128 quan điểm xấu ác và sai lầm -Wanko Yeshe Norbu

128 quan điểm xấu ác và sai lầm

LƯU Ý QUAN TRỌNG
Dưới đây là bản dịch tiếng Việt, chuyển ngữ từ bản dịch Anh ngữ từ bản gốc tiếng Trung. Bởi vì bản dịch này chưa được đức Wanko Yeshe Norbu kiểm tra lại và chuẩn y, chắc chắn bản dịch này có những sai sót dịch thuật. Do đó, chúng tôi nêu ra đây để lưu ý độc giả. Sau khi đức Dorje Chang III kiểm tra lại và chuẩn y bản dịch này, chúng tôi sẽ chúc mừng tất cả bạn đọc đã có cơ may được học Phật pháp từ bản dịch Việt ngữ chuẩn xác.

ĐỨC KIM CƯƠNG TRÌ III Wanko Yeshe Norbu
GIẢNG GIẢI NGẮN GỌN VỀ NHỮNG TRI KIẾN XẤU ÁC VÀ TRI KIẾN SAI LẦM
(Trích từ bài pháp thoại từ kim khẩu của Ngài)

Hôm nay ta sẽ giảng cho các con điều gì? Ta sẽ giảng về điều mấu chốt trong Phật pháp, đó là điều vô cùng quan trọng để đạt được giải thoát. Ta phải nhắc nhở các con, vì bài pháp ta giảng cho các con hôm nay là một bài pháp rất quan trọng, các con thực sự không thể coi nhẹ. Điều gì làm cho nó quan trọng? Pháp này liên quan đến một vấn đề lớn rằng các con có thể trải nghiệm những kết quả hữu ích từ việc học hỏi Phật pháp và tu dưỡng bản thân hay không. Nó liên quan đến việc con có thể tăng trưởng công đức, trí tuệ và đạt được giải thoát hay các con sẽ bị rơi vào một trong ba cõi thấp.

Hôm nay ta sẽ giảng về những tri kiến xấu ác và tri kiến sai lầm. Nếu những ai đang học hỏi Phật giáo và tu dưỡng bản thân mà rơi vào một trong số những tri kiến xấu ác này thì sẽ không thể đạt được giải thoát. Hơn nữa, sự tu tập của người ấy cũng sẽ không thể tăng trưởng công đức và trí tuệ, không thể đạt đến cảnh giới thành đạo.

Bất kể con thuộc tông phái nào, chỉ cần con muốn chấm dứt luân hồi sinh tử, muốn đạt được giải thoát, thì không được phép rơi vào một trong những tri kiến xấu ác và tri kiến sai lầm này. Nếu con rơi vào ngay cả chỉ là một trong số những tri kiến xấu ác con cũng không thể tích lũy được phước đức và trí tuệ bằng sự tu tập của con. Hơn nữa, con sẽ không thể đạt được giải thoát. Tuy nhiên, sau khi rơi vào những tri kiến này, nếu con sám hối và ngay lập tức sửa chữa thì sẽ không có vấn đề gì.

Tội của việc rơi vào tri kiến sai lầm thì nhẹ hơn so với tội rơi vào tri kiến xấu ác. Tuy là nhẹ hơn nhưng có một vài tri kiến sai lầm mà nếu đi theo sẽ gây ra vấn đề ngay cả khi con chỉ rơi vào một trong số các tri kiến đó. Có một số tri kiến sai lầm mà nếu đi theo sẽ ngăn con không thể hoàn thiện trong thực hành và trải nghiệm những kết quả hữu ích ngay cả khi con chỉ rơi vào hai hoặc ba trong số các tri kiến sai lầm đó.

Không theo 128 tri kiến này là quy định nghiêm ngặt của Pháp. Tất cả các Phật tử phải tuân theo quy định này, bằng cách không rơi vào những tri kiến này họ có thể kết thúc luân hồi sinh tử, nhận được kết quả linh thánh của sự thực chứng. Quy định này không phải do ai tạo ra mà đó chính là quy luật nhân quả, là việc thực hành giác ngộ chung của tất cả chư Phật chư bồ tát mười phương.

“tri kiến xấu ác và tri kiến sai lầm” là một phần quan trọng trong “Giải thoát Đại thủ ấn tối thượng”. Để tránh có người hiểu nhầm hoặc giảng giải sai lệch thậm chí coi thường những tri kiến này, hôm nay ta sẽ đích thân giảng giải chúng. Đây chỉ là bài giảng tóm lược.

Những tri kiến xấu ác thông thường sẽ được liệt kê dưới đây. Gọi là “thông thường” ở đây tức là không bao gồm tất cả những tri kiến xấu ác. Tuy nhiên, căn cứ vào pháp, những tri kiến chủ yếu đã được bao gồm. Nếu con không rơi vào những tri kiến xấu ác và tri kiến sai lầm này, con sẽ tự nhiên trở thành một người tu tập đức hạnh trên con đường đến giác ngộ, là người có chánh tri,chánh kiến và hành động theo Pháp. Mỗi một điều dưới đây đều bắt đầu với cụm từ “tri kiến cho rằng…”. Nếu con chấp nhận, đồng ý, hay thực hiện theo những điều dưới đây chính là con đã rơi vào các tri kiến xấu ác đó.

TÓM LƯỢC NHỮNG tri kiến XẤU ÁC VÀ tri kiến SAI LẦM

(Trích từ bài pháp khẩu truyền của Đức Wanko Yeshe Norbu)
38 tri kiến XẤU ÁC

1. Tri kiến cho rằng thánh thần và ma quỷ là những bậc đạo sư dẫn tới giải thoát.

Những người rơi vào tri kiến này tôn kính ma quỷ và thánh thần như là bậc thầy cho họ nương tựa vào để giải thoát, như những người dẫn dắt họ có thể nương tựa vào để đạt được thành tựu trong Pháp. Những người có tri kiến này kiên quyết tin rằng ma quỷ và thần tiên có thể cứu họ thoát khỏi những khổ đau của sinh, lão, bệnh, tử. Một người giữ tri kiến này tin rằng quỷ thần là những bậc thầy duy nhất có thể cứu họ thoát khỏi luân hồi sinh tử. Trên thực tế, ma quỷ và thần tiên thậm chí còn không thể chấm dứt luân hồi sinh tử của chính bản thân họ. Vì vậy họ chắc chắn không phải là bậc thầy giải thoát cho những người tu tập Phật giáo.

2. Tri kiến cho rằng đạt được những năng lực siêu nhiên là mục tiêu thành tựu trong Pháp.

Những người có tri kiến này nghĩ rằng mục đích của việc tu tập và học Phật pháp là đạt được những năng lực siêu nhiên và có khả năng thay hình đổi dạng. Họ nghĩ rằng có được những năng lực siêu nhiên là mục tiêu cuối cùng mà chúng ta nên theo đuổi. Họ nghĩ rằng đạt được những năng lực siêu nhiên là đồng nghĩa với đạt được thành tựu hay giải thoát. Các con phải hiểu rằng những năng lực siêu nhiên và thành tựu hay giải thoát là hai việc hoàn toàn khác nhau. Bất luận thần thông có vĩ đại đến thế nào thì chúng cũng không thuộc về bản chất của thành tựu hay giải thoát. Vì vậy, mục tiêu của thành tựu là sự viên mãn của phước huệ, thực chứng được tính Không của Chân như, và làm chủ cuộc sống và cái chết của mình.

