Tổng hợp về nghiệp

Vì là nội dung đi lượm từ nhiều nguồn ( nhiều thầy , nhiều dòng truyền thừa) nên sẽ có mâu thuẫn , tác giả sẽ cố gắng lọc ra những nội dung thừa , và chính sửa cho phù hợp

Nghiệp là gì?

nguồn : Đạo Phật ngày nay http://www.daophatngaynay.com/vn/phat-phap/buoc-dau-hoc-phat/phat-phap-vd/23881-nghiep-la-gi.html

Nếu biết được mỗi người có cái nghiệp riêng thì chúng ta có thái độ sống hết sức dung hòa, không thắc mắc, không trách cứ những hoàn cảnh khó khăn, rắc rối mà người trong cuộc không thể giải quyết dứt khoát được, vì nghiệp riêng của họ

Phật tử chùa Thiên Khánh hỏi: Kính thưa thầy, trong nhà Phật có từ ngữ nghiệp, vậy nghiệp là gì? Nghiệp phát khởi từ đâu? Và tu có thể chuyển được nghiệp xấu? Xin thầy chỉ dạy.

Thầy trả lời: Nghiệp nói cho đủ là nghiệp quả báo ứng, tức đã gây nhân thì có kết quả tương xứng, và quả đến sớm hay muộn khi hội đủ nhân duyên, hội đủ điều kiện. Nghiệp là năng lực, là hành động từ những suy nghĩ rồi phát xuất ra lời nói có cố ý, cố tâm, được lặp đi lặp lại nhiều lần, lâu ngày trở thành thói quen. Chính thói quen đó có sức mạnh chi phối, cuốn hút chúng ta làm theo. Nói đến nghiệp là nói đến sự toàn quyền quyết định của chúng ta, không ai có thể ban phước giáng họa và định đoạt, sắp đặt, mà chính ta là chủ nhân ông của bao điều họa phúc.

Nghiệp là những hành động có chủ ý, sẽ đưa đến những quả báo tương xứng trong hiện tại và mai sau. Nghiệp nói cho đủ gọi là nghiệp quả báo ứng được tạo ra từ thân, miệng, ý của chính mình. Bởi vì nghiệp nhân chúng ta đã gây thì nghiệp quả phải đến chỉ sớm hay muộn mà thôi. Là người Phật tử chân chính, chúng ta phải thận trọng trong từng ý nghĩ lời nói, cho đến hành động do mình tạo ra trong từng phút, từng giây… Ta phải thường xuyên xem xét, quán chiếu, soi sáng lại chính mình để không vấp phải lỗi lầm đáng tiếc.

Nghiệp là thói quen huân tập tạo thành sức mạnh chi phối tất cả mọi sinh hoạt trong cuộc sống của con người, từ khi mở mắt chào đời, cho đến khi nhắm mắt và những đời sống kế tiếp. Nếu người Phật tử tu mà không hiểu rõ về nghiệp thì khó mà ứng dụng tu hành để đạt được tới chỗ an lạc, hạnh phúc trọn vẹn.

Chính chúng ta là chủ nhân tạo nghiệp, và cũng chính chúng ta là chủ nhân chịu thọ quả báo. Chúng ta thừa nhận nghiệp do mình tạo ra, được sinh ra từ nghiệp, và bị nghiệp trói buộc trở lại. Bởi nghiệp là hành động, là thói quen, nên chúng ta có thể thay đổi được, chỉ cần mọi người cố gắng, nỗ lực và kiên trì, bền chí.

Chữ nghiệp trong nhà Phật không có nghĩa một chiều, hễ nói nghiệp thì phải là điều xấu, điều ác. Kỳ thật, nghiệp cũng có xấu và cũng có tốt, nghiệp cũng có nghiệp thiện và nghiệp ác. Nghiệp tuy không có hình tướng cụ thể, nhưng nghiệp có khả năng chi phối sai sử làm cho con người khốn khổ và si dại vì nó.

Báo là đền trả một cách công bằng và xứng đáng, không thiên vị, không sai lệch, không tiêu mất. Ai có cố ý, cố tâm hành động hoặc tốt, hoặc xấu sẽ gặt quả một cách bình đẳng. Nghiệp đã gieo dù trăm kiếp, ngàn đời vẫn không mất, khi hội đủ nhân duyên quả báo hoàn tự hiện.

Ta lo lắng làm sao cho có thật nhiều tiền và tìm đủ mọi cách bảo bọc, che chở cho những người thân thuộc mà quên rằng, những gì ta đang làm đến khi chết không mang theo được một thứ gì dù là cái nút áo cũng bị cắt lại.Xưa có một gia đình nọ, người vợ thì sống hiền lương đạo đức, biết bổn phận và trách nhiệm, siêng năng làm việc, nuôi dạy con cái đàng hoàng, ngược lại ông chồng thì suốt ngày bê tha, rượu chè, cờ bạc.

Mỗi lần ông cờ bạc thua về nhà là ông kiếm chuyện chửi mắng, đánh đập để bà phải xì tiền ra đưa cho ông. Con cái, người thân, láng giềng, hàng xóm, ai thấy cũng đau lòng, thắc mắc tại sao bà không chịu ly dị cho rồi, cứ để ông hành hạ khổ sở như thế? Nhưng khi hỏi bà thì bà nói không thể ly dị vì bà còn thương, sợ ông khổ. Có nhiều gia đình có những đứa con ngỗ nghịch, bất hiếu, phá gia sản, cầm cố nhà cửa, làm hại đủ thứ. Vậy mà gia đình vẫn thương, không thể từ bỏ, vì cha mẹ có cái nghiệp riêng với con cái. Để thấy cái nghiệp riêng của người, mình là kẻ ngoài cuộc không có nghiệp đó thì không thể chấp nhận, không chịu nổi. Còn người đã có nghiệp, có nợ nần với nhau, dù bị chửi mắng, đánh đập, phá phách, đối xử tàn tệ, người ta vẫn chấp nhận chung sống, không thể xa rời nhau được.

Như vậy, nếu biết được mỗi người có cái nghiệp riêng thì chúng ta có thái độ sống hết sức dung hòa, không thắc mắc, không trách cứ những hoàn cảnh khó khăn, rắc rối mà người trong cuộc không thể giải quyết dứt khoát được, vì nghiệp riêng của họ. Cho nên, nghiệp theo ta như bóng với hình từ đời này sang kiếp nọ, đến khi hết nợ nần với nhau mới thôi.

