặc ân 5 quả báu, kể từ ngày 16 tháng 9 cho đến rằm tháng 2 (suốt 5 tháng) mới hết quả báu của kathina.
* Tấm y kathina như thế nào?
Tấm y kathina được phát sinh một cách hoàn toàn trong sạch, do thiện tâm trong sáng của thí chủ. Nếu vải may y kathina (kathinadussa) hoặc tấm y kathina (kathinacīvara) được phát sinh không hợp pháp, bởi do một nguyên nhân, một trong những trường hợp mà Đức Phật đã quy định, thì nghi lễ thọ y kathina chắc chắn không thành tựu, và tất cả chư Tỳ khưu Tăng cũng không hưởng được đặc ân 5 quả báu của kathina.
Ví du:
Nếu có vị Tỳ khưu nào tự mình biểu lộ bằng lời nói để cho thí chủ biết, để làm lễ dâng y kathina, hoặc Tỳ khưu gián tiếp nói với thí chủ rằng:
“Tấm vải này làm lễ dâng y kathina được” hoặc “Thí chủ làm lễ dâng y kathina được nhiều phước thiện thanh cao” v.v… Khi nghe Tỳ khưu động viên khuyến khích như vậy, thí chủ xin làm lễ dâng y kathina đến chư Tỳ khưu Tăng, thì tấm y kathina ấy phát sinh không hợp pháp, vị Tỳ khưu làm lễ thọ y kathina với tấm y ấy chắc chắn không thành tựu lễ thọ y kathina, và tất cả chư Tỳ khưu Tăng cũng không hưởng được đặc ân 5 quả báu của kathina.
Trong chú giải bộ Luật Mahāvagga dạy rằng:
“Kathinaṃ nāma ati ukkaṭṭham vaṭṭati, mātaraṃpi viññāpetuṃ na vaṭṭati, ākāsato otiṇṇasadisameva vaṭṭati”([5]).
“Gọi tấm y kathina là tấm y được phát sinh một cách hoàn toàn trong sạch và cao quý tuyệt vời, cho nên Tỳ khưu làm lễ thọ y kathina không được phép xin tấm y, dù người thí chủ ấy là mẫu thân của mình. Tấm y Kathina nên được phát sinh một cách hoàn toàn trong sạch, ví như từ trên hư không rơi xuống”.
Thật ra, Đức Phật cho phép Tỳ khưu có thể xin 4 thứ vật dụng (y phục, vật thực, chỗ ở, thuốc trị bệnh) từ mẫu thân, phụ thân và những người thân quyến có thỉnh mời trước, thậm chí từ thí chủ có thỉnh mời trước.
Ví dụ:
“Kính bạch Ngài Đại đức, khi Ngài cần thứ vật dụng nào, kính xin Ngài nói cho con biết, con sẽ dâng thứ vật dụng ấy đến cho Ngài”.
Nhưng về y kathina, Tỳ khưu không được phép xin trực tiếp hoặc gián tiếp, hoặc biểu lộ bằng lời nói cho thí chủ biết, để làm lễ dâng y kathina đến chư Tỳ khưu Tăng, dù thí chủ đó là mẫu thân, phụ thân của mình, huống gì những thí chủ khác. Bởi vì, y kathina phải được phát sinh một cách hoàn toàn trong sạch và cao quý (kathinaṃ nāma ati ukkaṭṭhaṃ).
* Kathina nghĩa là gì?
Danh từ kathina có nhiều nghĩa, trong bộ Vimativinodanīṭīkā, bộ Vajirabuddhiṭīka định nghĩa rằng:
“Kathinan’ti pañcānisaṃse anto karanasamatthatāya thiranti attho”.
Kathina: nghĩa là “vững chắc” bởi vì có khả năng làm cho 5 quả báu được duy trì trong suốt khoảng thời gian 5 tháng kể từ ngày 16 tháng 9 cho đến ngày rằm tháng 2, hết quả báu của kathina.