3. Tri kiến cho rằng một người có thể vi phạm những giới luật của ba thừa – Phật giáo Nguyên thuỷ, Đại thừa và Kim Cương thừa.
Những người có tri kiến này cho rằng họ được phép vi phạm giới luật của ba thừa mà họ đã thọ nhận. Họ nghĩ rằng trong một số điều kiện về duyên nghiệp hay với một thực hành giáo pháp đặc biệt thì có thể xa rời giới luật của Tam thừa. Các con phải nhớ rằng trong bất kỳ hoàn cảnh nào thì giới luật của ba thừa đều không được phép vi phạm. Tất cả mọi người, bao gồm các cao tăng, pháp vương đều phải nghiêm chỉnh tuân thủ giới luật. Nếu không thì họ đều là những kẻ ngoại đạo đội lốt hành giả Phật giáo.
4. Tri kiến cho rằng tu tập tách biệt với Bồ-đề tâm.

Trong Phật pháp có rất nhiều pháp tu. Bất luận người ta sử dụng pháp tu nào đều không được tách rời Bồ-đề tâm. Bất kỳ sự tu tập nào tách rời Bồ-đề tâm đều là việc thực hành xấu átc. Vì vậy, điều quan trọng nhất trong tu tập là không bao giờ được tách rời Bồ-đề tâm. Ngoài ra, chúng ta không nên chấp thuận với những ai tu tập nhưng xa lìa Bồ-đề tâm.

5. Tri kiến cho rằng không cần tuân thủ tất cả giới luật đã thọ nhận.

Khi con đã thọ nhận một giới luật thì phải tuân theo nó đầy đủ. Con phải tuân thủ theo mỗi một và tất cả giới luật con đã thọ nhận. Nghĩ rằng con có thể chỉ tuân theo một hoặc một vài trong số những giới luật đó mà không cần tuân theo một số những giới luật khác là điều không thể chấp nhận. Bất kỳ suy nghĩ nào cho rằng không cần phải thọ giữ toàn bộ các giới luật đều là những quan niệm không những sai lầm mà còn xấu ác.

6. Tri kiến cho rằng một người có thể mạo danh một vị Phật hoặc vị Bồ Tát để truyền bá giáo Pháp.

Những người có tri kiến này nghĩ rằng để truyền bá Phật pháp và mang mọi người đến với Phật pháp thì có thể sử dụng phương tiện thiện xảo nâng cao uy tín của mình bằng cách tự xưng là một vị Phật hay một vị Bồ Tát nào đó. Họ bảo với đệ tử và bạn bè của họ tuyên truyền họ là một vị Phật hay một vị Bồ Tát. Những ai tham gia hoặc chấp thuận hình thức này đều bị xem là rơi vào tri kiến xấu ác.

7. Tri kiến của chủ nghĩa duy thực cho rằng, các hiện tượng thế gian thực sự tồn tại và không phải là huyễn ảo.

Điều này chạm đến chân lý tối hậu. Những người có tri kiến này cho rằng vạn pháp là thật sự tồn tại, không phải huyễn hóa, và có thực. Họ nghĩ rằng tất cả những gì tồn tại trong con người, trong mọi vật, trong mọi sự kiện là có thực. Đối với họ, tất cả các pháp thế gian không phải là vô thường mà là thật sự tồn tại và có thực. Họ xem mọi thứ là thật và không ảo huyễn. Đây là một tri kiến xấu ác.

8. Tri kiến rằng tính Không tách biệt khỏi và độc lập với các hiện tượng thế gian.

Những người có tri kiến này cho rằng tính Không và tất cả những điều thường thấy của pháp thế gian không có quan hệ với nhau. Họ nghĩ rằng chỉ cần thâm nhập vào tính Không thì tất cả hiện thực đều không tồn tại. Họ nghĩ rằng các pháp hữu vi không tồn tại trong tính Không và tính Không là độc lập với các pháp hữu vi. Đây là tri kiến xấu ác. Các con phải hiểu rằng tính Không không tách biệt với các hiện tượng thế gian. Khi đã chứng ngộ được tính Không, các con sẽ hiểu được Sắc tức là Không, Không tức là Sắc. Hai điều này không xung khắc với nhau. Sự thật cơ bản rằng cả hai là một và như nhau. Đó là Chân như, là Phật tính mà từ đó mọi diệu dụng sinh khởi.

9. Tri kiến cho rằng một người có thể đạt giải thoát chỉ bằng cách thực hành một pháp nào đó và không cần tu dưỡng bản thân.

Những người có tri kiến này nghĩ rằng một khi họ học được một pháp nào đó thì họ đã thành công. Chẳng hạn họ nghĩ thật tuyệt vời vì bây giờ họ có thể thực hành pháp thiền Thế thân kim cương, họ nghĩ rằng họ có thể thực hiện pháp và kiểm soát vận mệnh của họ theo ý muốn. Hay họ nghĩ rằng “Tôi có thể thực hành pháp tập trung nội nhiệt (tummo) để tiêu trừ các chướng ngại của nghiệp. Tại sao tôi cần phải tu dưỡng bản thân? Không cần tu dưỡng tôi vẫn sẽ thành tựu và được giải thoát.” Đó là một tri kiến xấu ác.

10. Tri kiến cho rằng, Pháp thân là thân có hình tướng.

Như Lai tạng, chân tâm của chúng ta tức là Pháp thân, Pháp thân là một trong ba thân: Pháp thân, Báo thân và Hóa thân. Những người có tri kiến này mô tả Pháp thân có hình tướng, kích thước, màu sắc hay có một cảm giác yên tĩnh, bình hòa hay an lạc. Bất kỳ tri kiến nào cho rằng Pháp thân là một đối tượng có hình dạng hoặc có nhận thức về cảm xúc là một tri kiến xấu ác.

11. Tri kiến cho rằng, con có thể làm những điều xấu mà vẫn thoát khỏi tội lỗi bằng cách nương tựa vào năng lực của chư Phật.

Những người theo tri kiến này nghĩ rằng nhờ năng lực tu tập của họ, họ đã được chư Phật và chư Bồ Tát mười phương gia hộ. Họ nghĩ rằng họ có thể làm điều xấu mà vẫn thoát khỏi tội lỗi bởi chư Phật và chư Bồ Tát sẽ tới và tiêu trừ tội lỗi của họ ngay lập tức.