Ấy thế mà, đa số chúng ta lại hay lãng quên mà giống như ông trưởng giả, chỉ lo lắng, quan tâm đến ba bà vợ trước, chờ khi quả khổ đến mới than vãn, trách móc, đổ thừa tại, bị, thì, là…, rồi kêu Phật trời cứu cho. Trời Phật nào giúp cho ta được chỗ này, bụng làm thì dạ chịu chứ cầu cứu ai thế cho mình được dù là thân thương như cha mẹ. Ta có niềm tin, ta có hiểu biết, ta có quán chiếu, ta có trái tim, mà không ai chịu vận dụng để thừa hưởng cái tinh hoa đó, ta cứ suốt ngày chạy theo công danh sự nghiệp, gia đình, người thân, cho đến khi ra đi chỉ mang theo nghiệp tốt hoặc xấu mà thôi. Tốt thì đi ba đường trên hưởng phước báo cõi trời, người và thần A Tu La, xấu thì bị đọa ba đường dưới địa ngục, quỷ đói và súc sinh, chịu nhiều ngu si và khổ đau vô cùng.

-Biệt nghiệp là nghiệp riêng của từng cá nhân chúng sinh. Cộng nghiệp là nghiệp chung của nhiều chúng sinh. Cùng sinh ra trong một gia đình, sống chung một đất nước, nói cùng một ngôn ngữ, người thích cờ bạc thì chỉ muốn giao du với người chơi cờ bạc, còn kẻ ham rượu chè thì lân cận ăn chơi với người uống rượu. Người thích đi chùa tụng kinh niệm Phật thì kết bạn với người đi chùa tụng kinh niệm Phật. Như vậy, cộng nghiệp đưa đẩy con người thân cận, kết bạn với nhau và biệt nghiệp khiến chúng ta có dáng mạo, tánh tình, năng khiếu và trí tuệ khác nhau.

 -Nghiệp: là dịch nghĩa chữ Karma tiếng Phạn, chỉ hành động tạo tác được lập đi lập lại nhiều lần lâu ngày trở thành thói quen của mỗi người. Nghiệp có nghiệp thiện, nghiệp ác, nghiệp chung, nghiệp riêng, định nghiệp và bất định nghiệp… Nghiệp thiện là hành động lành đem lại sự an vui hạnh phúc cho tất cả chúng sinh. Nghiệp ác là hành động dữ làm đau khổ cho tất cả chúng sinh. Định nghiệp là hành động lành hay dữ có chủ tâm của ý thức mà tạo thành nghiệp quyết định. Bất định nghiệp là hành động tốt hay xấu mà không có ý thức cố tâm, nên thành nghiệp không quyết định (như người bệnh tâm thần).

b-Báo: là đền trả một cách công bằng, không sai chạy, không tiêu mất khi đủ nhân duyên. Báo chia làm ba thứ: hiện báo, sinh báo và hậu báo.

-Hiện báo là quả báo trong hiện tại, do những hành động tốt hay xấu mình đã làm ra.

-Sinh báo là quả báo mình phải chịu trong đời sau, do hành động tốt hay xấu của ba nghiệp, đến đời sau mới chịu quả báo.

-Hậu báo là qua nhiều đời kiếp mới chịu quả báo.

 Tu là chuyển nghiệp: Người đã tạo nghiệp thì phải nhận quả báo tương ứng. Nhưng nếu người đó biết ăn năn, tu tập và làm những nghiệp thiện để bù đắp lại thì quả báo sẽ xoay chuyển, có thể giảm nhẹ đi. Thế cho nên Phật nói tu là chuyển nghiệp.

 Từ lâu, chúng ta thường nghe nói gieo nhân nào thì chịu quả nấy, có nghĩa là ai tạo nhân gì thì phải thọ quả báo đúng như vậy, như trồng dưa được dưa, trồng đậu được đậu.

Nhưng, nếu trước kia khi chưa biết tu ta đã lỡ gây nhân xấu ác, thì bây giờ chúng ta tu có được lợi íchgì, vì nhân nào quả nấy? Tu là để chuyển hóa nỗi khổ niềm đau, thành an vui hạnh phúc, nếu gây nhân nào phải chịu quả nấy thì tu làm sao hết khổ? Nếu chúng ta hiểu theo nghĩa đơn giản, thông thường thì sẽ thối Bồ-đề tâm, vì có tu cũng chẳng chuyển được quả xấu. Lý nhân quả của đạo Phật rất đa dạng và phức tạp, nhưng không cố định một chiều mà có thể thay đổi được, tùy theo khả năng tu của chúng ta.

Trong Kinh A Hàm Phật dạy: “Người gây nhân bất thiện, trước hoặc sau họ biết tu thân, tu giới, tu tâm thì quả sẽ đổi thay. Nếu người gây nhân bất thiện mà không biết tu thân, tu giới, tu tâm thì gây nhân nào sẽ thọ quả nấy. Đó là nhân nào quả nấy và gây nhân mà biết chuyển nghiệp thì quả cũng đổi thay”.

Nói xong, Phật đưa ra một ví dụ để chứng minh nhân quả xấu có thể thay đổi được, một nắm muối nếu hòa tan trong ly nước lạnh thì ly nước ấy sẽ mặn không thể uống được. Cũng nắm muối đó, nếu hòa tan trong bình nước lớn có sức chứa khoảng hơn trăm lít, thì nước trong bình sẽ uống được, nhưng vị nước hơi mặn mặn. Và nếu nắm muối đó được hòa tan trong một ao nước lớn gấp năm mười lần bình kia, nước sẽ không còn mặn, chúng ta có thể dùng xài bình thường.

Nhân xấu ác là dụ cho vị mặn của nắm muối hòa tan trong ly nước nhỏ thì quả cũng mặn không giải khát được. Nếu nhân mặn của mắm muối hòa tan trong bình nước lớn hơn gấp trăm lần thì vị mặn sẽ bị loãng ra, nước có thể tạm dùng giải khát được. Nếu nhân mặn của mắm muối hòa tan trong ao nước lớn, thì nắm muối không thấm vào đâu, nước có thể dùng xài bình thường.

Cũng lại như thế, người mà không biết tu thân, tu giới, tu tâm khi tạo nhân xấu ác thì trả quả ác nguyên vẹn dụ như nắm muối được hòa tan trong ly nước nhỏ, bởi vì lượng muối và nước tương đồng nên không giải khát được.

Nếu người biết tu thân, tu giới thì dụ như nắm muối tan trong bình nước lớn, tuy có chút vị mặn nhưng cũng có thể tạm dùng qua ngày được.

Còn nếu chúng ta biết tu thân, tu giới, tu tâm dụ như nắm muối được hòa tan trong ao nước to, bởi muối quá ít so với lượng nước quá nhiều, nên chúng ta có thể dùng xài bình thường.