* Tấm y kathina là tấm y nào?
Đức Phật chế định cho phép nhiều loại y như:
– Tấm y 2 lớp là tấm y dùng để đắp mùa lạnh, gọi là tấm y saṃghāti.
– Tấm y vai trái là tấm y mặc che phủ từ cổ xuống dưới đầu gối 4 lóng tay, gọi là tấm y uttarasaṅga.
– Tấm y nội là tấm y mặc che phủ trên lỗ rún xuống dưới đầu gối 8 lóng tay, gọi là tấm y antaravāsaka.
– Tấm y tắm mưa là tấm y dùng để tắm trong mùa mưa, gọi là tấm y vassikasàtika.
– Các tấm y phụ là những tấm y mặc thay cho tấm y trên, gọi là y cìvaraparikkhà-racola.
Trong các loại y trên, Đức Phật cho phép tấm y để làm lễ thọ kathina là 1 trong 3 tấm y: Tấm y saṃghāti, hoặc tấm y uttarasaṅga, hoặc tấm y antaravāsaka, còn lại các tấm y khác không thể làm lễ dâng y kathina được.
Tấm Y Thường Dùng Với Tấm Y Kathina
* Tấm y thường dùng gồm các tấm y như tấm y saṃghāti, tấm y uttarasaṅga, tấm y antaravāsaka, các tấm y cìvaraparikkhàracola, v.v… mà vị Tỳ khưu có thể xin từ mẫu thân, phụ thân, bà con thân quyến đã từng thỉnh mời, thậm chí có thể xin từ thí chủ đã từng thỉnh mời rằng:
“Kính bạch Ngài Đại đức, khi Ngài cần tấm y nào, kính xin Ngài nói cho con biết, con sẽ dâng tấm y ấy đến cho Ngài”.
Như vậy, khi nào vị Tỳ khưu cần đến y, có thể đến xin y từ người thí chủ ấy, mà không có lỗi.
* Tấm y kathina chỉ là 1 trong 3 tấm y: Tấm y saṃghāti, hoặc tấm y uttarasaṅga, hoặc tấm y antaravāsaka mà Đức Phật cho phép chư Tỳ khưu đã an cư nhập hạ suốt 3 tháng trong mùa mưa, được phép làm lễ thọ y kathina.
Tấm y kathina này được phát sinh một cách hoàn toàn trong sạch do thiện tâm trong sạch của thí chủ; tấm y kathina có được không phải do vị Tỳ khưu biểu lộ bằng lời nói để cho thí chủ biết, hoặc xin trực tiếp hoặc gián tiếp từ thí chủ.
Trong chú giải Tạng Luật, bộ Mahāvagga atthakathā dạy rằng:
“Animittakatena atthataṃ hoti kathinaṃ, aparikathākatena atthataṃ hoti kathinaṃ”([6])
“Vị Tỳ khưu làm lễ thọ y kathina với tấm y không phải biểu lộ bằng lời nói để cho thí chủ biết, hoặc vị Tỳ khưu làm lễ thọ y kathina với tấm y không trực tiếp hoặc gián tiếp nói xin thí chủ”.
Bởi vì tấm y kathina phải được phát sinh một cách hoàn toàn trong sạch và cao quý, không do Tỳ khưu động viên khuyến khích thí chủ làm lễ dâng y kathina.
Thật vậy, trong Chú giải Tạng Luật dạy rằng:
“Kathinaṃ nāma ati ukkaṭṭhaṃ vaṭṭati, màtaraṃpi vinnàpetum na vaṭṭati, ākāsato otinnasadisameva vaṭṭati”.(2)
“Gọi tấm y kathina là tấm y được phát sinh một cách hoàn toàn trong sạch và cao quý tuyệt vời, cho nên, Tỳ khưu làm lễ thọ y kathina không được phép xin tấm y, dù người thí chủ ấy là mẫu thân của mình. Tấm y kathina nên được phát sinh một cách hoàn toàn trong sạch, ví như từ trên hư không rơi xuống”.