12. Tri kiến cho rằng, cắt đứt khỏi sự bám chấp vào bản ngã đồng nghĩa với việc cắt đứt tình cảm dành cho cha mẹ mình.

Để cắt đứt bám chấp vào bản ngã, có những người nam và người nữ thậm chí còn không thừa nhận cả quan hệ của họ với cha mẹ mình. Cũng có những người con lờ đi cảm xúc của cha mẹ mình khi họ khóc lóc vì buồn bã trước quyết định xuất gia của con mình. Những người nam và nữ đó thậm chí còn nghĩ rằng làm như vậy là họ đang cắt đứt bám chấp vào bản ngã. Trên thực tế, sự bất tuân đạo làm con ấy chính là một tri kiến xấu ác. Cắt đứt bám chấp vào bản ngã là để làm lợi lạc cho chúng sinh, chăm sóc chúng sinh và đặt lợi ích của chúng sinh lên trên lợi ích bản thân mình. Điều này không có nghĩa là bất chấp những cảm xúc của cha mẹ mình và cắt đứt quan hệ với họ.

13. Tri kiến cho rằng một người có thể đạt tới Niết-bàn linh thánh chỉ bằng cách làm những việc thiện.

Những người có tri kiến trên nghĩ rằng miễn là họ làm việc thiện và mọi thứ họ làm đều vì lợi ích của chúng sinh, điều này là đủ để đạt tới niết bàn của các bậc thánh nhân và trở thành một vị Phật hoặc Bồ Tát. Một người phải biết rằng, làm việc thiện là hành bố thí có điều kiện. Theo luật nhân quả, việc bố thí như thế sẽ đưa tới quả báo trong cõi người hoặc cõi trời. Tuy nhiên, việc chứng đạt Niết-bàn linh thánh đòi hỏi một sự chứng ngộ trạng thái linh thánh. Điều này đồng nghĩa với việc đạt trạng thái không điều kiện mà trong đó, một người đã chấm dứt luân hồi sinh tử và có sự tự chủ hoàn toàn. Điều này có nghĩa là đạt tới miền đất thánh không sinh, không diệt. Do đó, việc nghĩ rằng, một người có thể đạt tới Niết-bàn linh thánh đơn thuần chỉ bằng cách làm việc thiện là một tri kiến xấu ác. Con phải hiểu rằng, bên cạnh cách đó, người tu tập còn phải thực hành cả pháp thánh linh và không điều kiện. Chỉ khi đó, họ mới có thể đạt được Niết-bàn linh thánh. Không có con đường nào khác ngoài con đường này

14. Tri kiến cho rằng một người nào đó không hành động xuất phát từ Bồ-đề tâm đại bi là một vị Bồ Tát.

Trong xã hội, có nhiều kiểu pháp vương, rinpoche, đạo sư và đại giảng sư. Một số người trong số họ không có Bồ-đề tâm và không hành động vì Bồ-đề tâm. Tuy nhiên, một số phương tiện đại chúng lại miêu tả họ như là những vị đại Bồ Tát. Trên thực tế, họ là những bậc đạo hạnh giả mạo. Do đó, người nào không có Bồ-đề tâm của lòng đại bi thì không phải là Bồ Tát cho dù kẻ đó có mang địa vị gì đi chăng nữa. Tri kiến nhìn nhận những kẻ không hành động vì Bồ-đề tâm đại bi là Bồ Tát chính là một tri kiến xấu ác.

15. Tri kiến không tin chắc vào nhân quả mà lại mê tín vào bói toán và vận may.

Những ai theo tri kiến này không thực sự tin luật nhân quả. Họ không tin vào luật nhân quả một chút nào. Họ phủ nhận luật nhân quả. Thay vào đó, họ tin vào sự bói toán và vận may. Đây là một tri kiến xấu ác. Con phải hiểu rằng vạn pháp đều nằm trong luật nhân quả

16. Tri kiến cho rằng, việc chỉ truyền bá giáo lý tính Không mà không nói về việc tu tập thực sự thông qua các hành vi cụ thể là có thể chấp nhận được.

Loại trường hợp này tồn tại ở Phật giáo Hiển thừa nhiều hơn. Tuy nhiên, nó cũng tồn tại trong Phật giáo Mật thừa. Một số người nổi tiếng hiện thời trong xã hội đặc biệt thích truyền bá những nguyên lý của tính Không. Họ nói về phương pháp Thiền đề thâm nhập vào chân lý. Họ giải thích rằng mọi hiện tượng đều không có tự tính và vốn trống rỗng, rằng một người nên có một trạng thái tâm không bám chấp vào bất cứ điều gì, rằng tâm của một người nên trống rỗng và an tĩnh. Họ nói về bản tính nguyên thủy không đến và không đi. Họ nói về những ngyên lý này bằng những ngôn từ phức tạp, khoa trương, bí hiểm và khó hiểu. Họ đặc biệt thích nói về Kinh Pháp Bảo Đàn, Kinh Kim Cương và Bát nhã. Họ nói liên tục về nguyên lý của tính Không mà không bao giờ đề cập đến sự tu tập thực sự thông qua việc thực hành cụ thể. Họ không dạy tu tập thực sự là thế nào. Họ không dạy chúng sinh làm thế nào để thực hành con đường dẫn tới giác ngộ bằng những hành động cụ thể. Có quá nhiều người như vậy. Họ vi phạm nghiêm trọng luật nhân quả. Một người có thể nói về nguyên lý và sự thực về tính Không như một điều có trong Phật pháp. Tuy nhiên, đó chỉ là lý thuyết và không thể giải quyết được vấn đề chấm dứt vòng luân hồi sinh tử. Điều này giải thích tại sao đức Phật Thích-ca Mâu-ni dạy chúng ta làm thế nào để tu dưỡng bản thân. Chỉ có thông qua sự tu dưỡng và chuyển hóa nhân và quả mà một người mới có thể thực chứng được trạng thái mà những lý thuyết đó mô tả. Do đó, người nào chỉ truyền bá những nguyên lý của tính Không mà không giảng về sự tu dưỡng thực sự thông qua thực hành cụ thể là người xấu ác. Tri kiến này là một tri kiến xấu ác.

17. Tri kiến cho rằng, sự tồn tại của sáu cõi luân hồi chỉ là truyện cổ tích, không có thực.

Những ai theo quen điểm này nhìn nhận sáu cõi luân hồi: trời, a-tu-la, người, địa ngục, súc sinh và ngạ quỷ chỉ tồn tại trong truyện cổ tích. Họ nghĩ rằng những cõi này không tồn tại. Họ nghĩ rằng không có ma cũng như chẳng tồn tại sáu cõi luân hồi. Liệu quan niệm này sẽ không dẫn tới kết luận rằng tất cả nhân và quả là vô nghĩa và sai lầm, và rằng luật nhân quả là không đúng đắn? Con phải hiểu và suy nghĩ cho thấu đáo về việc này. Đức Phật Thích-ca Mâu-ni đã dạy rằng sáu cõi luân hồi là có thật. Ngài nói về sự đau khổ của sinh, lão, bệnh và tử và ngũ trược của thời mạt pháp … Tất cả các con đang sống trong thực tại đó. Làm sao điều này lại có thể không tồn tại? Những điều đó là sự thật.