Chính vì vậy, khi lỡ làm ác mà chúng ta biết tu thân, thì nhân quả xấu, sẽ được chuyển mà không thọ đúng như khi gieo nhân. Nếu khi gây nhân ác chúng ta biết tu thân, tu giới thì sẽ chuyển nghiệp thọ quả báo nhẹ hơn. Còn khi gây nhân ác mà biết tu thân, tu giới, tu tâm thì gần như chuyển quả xấu hoàn toàn. Cho nên tu là chuyển nghiệp, là chuyển hóa khổ đau thành an vui, hạnh phúc.

Nếu hiện tại mà chúng ta tu vẫn trả quả xấu như cũ, thì tu như thế có lợi ích gì? Cho nên chúng ta phải biết, tu có thể chuyển quả xấu, tuỳ theo khả năng tu nhiều hay ít mà quả sẽ thay đổi. Khi biết tu thì quả liền chuyển, không cố định như mọi người thường lầm tưởng số phận đã an bài, không thể thay đổi được. Vậy thế nào là tu thân, tu giới, tu tâm?

Tu thân là nơi thân này không làm các việc xấu ác, tất cả mọi việc xấu ác dù lớn hay nhỏ chúng ta đều phải tránh, còn việc gì có lợi ích cho nhiều người thì ta phải cố gắng làm, như vậy là ta biết tu thân. Tu thân chỉ đơn giản là như thế, ai cũng có thể tu được.

Còn tu giới là sao? Người Phật tử tại gia, sau khi thọ giới quy y rồi, Phật dạy phải giữ tối thiểu từ một giới cho đến năm giới:

1- Không sát sinh hại vật: Trước tiên là không được giết người, vì ai cũng tham sống sợ chết, nếu giết người thì mạng phải đền mạng theo luật pháp xã hội. Đó là lẽ công bằng về nhân quả giết hại.

Ngoài ra, chúng ta phải hạn chế tối đa đối với những con vật lớn như trâu bò heo chó gà vịt…. cho đến khi nào ta giữ được hoàn toàn, vì giới này chủ yếu là cấm người xuất gia, còn người tại gia chính yếu là không được giết người.

Giết hại sẽ thành tội bằng ba cách: Một là tự tay mình giết. Hai là xúi bảo người khác giết. Ba là hoan hỷ vui vẻ khi nghe thấy người khác giết hại. Như thế là phạm tội sát sinhhại vật. Vì tự tay chúng ta giết là thân tạo nghiệp xấu ác, xúi bảo người giết là miệng tạo nghiệp xấu ác, khi nghe thấy người khác giết, chúng ta sinh tâm vui mừng là ý tạo nghiệp ác, nên Phật chế giới để giúp quý Phật tử không phạm tội giết hại.

2- Không được giam tham trộm cướp lường gạt của người khác: Từ một cây kim cho tới ngọn cỏ nếu không được sự cho phép của người mà ta tự lấy là phạm tội trộm cướp. Trộm là lén lấy, cướp là công khai giành giựt lấy trước mặt mọi người. Cho nên trộm hay cướp giựt, hoặc lừa gạt để mà lấy, cho đến trốn thuế cũng đều gọi là trộm cướp.

3- Không tà dâm: Người Phật tử khi lớn khôn có quyền lấy vợ lấy chồng theo luật phápnhà nước cho phép tuổi từ 18 trở lên, nếu dưới 18 tuổi mà tự ý lấy nhau là phạm luật sẽ bị tội, tùy theo mức độ nặng nhẹ mà có biện pháp xử lý thích hợp.

Nếu sau khi lập gia đình rồi mà mình còn đi ngoại tình với người khác là phạm tội tà dâm. Vì đó là nguyên nhân gây mất hạnh phúc gia đình người khác, làm cho gia đình tan vỡ, là nhân gây đau khổ cho mình và gia đình người, chính vì lòng từ bi thương xót chúng ta mà Phật cấm.

4- Không nói dối hại người: Nói dối có bốn trường hợp phạm tội.

Chuyện có nói không, chuyện không nói có, cốt để lừa gạt lấy tiền của người khác. Nói lời nặng nề hoặc mắng chửi, vu oan giá họa cho người. Dùng lời nói ngọt ngào để dụ dỗngười khác. Nói đâm thọc làm cho đôi bên bất hòa thù oán nhau, đến người này nói xấungười kia và ngược lại.

Đó là những trường hợp nói dối thì phạm tội theo luật nhân quả công bằng. Nếu chúng tanói dối để giỡn chơi, hoặc để trấn an người đang bệnh  khổ, hoặc để cứu mạng người thì không phạm tội.

5- Không uống rượu say sưa dẫn đến mất lý trí hiếp dâm người là có tội: ngoài ra các thứ như á phiện, xì ke, ma túy đều không nên dùng, vì nó là  nhân sinh ra bệnh hoạn, bị nghiện không bỏ được, làm cho hao tài tốn của, hủy hoại tài sản một cách nhanh chóng, mất hết lý trí sáng suốt và có thể trong phúc chốc tạo tội trộm cắp hay cướp giựt của người khác để thỏa mãn cơn ghiền. Nhưng, nếu vì lý do bệnh tật, bác sĩ cho phép uống thuốc rượu để trị bệnh thì không phạm giới.

Phật dạy: Người Phât tử chân chính phải giữ gìn năm giới vì lòng từ bi, sợ chúng ta vi phạm thì bị quả báo xấu ác, làm khổ đau cho mình và người khác. Cho nên, nếu ai giữ tròn năm giới thì sẽ được an vui, hạnh phúc ngay tại đây và bây giờ. Đó là chúng ta biết tu giới.

Vậy, chúng ta tu tâm như thế nào?

Tâm ở đây có hai phần tâm vọng và tâm chơn. Tâm vọng là chỉ cho mọi ý niệm xấu ác như tham lam, sân hận, si mê, ganh ghét tật đố… Tu tâm có nghĩa là chuyển hóa những tâm miệm xấu ác trở về cái gốc ban đầu là tâm Phật như như.

Tham thì ai cũng có, và có nhiều loại như tham danh, tham lợi, tham tài, tham sắc, tham ăn uống, tham ngủ nghỉ… Ăn uống là nhu cầu hằng ngày không thể thiếu của con người, nếu ăn dở quá chúng ta sẽ không vui, nếu ăn không no thì ta cũng không chịu, ăn thì muốn cho ngon miệng và cho no đủ. Ngủ thì phải ngủ cho đủ giấc, nếu bắt ta dậy sớm để làm việc thì cảm thấy bực bội khó chịu. Chính vì vậy, chúng ta lúc nào cũng kẹt trong vòng tham muốn quá đáng, đó là căn bệnh thâm căn cố đế của nhiều người. Tu tâm là chúng ta dẹp bỏ lòng tham lam, sân giận và si mê của mình.