Thời Gian Dâng Y Thường Dùng Với Dâng Y Kathina
* Thời gian dâng y thường dùng
Trong một năm có 12 tháng, thí chủ có thể làm lễ dâng y thường dùng bất cứ tháng nào, ngày nào, giờ nào, không hạn định, không bắt buộc, hoàn toàn tuỳ ý của thí chủ. Còn chư Tỳ khưu có thể thọ nhận y mà thí chủ đem đến làm lễ dâng y thường dùng bất cứ thời gian nào, cũng không hạn định.
* Thời gian dâng y kathina
Trong một năm có 12 tháng, Đức Phật cho phép chư Tỳ khưu đã an cư nhập hạ suốt 3 tháng trong mùa mưa xong rồi, chư Tỳ khưu Tăng ấy được phép thọ y kathina, bắt đầu từ ngày 16 tháng 9 cho đến ngày rằm tháng 10. Trong khoảng thời gian 30 ngày ấy, chỉ có một ngày, đối với chư Tỳ khưu đã an cư nhập hạ tại một ngôi chùa, hoặc tại một nơi chốn nào đó, chư Tỳ khưu ấy chỉ được phép một lần thọ nhận y kathina, mà thí chủ đem đến làm lễ dâng y kathina mà thôi; còn lại 29 ngày khác, chư Tỳ khưu ấy không được phép thọ nhận y kathina nữa.
Còn thí chủ có thể làm lễ dâng y kathina đến chư Tỳ khưu Tăng đã an cư nhập hạ suốt 3 tháng trong mùa mưa, kể từ ngày 16 tháng 9 cho đến ngày rằm tháng 10. Trong khoảng thời gian 30 ngày hay 1 tháng ấy, thí chủ có thể làm lễ dâng y kathina, còn 11 tháng còn lại, thí chủ không thể làm lễ dâng y kathina được.
Chỗ Ở Được Dâng Y Thường Dùng Với Dâng Y Kathina
Chỗ ở được dâng y thường dùng
Là chỗ ở của chư Tỳ khưu, như một ngôi chùa, hoặc một nơi thanh vắng trong rừng núi, hang động, hoặc tại nhà thí chủ, v.v… Thí chủ có đức tin trong sạch đem các tấm y đến làm lễ dâng y thường dùng đến chư Tỳ khưu Tăng (saṃghikadāna) hoặc cá nhân Tỳ khưu (paṭipuggalikadāna) tại nơi ấy, bao nhiêu lần trong một năm, trong một tháng, trong một ngày cũng được, không hạn chế.
Chỗ ở được dâng y kathina
Là chỗ ở mà chư Tỳ khưu đã an cư nhập hạ suốt 3 tháng trong mùa mưa tại một ngôi chùa hoặc một nơi thanh vắng trong rừng núi, hang động, v.v… Thí chủ có đức tin trong sạch đem một tấm y đến làm lễ dâng y kathina đến chư Tỳ khưu Tăng (saṃghikadāna), không phải đến cá nhân Tỳ khưu (paṭipuggalikadāna). Tại nơi ấy, chư Tỳ khưu Tăng được phép thọ nhận y kathina của thí chủ chỉ có một lần trong một ngày nào trong khoảng thời gian kể từ ngày 16 tháng 9 cho đến ngày rằm tháng 10 là hết hạn dâng y kathina.
Cách Dâng Y Thường Dùng Với Dâng Y Kathina
Bố thí (dâng) có 2 cách:
1- Paṭipuggalikadāna: Dâng đến cá nhân.
2- Saṃghikadāna: Dâng đến chư Tỳ khưu Tăng.