Việc một người phủ nhận sự tồn tại của luân hồi là đang đối lập với đức Phật. Những người này có thể mô tả cõi giới loài người với những nỗi khổ của sự sinh, lão, bệnh và tử như là cõi Tịnh độ của phương Tây. Ta sẽ cho con một ví dụ. Thực sự có những người muốn thay đổi thế giới đầy khổ đau này thành cõi tịnh độ của loài người. Những người này làm những việc tốt, khuyến khích lòng nhân ái với người khác, và hướng dẫn người khác rằng trở thành một người tốt và làm việc thiện là đang thực hành tứ vô lượng tâm. Tuy nhiên, nếu con tin rằng thế giới này có thể biến thành cõi Tịnh độ thực sự của loài người, thì con đang tin vào một điều đi ngược lại với giáo lý của đức Phật. Không có phương pháp nào có thể thay đổi luật nhân quả và luân hồi đã tồn tại trong một thế giới. Cho dù bất kỳ phương pháp nào được áp dụng để tạo ra một kết quả như kỳ vọng, kết quả đó cũng không phải là một cõi tịnh độ. Cõi người vẫn là cõi người. Cõi Tịnh độ vẫn là một cõi Tịnh độ. Sự khác nhau đó như thể là giữa thiên đường và mặt đất vậy. Một bên là thế giới linh thánh và bên còn lại là thế gian thông thường. Cõi tịnh độ là một thế giới ở đó không có sự sinh và diệt. Chúng sinh ở đó mặc những gì họ muốn và ăn những gì họ nghĩ tưởng tới. Không có hình bóng của sự vô thường ở đó. Ngược lại, cái gọi là cõi tịnh độ trong thế giới loài người sẽ đầy rẫy sự đau khổ của sinh, lão, bệnh, và tử.

Con người không thể có áo quần hay thức ăn chỉ bằng cách nghĩ tưởng tới quần áo mặc hay thức ăn. Họ phải làm việc, kiếm tiền để có được những thứ đó. Họ không thể dựa vào trí tưởng tượng để có được chúng. Trong thế giới này, chúng sinh không muốn chịu đau khổ của sinh lão bệnh tử nhưng sự đau khổ này thực sự vẫn tồn tại. Việc thế gian này đầy ắp sự đau khổ là không thể tránh khỏi. Cho dù bất kỳ phương pháp nào được áp dụng, kết quả vẫn chỉ là sự kế thừa những thuộc tính của vô thường vốn gắn với một cõi giới trong phạm vi của vòng luân hồi. Không ai có thể thay đổi được sự vô thường, vốn được tạo ra bởi sinh và diệt, đang tồn tại trong thế giới này. Không bất kỳ người thường nào, cho dù thông thái bao nhiêu, có thể trốn tránh khỏi sự đau khổ của ngũ trược bởi vì đó là quy luật không thể tránh khỏi của vô thường đã tồn tại trong sáu cõi luân hồi. Do đó, sáu cõi luân hồi có tồn tại.

18. Tri kiến cho rằng, một vị đạo sư hoặc một bậc thánh tăng nổi tiếng chắc chắn là những bậc đạo hạnh linh thánh

Bất kỳ khi nào, người theo tri kiến này khi gặp một đạo sư hoặc tăng sĩ nổi tiếng, đều kết luận rằng, đó là bậc thánh tăng hay bậc đạo hạnh linh thánh. Vậy cụm từ “đạo sư hay tăng sĩ nổi tiếng” có ý nghĩa thế nào? Họ thuộc loại những cao tăng đã có tên tuổi hoặc được xem là tuyệt vời trên khắp thế giới. Những người theo tri kiến này kết luận rằng, những tăng sĩ như vậy đều là bậc đạo hạnh linh thánh vĩ đại. Trên thực tế, những tăng sĩ trên có thể có và cũng có thể không là những bậc đạo hạnh linh thánh. Thậm chí có một số vị pháp vương cực kỳ nổi tiếng trong Phật giáo thực chất chỉ là những người bình thường.

19. Tri kiến cho rằng, những lợi ích cá nhân còn quan trọng hơn cả Phật pháp.

Khi có sự xung đột giữa lợi ích cá nhân của con và Phật pháp, con chọn Phật pháp hay lợi ích của bản thân mình? Nếu con coi lợi ích của riêng con cao hơn Phật pháp, thì tri kiến đó của con là xấu ác. Con phải không được nhìn nhận lợi ích cá nhân cao hơn Phật pháp. Phật pháp là kho tàng tối cao. Một người từ bỏ mạng sống của mình thì còn tốt hơn là anh ta từ bỏ Phật pháp.

20. Tri kiến cho rằng, một người có thể giết chết một sinh mạng mà không phạm tội chỉ nhờ việc người đó tụng thần chú để nâng đỡ sinh linh đã chết lên cõi giới cao hơn.

Những người theo tri kiến này nghĩ rằng, bằng việc tụng thần chú để nâng đỡ sinh linh đã chết, họ có thể đưa thần thức của sinh linh này lên cõi giới cao hơn, bao gồm cả những chúng sinh mà họ giết hoặc bất kỳ chúng sinh bị chết nào khác. Họ nghĩ rằng miễn là một sinh linh đã chết, họ có thể nâng đỡ sinh linh đó lên cõi giới cao hơn bằng cách tụng thần chú để nâng đỡ sinh linh đã chết. Làm như thế, họ nghĩ rằng sẽ không còn vấn đề gì nữa. Tuy nhiên, nếu con tụng thần chú nâng đỡ thần thức của sinh linh đã chết trong khi con lại cố ý giết hại một sinh linh sống, con sẽ không thể nâng thần thức của họ lên cõi giới cao hơn mà còn phạm vào một tội đặc biệt nghiêm trọng. Do đó, những người nào tụng thần chú nâng đỡ thần thức sinh linh đã chết mà lại giết hại một sinh linh đang sống sẽ không tăng trưởng được một chút công đức nào. Kết quả duy nhất là nghiệp xấu của người đó sẽ còn nặng thêm.

21. Tri kiến cho rằng, việc đối kháng với những vấn đề được quyết định bởi bậc đạo sư gốc của mình, người đã có cả sự chứng ngộ linh thánh và Bồ-đề tâm là chấp nhận được.

Thuật ngữ đạo sư gốc đề cập tới bậc đạo sư gốc có sự chứng ngộ linh thánh và Bồ-đề tâm; đó là, một người có đạo hạnh cao cả và sự chứng ngộ linh thánh và hành động với Bồ-đề tâm. Hơn thế, một đạo sư như vậy không mắc phải bất kỳ điều nào của 128 tri kiến xấu ác và sai lầm. Con thực hành pháp Ngài truyền như giáo pháp căn bản của con. Ví dụ, vị Bổn tôn của con đến từ việc thực hành pháp ngài truyền cho con, con dự định thực hành cả đời Pháp ngài đã trao truyền cho con cho tới khi đạt thành tựu. Đó là ý nghĩa của bậc đạo sư gốc. Nếu một đệ tử nghĩ rằng đối kháng hoặc bỏ qua những vấn đề được đạo sư gốc quyết định là có thể chấp nhận được, thì đây là một tri kiến xấu ác. Tuy nhiên, nếu bậc đạo sư gốc mắc phải một vài điều trong 128 tri kiến này, thì ông ấy có thể đã trở thành một đạo sư xấu ác bất chấp rằng ông ấy là một pháp vương, một tôn giả, hay một vị thầy. Trong trường hợp này, con tuyệt nhiên có thể không làm theo và thực hiện điều ông ấy quyết định, vì làm vậy là hỗ trợ cho điều xấu ác. Nếu con tiếp tục theo một đạo sư với những tri kiến xấu ác và sai lầm, con sẽ không nhận được bất kỳ kết quả lợi lạc nào từ việc bạn thực hành bất kỳ Pháp nào.