Tuy nói là tu thân, tu giới, tu tâm để cho người tu được phần nào đỡ phần đó, chứ thật ra chủ yếu vẫn là tu tâm. Nếu tu tâm không khởi nghĩ làm việc ác thì miệng đâu nói lời khó nghe và thân sẽ không hành động hại người. Như vậy tu tâm vẫn là trên hết, vì tâm là chủ của bao điều họa phúc.

Cho nên nói nhân nào quả nấy là chỉ cho những người không chịu tu, vì họ chấp nhận số phận đã an bài nên càng tạo nghiệp xấu nhiều hơn, người biết tu thì sẽ thay đổi được nhân quả xấu, tùy theo khả năng tu cao hay thấp mà thôi.

Nếu người lỡ nghiện rượu say sưa hay mắng chửi đánh đập vợ con, vì yếu đuối mà không dám chừa bỏ nên cuối cùng bị tan nhà nát cửa, dẫn đến tù tội, do vi phạm luật hôn nhân gia đình. Người có ý chí khi lỡ nghiện rượu rồi được người khác khuyên nhủ, uống rượu có hại sức khỏe, hao tiền tốn của tinh thần không sáng suốt và làm cho vợ con khốn khổ, gia đình không hạnh phúc.

Khi nghe lời khuyên, họ chợt tỉnh và hiểu ra rằng, sự tác hại của uống rượu rất lớn lao mọt khi không làm chủ bản thân, nên từ đó bỏ rượu chè be bét và biết làm ăn đàng hoàng. Tuy lúc mới bỏ hơi khó chịu, hơi vật vã một chút, nhưng ta cố chịu một thời gianrồi sẽ qua, và sống bình thường thoải mái trở lại.

Chúng tôi xin đưa ra một ví dụ để mọi người dễ hiểu, thuở xưa anh Ngang hay chửi bới làm cho anh Nhẫn tức giận. Nhưng vì anh Nhẫn yếu thế hơn nên mới ôm giận trong lòng, mà chờ ngày trả thù. Sau đó anh Ngang hết thời làm ăn bị thất bại, anh Nhẫn lúc này làm ăn được khấm khá hơn trước và làm chủ một công ty nỗi tiếng.

Lúc này anh Nhẫn có cơ hội trả thù nên tìm cách mắng nhiếc hạ nhục anh Ngang trước mặt mọi người, tuy nhiên trong thời gian thất bại anh Ngang hồi tâm quay đầu về Phật pháp, nhờ vậy có chút công phu tu hành.

Anh Nhẫn lúc này cho người đến kiếm chuyện mắng chửi anh Ngang một cách thậm tệ, thiếu điều muốn vu oan giá họa, nhưng lúc này anh Ngang biết tu, nên nghe tiếng chửi như gió thoảng qua tai, không buồn phiền ai hết. Như vậy, nhân quả xấu nếu chúng tabiết tu tâm thì sẽ chuyển được nhân xấu khi trước, đó là một thực tế ít ai ngờ đến.

Ngày xưa nếu chúng ta tạo nghiệp ác, đáng lý ra phải trả bằng sự đánh đập, hay bị tù tội, hoặc bị tai nạn bất ngờ, nhưng nhờ biết tu nên chỉ bị mắng chửi hay bị mất mát chút ít tài sản.

Chúng ta hãy nên nhớ, tu là bỏ ác làm lành, khi bị chuyện mất mát đau thương đến với mình thì ta biết đó là nghiệp quá khứ còn rơi rớt lại, mà vững lòng tin can đảm chấp nhậnchịu đựng, rồi chuyện gì cũng sẽ qua nhờ ta biết buông xả.

Cho nên khi phát tâm tu, nếu gặp người làm khó dễ, chúng ta không nên buồn giận mà phải còn khởi lòng từ bi thương xót họ nhiều hơn, như vậy là ta đã biết cách chuyển nghiệp xấu ác rồi, làm gì có chuyện cố định gieo nhân nào phải thọ quả nấy.

Khi gặp chướng duyên bên ngoài mà chúng ta biết chuyển hóa, không thọ nhận đó là ta biết tu và chuyển nghiệp xấu. Không phải tu là cầu nguyện suông, mà phải có người thử thách để có dịp coi lại mình đã làm chủ được bản thân chưa. Nếu thấy mình còn buồn giận nhiều, là biết ta tu chưa tiến được bao nhiêu.

Tinh thần nhân quả của đạo Phật rất đa dạng và phức tạp, vì nhân quả ba thời quá khứ, hiện tại, vị lai không phải gây nhân nào chịu quả ấy như nhiều người thường lầm tưởng. Đối với người biết tu thì nhân quả sẽ thay đổi nhiều hay ít tùy theo khả năng tu tập của mỗi người. Cho nên Phật dạy: Tu là chuyển nghiệp phiền não khổ đau, thành an vui hạnh phúc.

Nếu ai biết giữ cho tâm mình được trong sạch, thì khi tham biết mình tham, khi giận biết mình giận, cho đến khi nào chúng ta thấy các tâm niệm xấu ác đã hết và cuối cùng ta xả luôn tâm niệm tốt, dù là niệm Phật hay Bồ-tát, ngay khi ấy thì tâm Phật hiện tiền.

Chúng ta phải nên nhớ bước đầu của tu tâm là buông xả niệm ác trước, kế đến là niệm thiện và trở lại pháp tu trung đạo là sống với tâm Phật sáng suốt mà thường biết rõ ràng, khi thấy chỉ là thấy, khi nghe chỉ là nghe, mũi lưỡi thân ý cũng lại như thế. Đó là ta biết tu tâm, người chưa đủ sức thì phải tu thân, rồi tu giới và cuối cùng là buông xả hết tâm niệm tốt xấu, đúng sai, ta người mà sống với Phật tính sáng suốt của mình.

-Khi hiểu rõ luật nhân quả nghiệp báo, chúng ta sẽ không bị những thứ mê lầm chi phối?

-Không mê tín dị đoan vì biết chính ta là chủ của bao điều họa phúc.

-Không than trách, oán giận thù hằn khi gặp chướng duyên nghịch cảnh, không thấy ai là kẻ thù mà chỉ có người chưa thông cảm với nhau mà thôi.