Dâng (bố thí) đến cá nhân có 14 trường hợp:
Trong kinh Dakkhiṇāvibhaṅgasutta, Đức Phật dạy làm phước dâng đến cá nhân có 14 trường hợp như sau:
1- Dâng cúng dường đến Đức Phật Chánh Đẳng Giác.
2- Dâng cúng dường đến Đức Phật Độc Giác.
3- Dâng cúng dường đến bậc Thánh Arahán.
4- Dâng cúng dường đến bậc Thánh Bất Lai đang thực hành thiền tuệ để chứng đắc thành bậc Thánh Arahán.
5- Dâng cúng dường đến bậc Thánh Bất Lai.
6- Dâng cúng dường đến bậc Thánh Nhất Lai đang thực hành thiền tuệ để chứng đắc thành bậc Thánh Bất Lai.
7- Dâng cúng dường đến bậc Thánh Nhất Lai.
8- Dâng cúng dường đến bậc Thánh Nhập Lưu đang thực hành thiền tuệ để chứng đắc thành bậc Thánh Nhất Lai.
9- Dâng cúng dường đến bậc Thánh Nhập Lưu.
10- Dâng cúng dường đến hành giả đang thực hành thiền tuệ để chứng đắc thành bậc Thánh Nhập Lưu.
11- Làm phước cúng dường đến hành giả ngoài Phật giáo, vị ấy đã chứng đắc các bậc thiền hữu sắc, thiền vô sắc, có ngũ thông.
12- Làm phước cúng dường đến hạng phàm nhân có giới trong sạch như Tỳ khưu, Sadi, cận sự nam, cận sự nữ, …
13- Làm phước bố thí đến hạng người không có giới.
14- Làm phước bố thí đến các loài súc sinh.
Dâng cúng dường đến chư Tăng có 7 trường hợp:
Trong kinh Dakkhiṇāvibhaṅgasutta, Đức Phật dạy dâng cúng dường đến chư Tỳ khưu Tăng có 7 trường hợp như sau:
1- Dâng cúng dường đến chư Tỳ khưu Tăng và chư Tỳ khưu ni Tăng có Đức Phật chủ trì.
2- Dâng cúng dường đến chư Tỳ khưu Tăng và chư Tỳ khưu ni Tăng, sau khi Đức Phật đã tịch diệt Niết Bàn rồi.
3- Dâng cúng dường đến chư Tỳ khưu Tăng (Bhikkhusaṃgha).
4- Dâng cúng dường đến chư Tỳ khưu ni Tăng (Bhikkhunisaṃgha).
5- Dâng cúng dường đến một số Tỳ khưu Tăng và một số Tỳ khưu ni Tăng.
6- Dâng cúng dường đến một số Tỳ khưu Tăng.
7- Dâng cúng dường đến một số Tỳ khưu ni Tăng.
Cách Dâng Y Thường Dùng
Thí chủ có đức tin trong sạch nơi Taṃ Bảo, đem các y thường dùng dâng đến cá nhân Tỳ khưu (paṭipuggalikadāna) hoặc dâng đến chư Tỳ khưu Tăng (saṃghikadāna) cũng được, tuỳ theo tác ý thiện tâm của thí chủ.
Cách Dâng Y Kathina
Thí chủ có đức tin trong sạch nơi Taṃ Bảo có trí tuệ hiểu biết rõ rằng: Tấm y kathina chỉ dâng đến chư Tỳ khưu Tăng (saṃghikadāna) mà thôi, không phải dâng đến cá nhân Tỳ khưu (paṭipuggalikadāna).
Người Thí Chủ – Người Thọ Thí
Trong kinh Dakkhiṇāvibhaṅgasutta, Đức Phật dạy Ngài Ānanda rằng:
Này Ānanda, thiện tâm trong sạch của người bố thí và người thọ thí có 4 trường hợp:
1- Người bố thí có thiện tâm trong sạch, còn người thọ thí không có tâm trong sạch.