22. Tri kiến cho rằng, việc kính trọng chư Phật và bậc đạo sư của con nhưng lại không hiếu thảo với cha mẹ là chấp nhận được.

Một vài người rất kính trọng vị đạo sự của họ cùng các vị Phật và Bồ Tát. Tuy nhiên, họ cãi lại hoặc nói một cách ngang ngược với cha mẹ và đối kháng với ước nguyện của cha mẹ họ. Họ không thể hiện lòng hiếu thảo với cha mẹ và thậm chí bỏ rơi cha mẹ của họ để đi đến những nơi xa xôi, nơi họ hoàn toàn bỏ mặc cha mẹ. Điều này phản ánh một tri kiến xấu ác.

23. Tri kiến tin tưởng vào một địa vị và thân thế của ai đó hơn là chân lý tối hậu.

Có một vài vị pháp vương, rinpoche và pháp sư có địa vị rất cao. Họ có thể thậm chí xếp hạng nhất nhì trong những vị pháp vương, rinpoche và pháp sư vĩ đại. Khi chúng ta nghe họ giảng giải sai lạc giáo pháp, chúng ta không vận dụng chân lý đúng đắn và tối hậu để nhận ra những lỗi như vậy, và chúng ta không áp dụng những nguyên lý Phật pháp để xét đoán xem lời họ nói có đúng hay không. Chúng ta nghĩ rằng pháp họ diễn giải chắc chắn phải chính xác đơn giản bởi vì họ có địa vị là pháp vương cao quý hay những địa vị khác. Tri kiến như thế là một tri kiến xấu ác.

24. Tri kiến cho rằng, những chúng sinh đã từng là những vị Phật sau này lại bị đọa xuống làm chúng sinh bình thường.

Có một vài người thường miêu tả những chúng sinh như là những vị Phật. Họ nói rằng từ khởi thủy những chúng sinh đã từng là những vị Phật nhưng sau đó bị đọa xuống thành những chúng sinh do sự vô minh và phiền não tăng trưởng. Đây là một học thuyết xấu ác được thêu dệt bởi những người không hiểu gì về Phật pháp. Chúng sinh luôn là chúng sinh và từ khởi thủy chưa bao giờ là những vị Phật. Chúng sinh bị chi phối bởi những nghiệp chướng, như là những nỗi khổ của sinh, lão, bệnh, tử. Tuy nhiên, tất cả chúng sinh đều có Phật tính. Họ có thể trở thành những vị Phật nhờ việc học Phật giáo, tu tập, và thực hành theo Pháp. Các con phải hiểu rằng những chúng sinh tuyệt đối không phải là bị đoạ từ những vị Phật trở thành chúng sinh. Những chúng sinh là những chúng sinh. Không có chuyện các vị Phật bị đọa thành chúng sinh. Nếu những vị Phật có thể bị đọa thành những chúng sinh, thì khi nào Phật Thích-ca Mâu-ni sẽ đọa thành một chúng sinh đây?

25. Tri kiến cho rằng việc kết hợp pháp thực hành ngoại đạo với pháp thực hành của Phật pháp là chấp nhận được.

Kiểu trường hợp này là rất nhiều. Mọi người thực hành kết hợp Phật pháp và những phương pháp ngoại đạo. Đây là do có số lượng lớn và đa dạng các phương pháp hay thực hành ngoại đạo, như là việc chọn một giờ tốt hay ngày lành cho một sự kiện, âm dương, phong thủy, lá số tử vi hay bùa chú, gọi hồn, bói toán bằng các ký tự Trung Hoa và những phương pháp khác, lên đồng, nuôi âm binh, và v.v… Tất cả những điều này là thực hành ngoại đạo. Thực hành kết hợp những cách đó cùng với Phật pháp là xấu ác.

26. Tri kiến cho rằng, luật nhân quả chỉ là do tưởng tượng và không có thực.

Một vài người nghĩ rằng luật nhân quả không tồn tại. Họ nghĩ rằng chẳng cần phải e ngại vì chẳng có nghiệp báo gì cả. Họ nghĩ rằng vẫn ổn khi làm điều tồi tệ mà không ai phát hiện ra. Nói ngắn gọn, với họ không có điều gì là nghiệp báo cả. Hãy nhớ rằng, cho rằng luật nhân quả chỉ là tưởng tượng và không có thực là một tri kiến xấu ác.

27. Tri kiến cho rằng, mọi hiện tượng phi thường kỳ lạ là biểu hiện của những năng lực siêu nhiên đến từ Phật pháp.

Trong thế giới này, có nhiều dạng hiện tượng huyền bí và lạ thường. Ngoại đạo sử dụng những hiện tượng như vậy để lừa gạt và làm rối loạn chúng sinh. Khi làm việc đó, họ đã tạo mọi loại nghiệp xấu. Tất cả các hiện tượng kỳ lạ này không phải là biểu hiện của những năng lực siêu nhiên đến từ Phật pháp mà chỉ là những việc làm của ma quỷ.

28. Tri kiến cho rằng, một bậc đạo sư đã học những Pháp cao cấp chắc chắn là một bậc thánh nhân vĩ đại.

Một vài người nghĩ rằng vì một vị thầy đã nhận một quán đảnh vĩ đại hay đã học một Pháp cao cấp, người đó phải là một thánh nhân vĩ đại. Điều đó không đúng. Nếu bạn có một cái nhìn như vậy, bạn đã rơi vào tà đạo. Một vị thầy đã học một pháp cao cấp không nhất thiết đã thành tựu trong thực hành pháp cao cấp đó. Một vị thầy đã học pháp cao cấp không nhất thiết đã tuân thủ đúng giới luật theo pháp cao cấp đó. Các con phải xác định xem vị thầy này có mắc phải bất kỳ điều nào trong 128 quan điểu xấu ác và sai lầm không. Bởi vậy, các con không nên nghĩ rằng một người nào đó đã học những Pháp cao cấp chắc chắn là một bậc thánh nhân vĩ đại. Một người trở thành một thánh nhân vĩ đại thông qua chính sự tu tập cụ thể của họ.

29. Tri kiến cho rằng, con có thể trì hoãn sự tu tập của mình đến ngày mai.

Mọi người thường nghĩ, “Hôm nay tôi mệt quá, nên tôi sẽ không thực hành pháp, tôi sẽ tập vào ngày mai.” Hay họ nói, “Mình sẽ tận hưởng ngày hôm nay. Ngày mai mình sẽ thực hành pháp. Ngày mai mình sẽ tu dưỡng tâm và những hành động của mình.” Ngay khi những suy nghĩ như vậy xuất hiện trong tâm thức, họ đã gieo một hạt giống nghiệp dẫn đến đọa vào luân hồi mà không được giải thoát. Hãy nhớ trong tâm rằng đây là một hạt giống nghiệp dẫn đến sự suy đồi. Sự tu tập không thể bị hoãn đến ngày mai. Làm như vậy là rơi vào tri kiến xấu ác này.