Các loại nghiệp trong Phật giáo

nguồn : Phật giáo nguyên thủy org https://phatgiaonguyenthuy.org/cac-loai-nghiep-trong-phat-giao/#khi-phan-loai-theo-chuc-nang-chung-ta-co-bon-loai-nghiep

CÁC LOẠI NGHIỆP

Sau khi đã tìm hiểu Nghiệp một cách tổng quát, bây giờ chúng ta hãy nghiên cứu các loại Nghiệp.

Trước tiên, Nghiệp có thể chia làm hai loại: Thiện Nghiệp và Bất Thiện Nghiệp. Một cách phân loại khác là phân loại theo chức năng. Tôi không thể giảng giải ở đây về chi tiết ở các loại Nghiệp khác nhau này. Nếu các bạn muốn biết nhiều chi tiết hơn về các loại Nghiệp này thì các bạn hãy đọc trong Vi Diệu Pháp Lược Giải (Abhidhammathasangaha).

Nghiệp được chia làm bốn nhóm, mỗi nhóm gồm bốn Nghiệp.

  • Nhóm đầu tiên phân loại theo chức năng.
  • Nhóm thứ hai phân loại theo cách thức cho quả.
  • Nhóm thứ ba phân loại theo thời gian trả quả.
  • Nhóm thứ tư phân loại theo nơi chốn cho quả.

Khi phân loại theo chức năng chúng ta có bốn loại Nghiệp

  1. Đầu tiên là Nghiệp Tạo Tác, có nghĩa là Nghiệp tạo ra hậu quả.
  2. Thứ hai là Nghiệp Hỗ Trợ. Nghiệp Hỗ Trợ chính nó không tạo ra quả, nhưng Nghiệp này hỗ trợ cho Nghiệp Tạo Tác.
  3. Thứ ba là Nghiệp Cản Trở. Nghiệp này, cũng vậy, chính nó không tạo ra quả, nhưng nó làm cản trở cho Nghiệp Tạo Tác.
  4. Thứ tư là Nghiệp Hủy Diệt. Nghiệp Hủy Diệt hủy diệt quả của Nghiệp Tạo Tác.

Như vậy tùy theo chức năng của các Nghiệp mà Nghiệp được chia làm bốn.

Chẳng hạn Nghiệp tạo tác giúp cho một người sinh ra làm người. Như vậy kết quả của Nghiệp Tạo Tác là một người ra đời. Trong suốt cuộc sống của người này, y hưởng thụ sức khỏe tốt, giàu có, sống lâu, sắc đẹp v.v… Những điều mà người này có được là hậu quả của Nghiệp Hỗ Trợ. Nếu người này không mạnh khỏe, nếu người này nghèo, nếu người này không sống lâu thì đó là do Nghiệp Cản Trở phát sinh. Nếu người này chết vì tai nạn hay chết ngay tức khắc bởi một bệnh nào đó thì đó là Nghiệp Hủy Diệt đã phát sinh. Nghiệp Tạo Tác cho kết quả vào lúc hoài thai cũng như trong suốt đời sống. Và Nghiệp Hỗ Trợ đã hỗ trợ cho Nghiệp Tạo Tác này. Nghiệp Cản Trở đã cản trở Nghiệp Tạo Tác và Nghiệp Hủy Diệt đã hủy diệt quả của Nghiệp Tạo Tác.

Nghiệp cũng được phân chia làm bốn loại theo cách thức mà nó cho quả

Đó là bốn loại Nghiệp cho quả liệt kê sau đây:

  • Cực Trọng Nghiệp,
  • Cận Tử Nghiệp,
  • Tập Quán Nghiệp,
  • Bảo Lưu Nghiệp.
  1. Loại thứ nhất là Cực Trọng Nghiệp. Cực Trọng Nghiệp nghĩa là Nghiệp có năng lực mạnh mẽ, cho quả vượt trội hơn các Nghiệp khác. Cực Trọng Nghiệp Thiện là các tầng thiền, Cực Trọng Nghiệp Bất Thiện là năm trọng tội: giết mẹ, giết cha, giết A La Hán, làm Phật bị thương, và chia rẽ Tăng. Chấp thủ tà kiến cũng bao gồm trong đó. Chấp thủ tà kiến có nghĩa là cho rằng: không có nhân, không có quả v.v…
  2. Loại thứ hai là Cận Tử Nghiệp. Cận Tử Nghiệp là Nghiệp mà một người tạo ra ngay trước khi chết. Mặc dầu người này có thể thường xuyên làm các Nghiệp Thiện hay Nghiệp Ác trong đời sống, nhưng Nghiệp Thiện hay Ác họ tạo ra ngay trước khi chết có năng lực mạnh mẽ hay ưu tiên để trả quả. Nghĩa là Cận Tử Nghiệp hay Nghiệp làm ngay trước khi chết có năng lực trả quả ưu tiên hơn “Tập Quán Nghiệp ” và “Bảo Lưu Nghiệp”.
  3. Loại thứ ba là Tập Quán Nghiệp: Là Nghiệp chúng ta thường xuyên làm hằng ngày theo thói quen hay tập quán. Có người thường tạo hai loại Nghiệp Ác và Nghiệp Thiện hằng ngày, tạo thành thói quen, lập đi lập lại mãi không bỏ được.
  4. Loại thứ tư là Bảo Lưu Nghiệp: Là Nghiệp không nằm trong ba loại Nghiệp trên. Nếu không có Cực Trọng Nghiệp, Cận Tử Nghiệp hoặc Tập Quán Nghiệp thì Nghiệp Bảo Lưu có cơ hội trả quả.

Nghiệp phân biệt theo thời gian trả quả

Đó là bốn loại Nghiệp cho quả liệt kê sau đây: Nghiệp trả quả tức khắc, Nghiệp trả trong kiếp tới, Nghiệp trả sau kiếp tới cho đến khi chấm dứt vòng luân hồi, và Nghiệp vô hiệu.

  • Nghiệp trả quả tức khắc còn gọi là Hiện Nghiệp là Nghiệp trả quả ngay trong kiếp sống này.
  • Nghiệp trả quả tiếp theo là Nghiệp trả quả trong kiếp tới sau khi ta lìa bỏ kiếp sống hiện tại.
  • Nghiệp trả quả sau kiếp tới cho đến khi chấm dứt vòng luân hồi. Nghiệp này còn gọi là nghiệp vô tận.
  • Nghiệp vô hiệu thật ra không phải là một loại Nghiệp riêng biệt.