2- Người bố thí không có tâm trong sạch, còn người thọ thí có thiện tâm trong sạch.
3- Người bố thí và người thọ thí đều có tâm không trong sạch.
4- Người bố thí và người thọ thí đều có thiện tâm trong sạch.
Này Ānanda, thế nào gọi là người bố thí có thiện tâm trong sạch, còn người thọ thí không có tâm trong sạch?
Trường hợp này, người bố thí là người có giới đức trong sạch, hành thiện pháp; còn người thọ thí là người phạm giới, hành ác pháp.
Như vậy, gọi là người bố thí có thiện tâm trong sạch, còn người thọ thí không có tâm trong sạch.
Này Ānanda, thế nào gọi là người bố thí không có tâm trong sạch, còn người thọ thí có thiện tâm trong sạch?
Trường hợp này, người bố thí là người phạm giới, hành ác pháp; còn người thọ thí là người có giới đức trong sạch, hành thiện pháp.
Như vậy, gọi là người bố thí không có tâm trong sạch, còn người thọ thí có thiện tâm trong sạch.
Này Ānanda, thế nào gọi là người bố thí và người thọ thí đều có tâm không trong sạch?
Trường hợp này, cả người bố thí lẫn người thọ thí đều là những người phạm giới, hành ác pháp
Như vậy, gọi là người bố thí và người thọ thí đều có tâm không trong sạch.
Này Ānanda, thế nào gọi là người bố thí và người thọ thí đều có thiện tâm trong sạch?
Trường hợp này, cả người bố thí lẫn người thọ thí đều là những người có giới đức trong sạch, hành thiện pháp.
Như vậy, gọi là người bố thí và người thọ thí đều có thiện tâm trong sạch.([7])
Quả Báu Của Paṭipuggalikadāna
Quả báu của phước thiện cúng dường đến 14 hạng cá nhân, Đức Phật dạy mỗi hạng khác biệt nhau như như sau:
* Thí chủ có tác ý thiện tâm trong sạch làm phước thiện bố thí đến loài súc sinh như chim, cá, v.v… thì thí chủ sẽ hưởng được 5 quả báu: Sống lâu, sắc đẹp, an lạc, sức mạnh và trí tuệ được 100 kiếp.
* Thí chủ có tác ý thiện tâm trong sạch làm phước thiện bố thí đến người không có giới, thì thí chủ sẽ hưởng được 5 quả báu: Sống lâu, sắc đẹp, an lạc, sức mạnh và trí tuệ được 1000 kiếp.
* Thí chủ có tác ý thiện tâm trong sạch làm phước thiện cúng dường đến người có giới hạnh trong sạch, như Tỳ khưu, Sadi, cận sự nam, cận sự nữ, thì thí chủ sẽ hưởng được 5 quả báu: Sống lâu, sắc đẹp, an lạc, sức mạnh và trí tuệ được 100 ngàn kiếp (cả trong cõi người lẫn cõi trời dục giới).
* Thí chủ có tác ý thiện tâm trong sạch làm phước thiện cúng dường đến bậc thiện trí ngoài Phật giáo, vị ấy đã chứng đắc các bậc thiền hữu sắc, thiền vô sắc, có thần thông, thì thí chủ sẽ hưởng được 5 quả báu: Sống lâu, sắc đẹp, an lạc, sức mạnh và trí tuệ được triệu triệu kiếp (1.000 tỷ kiếp) (cả trong cõi người lẫn cõi trời dục giới).
* Thí chủ có tác ý thiện tâm trong sạch làm phước thiện cúng dường đến hành giả đang thực hành thiền tuệ để chứng đắc thành bậc Thánh Nhập Lưu, thì thí chủ sẽ hưởng được 5 quả báu: Sống lâu, sắc đẹp, an lạc, sức mạnh và trí tuệ vô số kiếp (cả trong cõi người lẫn cõi trời dục giới).