30. Tri kiến cho rằng, một bậc đạo sư có thể nói những điều sai trái và lừa dối chúng sinh là chấp nhận được.

Một vài vị đạo sư nói điều sai trái để lừa dối chúng sinh và những đệ tử của họ. Họ nói rằng làm như vậy họ đang sử dụng phương tiện thiện xảo. Tuy nhiên, những vị đạo sư làm điều này đang theo một tri kiến xấu ác. Những người nghĩ cách cư xử như vậy là có thể chấp nhận được cũng đang nuôi dưỡng một tri kiến xấu ác.

31. Tri kiến cho rằng, con có thể được hưởng những kết quả lợi lạc từ sự thực hành mặc dù con cố tình nói dối bậc đạo sư gốc của con.

Có những người cố ý nói dối với đạo sư gốc của họ, hoặc là khi được đạo sư hỏi, họ giấu đi một nửa sự thật, và nghĩ rằng điều đó không ảnh hưởng gì lớn cả, thậm chí họ còn thấy điều đó là tự nhiên và đúng đắn. Thế là họ cư xử như thể chẳng có gì là sai cả. Đây là một tri kiến xấu ác. Thật vậy, khi nào con còn nói dối với đạo sư của con, thì con sẽ không nhận được những thành quả tốt từ việc thực hành Pháp. Không chút lợi ích nào có thể có được, bất kể con thực hành Pháp nào, vì các vị bổn tôn và hộ pháp sẽ không gia trì cho con.

32. Tri kiến ủng hộ những người có năng lực siêu nhiên nhưng không hành động xuất phát từ Bồ-đề tâm.

Có một số hành giả hay yogi đạt được những năng lực siêu nhiên nhưng không hành xử xuất phát từ Bồ-đề tâm, nếu một người nào ủng hộ cho những người có năng lực siêu nhiên nhưng không hành động bằng Bồ-đề tâm, thì người đó đã bị rơi vào tri kiến xấu ác này.

33. Tri kiến ủng hộ những giảng sư, rinpoche và cư sĩ mà phẩm hạnh của họ không phù hợp với giới luật.

Có những rinpoche, giảng sư, và cư sĩ chưa bao giờ thọ một giới nào. Thậm chí có những người đã nhận giới luật nhưng lại không giữ giới mà họ đã thọ nhận. Đó là những giảng sư, rinpche và cư sĩ dởm, họ chỉ mang hình thức bề ngoài nhưng không hề thực sự là như vậy. Vì vậy, mỗi rinpoche, giảng sư hoặc cư sĩ phải thọ nhận những giới luật phù hợp với họ và phải tuân theo những giới luật này theo đúng với Pháp.

34. Tri kiến cho rằng việc giúp đỡ những đạo sư xấu của con làm những điều xấu lại là hành động bảo vệ Pháp.

Có những đệ tử mà đạo sư gốc hoặc đạo sư của họ tham gia vào những hành vi xấu vi phạm các giới luật của Phật giáo. Những đệ tử này không những không chịu rời bỏ thầy mình, mà còn có những nỗ lực lớn lao để giúp thầy mình làm những điều nằm trong 128 tri kiến xấu ác và sai lầm này. Họ cho rằng họ đang bảo vệ Pháp. Đây là một tri kiến xấu ác.

35. Tri kiến cho rằng việc chấp nhận và đi theo một bậc thầy truyền bá sai lầm hoặc không hiểu về Phật pháp thì hơn là việc đi theo một bậc thầy tốt.

Những môn đồ mắc tri kiến này chấp nhận và đi theo một vị thầy dù ông ta giảng dạy sai lạc và không hiểu biết đúng về Phật pháp. Khi thấy ra sự sai phạm của thầy mình, họ không chịu mau rời bỏ để tìm kiếm một bậc thầy Phật giáo có thể thực sự giảng những giáo lý đúng đắn theo đúng với Pháp; họ cứ tiếp tục đi theo người thầy giảng sai về Pháp. Điều này gieo nhân dẫn đến một đời sống suy thoái. Một đệ tử như vậy nên ngay lập tức tìm một vị thầy tốt có đức hạnh cao cả, nếu không, người đó sẽ bị đọa xuống một trong ba cõi thấp.

36. Tri kiến ủng hộ việc bố thí không trong sáng mà trong đó người bố thí ghi nhớ và bám chấp vào hành động bố thí.

Khi làm bất cứ điều tốt nào, chúng ta không nên có suy nghĩ của một người bố thí không trong sáng, luôn ghi nhớ và bám chấp vào hành vi bố thí của mình. Sau khi làm một điều tốt, ta nên buông xả nó. Chúng ta đã làm điều đó xong rồi và nó đã trôi qua. Ta chỉ đơn giản quên chúng đi ngay sau đó. Lòng từ và bi của ta nên đến tự nhiên như là bản năng. Hành động với lòng từ bi không nên là điều gì mà chúng ta phải cố ý mới làm được. Vì vậy, khi con có suy nghĩ của một kẻ bố thí không trong sáng, luôn ghi nhớ điều mình làm và bám chấp vào nó, thì phước báo của con cũng sẽ bị giới hạn trong cõi người hoặc cõi trời. Con chỉ có thể được hưởng phước đức hạn chế và không thể trở thành một bậc thánh. Vì rằng động cơ hay hạt mầm con đã gieo trồng là không trong sáng, thì quả con gặt được cũng sẽ không vững chắc. Những kết quả có được từ động cơ không trong sáng cuối cùng cũng sẽ cạn kiệt. Khi chúng đã hết và con không cố gắng tích lũy thêm những phước đức khác, thì sẽ tới lúc con phải gánh chịu hậu quả của những nghiệp xấu.

37. Tri kiến ủng hộ một người không chịu hối lỗi công khai vì đã truyền bá sai lầm giáo lý trong kinh điển.

Một số người đã truyền bá sai lầm những giáo lý trong kinh điển nhưng vẫn bám chấp vào bản ngã và thể diện. Họ không thể nào buông bỏ được cách nghĩ của một người bình thường. Vì thế mà họ không ăn năn hối lỗi công khai. Họ sẽ tự nói “tôi đã tự mình sửa chữa rồi!” Điều đó là không thể chấp nhận được. Người như vậy không phải là một hành giả thực sự. Các vị hộ pháp sẽ không tha thứ cho họ. Hơn nữa, luật nhân quả không bao giờ sai. Những người truyền bá sai lầm những giáo lý trong kinh điển cần ngay lập tức hối lỗi công khai trước mọi người. Cái họ cần là kết quả trong tu tập chứ không phải là giữ thể diện. Chắc là con sẽ không muốn bị đọa xuống một trong ba cõi thấp nhất để rồi mang lốt của loài vật hay là ma quỷ.