Nếu Nghiệp tức khắc không thể cho quả trong kiếp sống này thì trở thành vô hiệu. Nếu Nghiệp cho quả trong kiếp sau không đủ điều kiện thuận lợi để trả quả thì trở thành vô hiệu, nhưng Nghiệp vô tận thì không thể vô hiệu được; Nghiệp này tồn tại cho đến khi chấm dứt vòng luân hồi. Chỉ tới lúc chấm dứt vòng luân hồi Nghiệp này mới chấm dứt. Khi Nghiệp thứ nhất, thứ hai, và thứ ba này không thể cho quả trong thời gian trả quả thì chúng trở thành vô hiệu.

Trong bốn loại Nghiệp trên thì Nghiệp vô tận tức Nghiệp trả quả sau kiếp tới cho đến khi chấm dứt vòng luân hồi là Nghiệp quan trọng nhất đối với chúng ta. Khi Nghiệp trả quả tức khắc và Nghiệp trả qua trong kiếp tới không đủ điều kiện thì chúng trở thành vô hiệu, nhưng Nghiệp vô tận giúp chúng sinh ở trong các cảnh khổ có cơ hội tái sinh làm người và làm trời sẽ theo ta cho đến lúc chấm dứt vòng luân hồi. Tất cả chúng sinh có kho chứa Nghiệp vô tận này, khi có hoàn cảnh hay cơ hội thuận tiện chúng ta sẽ nhận quả của các Nghiệp này.

Nghiệp phân biệt theo nơi chốn trả quả

Đó là bốn loại Nghiệp cho quả liệt kê sau đây:

Ác Đạo Bất Thiện Nghiệp, Dục Giới Thiện Nghiệp, Sắc Giới Thiện Nghiệp, Vô Sắc Giới Thiện Nghiệp.

  • Ác Đạo Bất Thiện Nghiệp: Là những Nghiệp cho quả trong bốn ác đạo, và cũng cho quả trong dục giới và sắc giới.
  • Dục Giới Thiện Nghiệp: là những Nghiệp thiện cho quả ở dục giới; và cũng cho quả ở sắc giới và vô sắc giới.
  • Sắc Giới Thiện Nghiệp: Là những Nghiệp chỉ cho quả ở cõi sắc giới.
  • Vô Sắc Giới Thiện Nghiệp: Là những Nghiệp chỉ cho quả ở cõi vô sắc giới.

Muốn hiểu rõ Nghiệp ở các cõi bạn phải hiểu ba mươi mốt cõi, và phải hiểu mỗi cõi cho quả như thế nào, bạn phải tìm kiếm học hỏi chi tiết về các quả của các Nghiệp này trong sách Vi Diệu Pháp. Tôi chỉ cho các bạn biết một số căn bản về các loại Nghiệp, đồng thời kích thích óc tò mò, mong muốn tìm hiểu của các bạn để các bạn thích thú trong việc tìm hiểu, học hỏi nhiều hơn.

Nếu các bạn muốn tìm hiểu nhiều hơn các bạn nên đọc cuốn A Comprehensive Manual of Abhidhamma (Vi Diệu Pháp Tập Yếu) do Tỳ khưu Bodhi hiệu đính (Sư Khánh Hỷ dịch).

Bây giờ chúng ta hãy trở về với việc phân loại các loại Nghiệp một cách thực tiễn hơn. Khi chúng ta hiểu thế nào Bất Thiện Nghiệp, thế nào là Thiện Nghiệp thì chúng ta sẽ tránh làm các việc bất thiện, và chúng ta sẽ thực hành các Thiện Nghiệp.

Bất Thiện Nghiệp chia làm mười loại:

  • 3 Nghiệp bất thiện thuộc về thân, 
  • 4 Nghiệp bất thiện thuộc về khẩu, và
  • 3 Nghiệp bất thiện thuộc về ý.

Ba Nghiệp bất thiện thuộc về thân gồm:

  1. Sát sinh,
  2. trộm cắp, và
  3. tà hạnh.
  • Sát sinh là sát hại hay chấm dứt mạng sống chúng sinh. Sát hại chúng sinh bao gồm giết người, giết súc vật, và ngay cả những côn trùng bé nhỏ. Những gì gọi là chúng sinh đều không được giết hại. Người giết hại một chúng sinh nào là người ấy tạo Nghiệp ác.
  • Trộm cắp là lấy của ai vật gì không được chủ nhân của vật đó bằng lòng.
  • Tà hạnh là thông dâm với kẻ khác không phải là vợ hay chồng mình. Ngoài hành vi tà dâm, tà hạnh còn có nghĩa là làm bất cứ hành vi tà vạy nào.

Bốn Nghiệp bất thiện thuộc về khẩu gồm:

  1. Nói dối,
  2. nói lời đâm thọc,
  3. nói lời nói dữ,
  4. nói lời vô ích.
  • Nói dối: là nói điều không thật. Nói dối chỉ thật sự trở thành Nghiệp bất thiện khi nói dối với chủ tâm làm hại và làm mất sự an toàn của kẻ khác.
  • Nói lời đâm thọc: là nói những lời nói nhằm mục đích gây ra sự chia rẽ người khác.
  • Nói lời nói dữ: là mắng nhiếc chửi rủa, nói những lời cộc cằn thô lỗ.
  • Nói lời vô ích: là nói những lời vô bổ, làm mất thời giờ mà không đem đến lợi ích tinh thần.

Ba Nghiệp bất thiện thuộc về ý gồm:

  1. Tham lam: Mong muốn chiếm đoạt của cải người khác. Đó là khi thấy vật gì thuộc quyền sở hữu của kẻ khác mà khởi tâm ham muốn lấy làm của mình; như vậy mới gọi là tham lam. Tham lam không phải chỉ là thích thú, dính mắc vào vật gì của kẻ khác mà là có tà tâm mong muốn chiếm đoạt vật sở hữu của kẻ khác làm của mình.
  2. Sân hận: Là giận dữ, chán ghét, mong muốn kẻ khác bị hại, bị thương tích, bị chết.
  3. Tà kiến: Là cho rằng: không có Nghiệp, không có quả của Nghiệp v.v…

Ba hành vi này không phải thực hiện bởi thân hay khẩu, nhưng chỉ là những ý nghĩ trong tâm. Do đó, tham, sân, và tà kiến được gọi là ba hành vi chỉ phát khởi trong tâm.

Trên đây là mười Nghiệp bất thiện. Một khi đã biết đây là những Nghiệp bất thiện thì nên tránh chúng.