* Thí chủ có tác ý thiện tâm trong sạch dâng cúng dường đến bậc Thánh Nhập Lưu, bậc Thánh Nhất Lai, bậc Thánh Bất Lai, bậc Thánh Arahán, chư Phật Độc Giác, Đức Phật Chánh Đẳng Giác, thì thí chủ sẽ hưởng được 5 quả báu cao quý đặc biệt trong mỗi cõi được tái sinh. Nếu thiện nghiệp ấy cho quả tái sinh làm người, thì sẽ là người cao quý đặc biệt, hoặc nếu thiện nghiệp ấy cho quả tái sinh làm chư thiên trong cõi trời dục giới nào, thì sẽ là chư thiên cao quý có hào quang sáng ngời đặc biệt hơn các chư thiên khác, được vô số kiếp không sao kể xiết. Đặc biệt, thí chủ đã gieo được duyên lành, chắc chắn sẽ được giải thoát khổ tử sinh luân hồi trong ba giới bốn loài.
Quả Báu Của Saṃghikadāna
Quả báu của phước thiện dâng cúng dường đến chư Tỳ khưu Tăng (saṃghikadāna) trong 7 trường hợp, chắc chắn nhiều hơn quả báu của phước thiện cá nhân thí (paṭipuggalikadāna) gấp bội phần.
Trong 7 trường hợp thí chủ làm phước thiện dâng cúng dường đến chư Tỳ khưu Tăng, quả báu của mỗi trường hợp chắc chắn có sự khác biệt, nhưng vì lớn lao vô lượng nên không sao kể xiết được.
Trong kinh Dakkhiṇāvibhaṅgasutta, Đức Phật dạy Ngài Đại đức Ānanda có một đoạn rằng:
Này Ānanda, trong thời vị lai sau này, sẽ có số người gọi là Bhikkhu: Tỳ khưu, còn mảnh y nhỏ quấn cổ, là người không có giới, hành ác pháp. Thí chủ có đức tin trong sạch làm phước thiện dâng cúng dường đến chư Tỳ khưu Tăng, dù trong nhóm có Tỳ khưu không có giới ấy.
Này Ānanda, phước thiện cúng dường đến chư Tỳ khưu Tăng, mặc dù trong nhóm có Tỳ khưu không có giới trong thời kỳ ấy. Như Lai dạy rằng: “Quả báu của phước thiện bố thí ấy được vô lượng không sao kể được! (asaṅkheyyaṃ), không sao lường được! (appameyyaṃ)”.
Này Ānanda, Như Lai không dạy rằng: “Làm phước thiện cúng dường đến cá nhân sẽ hưởng quả báu nhiều hơn làm phước thiện dâng cúng dường đến chư Tỳ khưu Tăng”.([8])
[1] Tạng luật Thái gọi xứ Patheyya. Nhóm 30 vị tỳ khưu xứ Pàveyya đều là bậc Thánh Hữu Học (bậc Thánh Nhập Lưu, bậc Thánh Nhất Lai và bậc Thánh Bất Lai) vốn là 30 Hoàng tử huynh đệ cùng phụ hoàng với Đức vua Pasenadi Kosala.
[2] Một do tuần khoảng 20 cây số.
[3] Xứ Ấn Độ mỗi năm có 3 mùa: Mùa mưa, mùa lạnh và mùa nóng; mỗi mùa có 4 tháng.
[4] Tạng Luật, bộ Mahàvagga, phần Kathinakkhandhaka.
[5] Chú giải Tạng Luật, bộ Mahàvagga, Kathinakkhandhaka.
[6]-2 Chú giải Tạng Luật, bộ Mahàvagga, Kathinakkhandhaka.
[7] M.Uparipannasa, kinh Dakkhinàvibhangasutta.
[8] M.uparipannasa, kinh Dakkhinàvibhaígasutta.
Hits: 51