38. Tri kiến cho rằng, việc tự gọi bản thân là một vị Phật hay Bồ Tát trước mặt các đệ tử của con là chấp nhận được.

Người mà, trước các đệ tử, tự tuyên bố mình là tái sinh của một vị đức hạnh cao cả, của một vị Phật hay Bồ Tát, hay một vị thánh nhân vĩ đại … thì đó là người lừa dối. Tuy nhiên, nếu người ấy có sự chứng nhận danh tính được ban hành theo đúng quy định của Pháp, thì tất nhiên người đó đúng là người trong giấy chứng nhận đã công nhận. Tuy vậy, người ấy vẫn nên khiêm tốn và không được khoe khoang. Bằng không thì người ấy cũng chỉ có tâm thức của một người bình thường mà thôi. Nếu một người không hề có chứng chỉ công nhận theo quy định của Pháp thì họ càng không nên liều lĩnh đi khoe khoang về mình. Điều đó sẽ tạo cho họ nghiệp xấu dẫn đến tái sinh một trong ba cõi thấp. Người liều lĩnh khoác lác về mình sẽ phải bị nghiệp báo to lớn và khủng khiếp. Con đừng bao giờ làm như thế.

Những gì ta đã mô tả trên đây là những tri kiến xấu ác. Những tri kiến này không chỉ mang tính ngoại đạo mà còn rất tồi tệ. Đây là những vấn đề thực sự nghiêm trọng. Con nên nhớ rằng, việc truyền bá cuốn giáo pháp này là không thể bị ngăn trở. Cả thế giới sẽ đọc nó. Họ sẽ sao nó từ Bản ghi về những trường hợp không thể chối cãi. Chỉ bằng cách chân thành học Phật pháp và làm lợi ích cho tất cả chúng sinh mà con mới trở thành một bậc lãnh đạo phạm hạnh vĩ đại hoặc một bậc thầy thực sự vĩ đại trong thế hệ của con.

Ta lấy ví dụ, chúng ta có ba bậc phạm hạnh đã đạt quả vị trên đường đạo. Đỉnh đầu của họ đã được mở rộng. Ý thức của họ có thể đi ra và quay trở lại thân thể tùy ý. Họ thậm chí có khả năng khiến ý thức rời khỏi thân thể để nâng một vật hoặc rời khỏi thân thể họ để hành thiền. Họ có thể làm những việc đó không chút trở ngại. Họ đã hiểu tâm và nhìn thấy bản tánh nguyên thủy của họ. Họ đã đạt được giải thoát toàn hảo. Những điều này và những thành tựu khác của họ phản ánh một chuỗi những năng lực chứng ngộ. Tuy nhiên, họ vẫn rất khiêm tốn.

Con phải đặc biệt thận trọng và chú tâm. Khi khám phá ra rằng con đang theo bất kỳ một trong những tri kiến xấu ác này, nếu con không sám hối một cách sâu sắc và sửa chữa ngay lập tức, con sẽ không đạt được kết quả lợi lạc từ việc thực hành bất kỳ pháp nào và thậm chí sẽ còn bị thoái hóa. Điều này đúng với bất cứ người nào, bất kể địa vị mà người đó có được, như những tổ sư, pháp vương, hay tôn giả. Đó là nghiệp xấu con phải trả từ việc không sửa chữa bản thân sau khi theo một trong những tri kiến xấu ác này. Con vẫn đang chịu ảnh hưởng của nghiệp xấu thậm chí nếu con cho rằng con không bị ảnh hưởng bởi con là một Bồ tát đã đạt quả vị Diệu giác. Con tự xưng đều đó chỉ có ý nghĩa rằng, con là bậc Bồ tát diệu giác giả mạo. Khi một vị bồ tát ở địa diệu giác khám phá ra lỗi lầm của mình, vị đó sẽ nói ngay như thế này “Tôi thật sai lầm. Tôi xin sám hối trước toàn thể chư Phật mười phương và trước các đệ tử của tôi!” Vị đó sẽ nói vậy bởi vì vị đó cởi mở và thẳng thắn và không có một chút phiền não nào. Do đó, cho dù địa vị của con có cao thế nào, nếu con không sám hối sau khi khám phá ra rằng, con đang theo một tri kiến xấu ác, con sẽ không được lợi lạc gì từ việc thực hành bất cứ Pháp nào. Con sẽ càng ngày càng xa với những năng lực chứng ngộ.

Tại sao ta lại đề cập đến khái niệm “năng lực chứng ngộ”. Bởi vì có nhiều người mong muốn ta truyền pháp cho họ nhờ đó họ có năng lực siêu nhiên để hàng phục chúng sinh. Những vị rinpoche hay giảng sư loại này đã yêu cầu như vậy thực sự không chín chắn và rất vô minh! Các vị hộ pháp sẽ kiểm soát liệu con có đủ khả năng thể hiện năng lực chứng ngộ hay không. Khi con theo những tri kiến xấu ác này, các vị hộ pháp sẽ coi con như một người xấu. Họ ghi lại những lỗi lầm của con. Họ thậm chí, một ngày nào đó, có thể hỗ trợ cái chết đến với con. Tuy nhiên, con vẫn tham lam tìm cách lừa dối để có được năng lực chứng ngộ. Làm sao mà các vị hộ pháp có thể giúp con trong việc thực hiện sự lừa dối đó? Trong Phật pháp, chỉ có trạng thái chứng ngộ là thanh tịnh, hoàn mỹ và vô ngã. Không có chuyện đạt được khả năng siêu nhiên hay sức mạnh của Pháp nhờ vào sự may mắn. Chư Phật và chư Bồ-tát sẽ không ban cho con những năng lực như vậy. Không phải là ta từ chối trao cho con những năng lực đó. Thậm chí ngay cả khi con học và thực hành các nghi lễ, con sẽ không thành công trong việc đạt được những năng lực đó. Hơn nữa, động cơ của con không tốt khi con tìm kiếm phương cách “hàng phục” chúng sinh một cách kỳ quặc. Con phải rõ ràng về điều này. Con không nên áp dụng những phương pháp để trấn áp họ. Con nên giáo hóa họ nhờ vào lòng đại bi của mình. Ta rất lấy làm xấu hổ khi ta không có được những năng lực chứng ngộ. Ta đã nói với Kaichu Rinpoche, “Sự hành trì pháp tập trung nội nhiệt của con thực sự đáng ngạc nhiên. Điều này đã gây ấn tượng đối với ta. Ta không có khả năng đó. Tuy nhiên, ta hy vọng rằng, ta sẽ không nhìn thấy con thể hiện sức mạnh này của mình lần thứ hai. Ta hy vọng sẽ nhìn thấy con thể hiện nhiều hơn Bồ đề tâm linh thánh dựa trên lòng từ bi vĩ đại. Nếu không có Bồ đề tâm, con sẽ không được hưởng bất cứ lợi ích gì đến từ chánh tư duy.”