Trong mười Bất Thiện Nghiệp trên, chúng ta không thấy đề cập đến giới uống rượu. Chú Giải giải thích là giới uống rượu nằm trong Bất Thiện Nghiệp thứ ba. Giới thứ ba tiếng Pāḷi là Kāmesu micchācārā. ‘Kāmesu’ có nghĩa là dục lạc thế gian hay năm dục lạc giác quan (dục lạc về sắc, dục lạc về thinh, dục lạc về hương, dục lạc về vị, dục lạc về xúc, dục lạc về pháp) chứ không phải chỉ là dục lạc nam nữ. Như vậy uống rượu và dùng chất say là một hành vi bất thiện thuộc về dục lạc thế gian, đó là vị trần. Như vậy, uống rượu và dùng chất say nằm trong hành vi bất thiện thuộc về thân, hay nằm trong giới thứ ba là tà hạnh.

Bây giờ chúng ta nói đến Nghiệp Thiện. Có hai nhóm Thập Thiện Nghiệp thuộc Dục giới.

Nhóm thứ nhất chỉ là mười Thiện Nghiệp đối nghịch với mười Bất Thiện Nghiệp ta đã nói trên. Đó là:

  1. Không sát sinh,
  2. Không trộm cắp,
  3. Không tà hạnh,
  4. Không nói dối,
  5. Không nói lời đâm thọc,
  6. Không nói lời nói dữ,
  7. Không nói lời vô ích,
  8. Không tham (không có tà tâm mong muốn chiếm đoạt vật sở hữu của kẻ khác làm của mình),
  9. Không sân (có từ tâm),
  10. Không tà kiến (có chánh kiến), nghĩa là biết nhân, biết quả, biết nhân quả và biết mọi việc trên thế gian đều tùy thuộc vào một số các việc khác.

Mười Thiện Nghiệp Dục Giới này chỉ là mười Nghiệp đối nghịch với mười Bất Thiện Nghiệp mà thôi.

Nhóm mười Thiện Nghiệp thứ hai là:

  1. Bố thí: Giúp đỡ người nghèo khó hay dâng cúng thực phẩm và vật dụng đến chư tăng.
  2. Trì giới: Giữ giới luật trong sạch: không sát sinh, trộm cắp, tà hạnh…
  3. Tham thiền: Luyện tâm, Phát triển tinh thần, hành Thiền Định và Thiền Minh Sát…
  4. Cung kính: Tôn kính người lớn tuổi, tôn kính người đáng tôn kính, nhường chỗ cho người đáng nhường.
  5. Phục vụ: giúp đỡ người khác, làm các công việc cho cộng đồng, làm công quả cho chùa, giúp người khác làm việc thiện.
  6. Hồi hướng công đức: Trước hết, đi làm phước rồi hồi hướng hay chia phước lành đến mọi người. Chia phước là giúp mọi người có cơ hội được hưởng phước báu qua hành vi phước thiện của mình. Chia phước không phải là tặng hoặc bố thí phước báu của mình cho người khác và mình không còn phước báu nữa. Chia phước báu là hành vi phước thiện tạo thành Nghiệp tốt. Chia phước càng khiến cho phước báu mình được gia tăng.
  7. Tùy hỉ: Hoan hỉ với phước báu của người khác, nghĩa là khi được người khác chia phước báu cho ta thì ta nói: Sādhu, sādhu, sādhu (lành thay, lành thay, lành thay). Có nghĩa là ta hoan hỉ, hạnh phúc với phước báu người khác đã tạo. Khi bạn hoan hỉ với phước báu của người khác thì chính bạn cũng được phước báu. Đó là vì khi bạn hoan hỉ, vui mừng thì sự hoan hỉ, vui mừng này đã lấy phước báu của người khác làm đối tượng. Đây là một thiện tâm. Chú Giải nói rằng: Dù cho người làm việc phước thiện có chia phước cho bạn hay không, thì bạn cũng có thể hoan hỉ với việc phước thiện của họ đã làm. Như vậy, nếu được người khác chia phước thì bạn hãy nói: “Sādhu, sādhu, sādhu” hay “lành thay, lành thay, lành thay”. Nếu họ không chia phước báu cho bạn, nhưng nếu bạn thấy hay bạn nghe rằng: người đó đã làm việc phước thiện thì bạn cũng có thể thực hành việc hoan hỉ phước báu của người khác bằng cách vui mừng hoan hỉ với phước báu này.
  8. Nghe pháp: Là nghe giáo pháp của Đức Phật. Việc học tập các loại nghệ thuật như: điêu khắc, vẽ tranh hoặc các học thuật chuyên môn để mở mang kiến thức mà không làm hại hay gây thương tổn cho ai cũng bao gồm trong phần nghe pháp.
  9. Thuyết pháp: Giảng dạy giáo pháp. Phần này cũng bao gồm cả việc giảng dạy Phật pháp và một vài loại ngành nghề, học thuật không xâm hại hay tổn thương đến kẻ khác và không chống trái những lời dạy của Đức Phật.
  10. Có chánh kiến: Có quan kiến đúng đắn, nghĩa là có kiến thức đúng đắn về nhân quả v.v… Quan kiến đúng đắn hay Chánh Kiến thật ra chỉ là ngược lại với tà kiến. Có quan kiến đúng đắn rất quan trọng, nếu có quan kiến sai lầm thì mọi việc làm của ta đều không phải là Thiện Nghiệp. Chúng ta phải có quan kiến đúng đắn hay Chánh Kiến về Nhân, về Quả, và những gì liên quan đến Nhân Quả.

Ba Thiện Nghiệp đầu tiên: bố thí, trì giới, và tham thiền là ba bước đầu tiên mà người Phật Tử phải thực hành.

Bố thí: Trong mười Ba La Mật hay mười phẩm hạnh cao thượng mà một vị Bồ Tát phải thực hành trọn vẹn thì bố thí là pháp đầu tiên. Bố thí (dāna) ở đây có nghĩa là cho ra, giúp đỡ hay cúng dường v.v… Bố thí (dāna) rất quan trọng vì bố thí giúp cho tâm của chúng ta êm dịu, và mềm dẽo. Bố thí còn tạo cơ hội cho chúng ta loại trừ Tham Ái, dính mắc. Mỗi khi chúng ta cho ra vật gì, không những ta cho ra vật đó mà còn dứt trừ tâm Tham Ái, dính mắc vào vật đó nữa. Như vậy, khi thực hành hạnh bố thí, chúng ta cũng đồng thời thực hành hạnh dứt bỏ, Tham Ái dính mắc vào vật ta cho ra.

Trì giới: còn được gọi là giữ phẩm hạnh đạo đức. Giữ giới là kiểm soát thân khẩu. Khi giữ giới là ta giữ phẩm hạnh trong sạch, ta không để cho thân và khẩu ô nhiễm bởi hành động và lời nói bất thiện. Là cư sĩ, bạn có thể giữ năm giới hay tám giới như các bạn đang thực hành trong khóa thiền này, nếu bạn muốn thực hành giới luật nhiều hơn bạn có thể giữ mười giới.

Tham thiền: giúp cho tâm thanh tịnh, an lạc hay đưa đến những tiến bộ tinh thần cao, khai mở trí tuệ. Bạn có thể hành Thiền Định hay Thiền Minh Sát. Do hành Thiền Định bạn có thể đạt được định tâm cao. Nếu bạn thành công trong việc thực hành một trong bốn mươi đề mục Thiền Định bạn có thể thực hành thêm để có thần thông. Qua hành Thiền Minh Sát bạn sẽ đạt đến chỗ dứt sạch mọi ô nhiễm trong tâm hay đạt cứu cánh Niết Bàn.

Cung kính và phục vụ: Đó là Thiện Nghiệp thứ tư và thứ năm: Cung kính những người đáng cung kính, và phục vụ giúp đỡ mọi người; hai điều này có thể bao gồm trong Thiện Nghiệp thứ hai, giới luật trong sạch, bởi vì khi bạn thực hành giới bạn kiểm soát hành động và lời nói. Cung kính và phục vụ là một biểu hiện của sự kiểm soát thân và khẩu, do đó được bao gồm trong giới luật, Thiện Nghiệp thứ hai.

Hồi hướng chia phước bao gồm trong Thiện Nghiệp thứ nhất, bố thí. Tùy hỉ hay hoan hỉ với phước báu của người khác cũng bao gồm trong bố thí bởi vì liên hệ đến sự bố thí, không phải mình cho ra, nhưng người khác cho ra.

Nghe pháp, thuyết pháp, và có quan kiến đúng đắn đều nằm trong Thiện Nghiệp thứ ba là tham thiền. Nghe pháp là một loại phát triển tinh thần. Thuyết pháp cũng thuộc phát triển tinh thần bởi vì bạn đang phát triển tâm mình. Có quan kiến đúng đắn hay có Chánh Kiến cũng thuộc về phát triển tinh thần.

Như vậy, chúng ta có thể thu gọn mười Thiện Nghiệp còn lại ba Thiện Nghiệp: Bố thí, trì giới, tham thiền. Yếu tố sáu và bảy vào yếu tố một: Bố thí; bốn và năm vào yếu tố thứ hai: Trì giới; tám, chín và mười vào yếu tố ba: Tham thiền.

(1) Bố thí: bao gồm hồi hướng (6), tùy hỉ (7).
(2) Trì giới bao gồm: cung kính (4), phục vụ (5).
(3) Tham thiền bao gồm: nghe pháp (8) thuyết pháp (9), Chánh Kiến (10).

Bây giờ chúng ta đã hiểu Bất Thiện Nghiệp và Thiện Nghiệp, chúng ta có thể theo lời dạy của Đức Phật trong kinh Pháp Cú:

“Không làm điều ác nào, Làm các hạnh lành, Thanh lọc tâm ý, Đó là lời dạy của chư Phật.”

Câu đầu tiên trong bài kệ Pháp Cú này là Sabbapāpassa akaraṇaṁ (Không làm điều ác nào). Chữ sabbapāpassa có hai phần: ‘Sabba’ có nghĩa là tất cả, và ‘pāpa’ có nghĩa là điều ác, như vậy “sabbapāpassa” có nghĩa là tất cả điều ác. Nhưng khi nói “Không làm tất cả các điều ác”, người ta có thể tranh biện: Nếu bạn nói “không làm tất cả các điều ác”, như vậy có nghĩa là “có thể làm ít điều ác cũng được”. Bởi thế, ở đây ta phải dịch là “không làm điều ác nào” tức là không làm điều bất thiện, không tạo các ác Nghiệp. Sau đó là “hoàn thành những việc thiện” có nghĩa là vun bồi Thiện Nghiệp hay làm những việc thiện; tiếp theo là thanh lọc tâm ý. Tâm chúng ta có nhiều phiền não hay ô nhiễm, bởi vậy Đức Phật dạy chúng ta hãy thanh lọc tâm. Câu Pháp Cú trên Đức Phật dạy chúng ta tránh xa điều ác, vun bồi hạnh lành, và thanh lọc tâm ý.

Chú Giải Kinh Pháp Cú giải thích câu đầu của bài kệ này, sabbapāpassa akaraṇaṁ là không làm những hành vi bất thiện, điều này dễ hiểu. Câu thứ hai, kusalassa upasampadā là làm khởi sinh các hành vi thiện lành, và phát triển những gì cần phải phát triển. Như vậy, ở đây câu: “vun bồi thiện tâm” hay “hoàn thành những việc thiện” là làm phát sinh Thiện Nghiệp, và tiếp tục, tiếp tục làm phát sinh Thiện Nghiệp, nghĩa là liên tục tạo Thiện Nghiệp. Câu này có nghĩa không phải chỉ làm việc thiện một lần mà phải tiếp tục làm việc thiện nhiều lần cho đến khi Thiện Nghiệp phát triển. Chú Giải cũng nói rằng: phải làm việc thiện cho đến khi đạt A La Hán đạo (Arahatta Magga) nghĩa là cho đến khi Giác Ngộ. Tôi nghĩ rằng: Chú Giải liên kết điều này với cuộc đời của Đức Phật. Là một hoàng tử, Đức Phật từ bỏ đời sống thế tục, xuất gia tu hành. Và trong sáu năm Ngài sai lầm thực hành khổ hạnh trong rừng, cuối cùng Ngài bỏ lối tu khổ hạnh, thực hành trung đạo và thành chánh quả. Từ lúc xuất gia cho đến khi Giác Ngộ Ngài đã thực hành và phát triển Thiện Nghiệp. Thứ ba sacittapariyodapanaṁ (Thanh lọc tâm ý), có nghĩa là làm cho tâm trong sạch, thoát khỏi năm chướng ngại. Thanh lọc tâm khỏi năm chướng ngại (phiền não) là một việc làm quan trọng bởi vì bao lâu vẫn còn chướng ngại trong tâm thì vẫn chưa thể hi vọng Giác Ngộ.

Nguồn trích dẫn:  Phật Pháp Căn Bản, Hòa Thượng Sīlānanda giảng, Hòa Thượng Kim Triệu hiệu đính, Sư Khánh Hỷ soạn dịch.

Hits: 38

Trả lời