Nếu con theo dù chỉ một tri kiến xấu ác mà không sám hối và sửa chữa rốt ráo, con không chỉ không có được năng lực chứng ngộ hoặc kinh nghiệm bất cứ kết quả tốt nào từ việc hành trì của mình, con sẽ còn phải ở trong luân hồi mãi mãi. Hơn nữa, những ai vi phạm nghiêm trọng dù chỉ một tri kiến xấu ác, sẽ phải bị đọa xuống một trong ba cõi thấp trong vòng luân hồi! Thậm chí, điều này không chừa cả những người nào dính dáng tới những kẻ đi theo một tri kiến xấu ác. Nếu con không rời bỏ những ai đang đi theo một tri kiến xấu ác và không hề thay đổi và sám hối, con sẽ bị ảnh hưởng bởi nghiệp xấu từ sự vi phạm của họ. Giờ ta sẽ nói về việc nếu con có liên quan với người theo một tri kiến xấu ác. Có thể con là đệ tử hoặc đồng môn của người đó. Con khám phá rằng người đó đã phạm vào một tri kiến xấu ác. Có thể ban đầu, người đó không ý thức được việc vi phạm này. Tuy nhiên, sau này, một ai đó nhắc nhở rằng anh ta đang vi phạm vào một tri kiến xấu ác, nhưng người đó không thay đổi hay sám hối. Nếu biết sự việc này mà con vẫn tiếp tục liên kết và không rời bỏ người đó, con sẽ chịu nghiệp xấu bởi sự vi phạm của anh ta. Điều này vô cùng nghiêm trọng.

Nếu một vị thầy không vi phạm một trong 128 tri kiến xấu ác và sai lầm này, người đó chắc chắn là một bậc phạm hạnh linh thánh. Những ai là đệ tử của vị thầy đó cần phải kính trọng và cúng dường thầy với một trái tim sùng kính nhất và nên làm mọi thứ có thể để giới thiệu người khác trở thành đệ tử của thầy. Bất kỳ người đệ tử nào làm điều này cũng tích tập được vô lượng công đức. Bất kỳ người đệ tử nào không theo 128 tri kiến xấu ác và sai lầm này là người sở hữu đức hạnh và phẩm chất của một bậc thầy linh thánh. Không nghi ngờ gì người đó sẽ không chỉ trở nên thành tựu mà chắc chắn còn làm lợi ích cho mọi người, cứu giúp chúng sinh và trở thành hình mẫu cho người khác.

Bài pháp trên đây được giảng từ tâm Bồ đề luôn vì mục đích làm lợi ích cho chúng sinh một cách bình đẳng và vô ngã. Mục tiêu là để làm lợi ích cho những ai là những vị thầy và để bảo vệ và chăm sóc chúng sinh để họ tích tập những phẩm hạnh xứng đáng, làm nền tảng cho trí tuệ và phước báu. Tất cả những nguyên lý ta giải thích trên đây là phù hợp với Pháp và giáo lý của đạo Phật. Những gì ta giải thích trên đây không có gì vì lợi ích cho bản thân ta hay cho bất kỳ cá nhân cụ thể nào khác, và cũng hoàn toàn không mang tinh thần bộ phái. Mọi Phật tử nên hàng phục tâm mình và nuôi dưỡng tâm thái đúng đắn dựa trên những gì ta đã giải thích ở trên. Tiếp đến, ta sẽ giải thích những tri kiến sai lầm. Những tri kiến sai lầm này ít nghiêm trọng hơn những tri kiến xấu ác.

Tuy nhiên, việc theo hai hay ba tri kiến sai lầm cũng tạo nghiệp xấu gần như là theo một tri kiến xấu ác, tùy vào tính nghiêm trọng của từng tri kiến sai lầm mắc phải. Nếu con đi theo một tri kiến sai lầm nào đó mà kết quả của vi phạm tương đối nhẹ so với việc theo các tri kiến sai lầm khác, thì hậu quả xảy ra có thể không nghiêm trọng như vậy. Tuy nhiên, nếu con theo một tri kiến sai lầm nào đó mà kết quả của vi phạm nặng nề hơn việc theo những tri kiến sai lầm khác, những hậu quả xảy ra có thể rất nghiêm trọng. Con chắc chắn không nên chủ quan về thực tế này.

Những tri kiến sai lầm thông thường được tổng kết ở danh sách dưới đây. Cụm từ “thông thường” ở đây có nghĩa là không phải toàn bộ những tri kiến sai lầm được nêu ra dưới đây. Tuy nhiên, những tri kiến sai lầm quan trọng hơn đã được bao gồm trong đó.

90 tri kiến SAI LẦM

1. Tri kiến cho rằng, có thể hành thiền để thay thế cho việc đưa các khái niệm vào thực hành là chấp nhận được.

Ngay cả một số vị có đạo hạnh lớn cũng rơi vào tri kiến này. Những người mà ta đề cập đến là những bậc có đạo đức thực sự. Một số vị trong thời xưa cũng rơi vào tri kiến này. Ít nhất là họ đã phản ánh tri kiến này trong các bài giảng của họ, nhưng không làm như vậy trong thực tế. Những người có tri kiến này thường xuyên sử dụng các thuật ngữ như thiền định về bồ đề tâm, thiền định về tứ vô lượng tâm và thiền định về thập thiện.

Nếu một người ngay lúc bắt đầu tu tập mà sử dụng thiền định để thực hành bồ đề tâm, tứ vô lượng tâm hay thập thiện là tu trì sai. Thực hành thiền liên quan đến thực chứng khái niệm tính Không, nhận ra rằng các đặc điểm thuộc tính của hiện tượng là trống rỗng, chứng ngộ sự không bám chấp, cắt bỏ vọng tưởng, trở về với tâm nguyên thủy.

Làm như điều trên đã làm mất đi sự tu tập thật sự của lòng từ bi. Vì vậy, nó không thể tạo ra công đức. Làm sao người ta có thể thực hành bồ đề tâm như vậy? Do đó, khi thực hành tứ vô lượng tâm hay bồ đề tâm, người mới bắt đầu tu tập không nên dựa vào thiền định hay quán niệm. Họ phải dựa vào việc luyện tập đưa những khái niệm vào trong thực hành. Họ phải chuyển đổi những ý niệm cứng nhắc của họ vào hành động thực tế.

Họ nên tập trung tâm trí của họ và chuyển đổi tâm trí đó sang hành động. Họ phải đưa những khái niệm của họ vào thực hành, thực hiện những việc mang lại lợi ích cho chúng sinh và thực hành các đề mục pháp mà họ đang quán chiếu. Họ nên thực hành như vậy một cách cụ thể qua từng lời nói và từng hành động của họ.

Điều này có nghĩa là đưa những khái niệm vào thực hành. Chỉ khi người ta thành thạo trong việc đưa những khái niệm vào thực hành thì người ấy mới có thể thực hành thiền để tu tập đến cảnh giới vô sở trụ. Từ thiền người ta sẽ nhập vào định. Từ đó người ta có thể thâm nhập sâu vào thực tế rằng sự rỗng không và sự tồn tại là không khác và cuối cùng có thể chứng ngộ trạng thái chân không diệu hữu khởi lên từ Phật tánh.

2. Tri kiến cho rằng ngồi thiền là tu dưỡng bản thân.

Một số người nói rằng khi họ ngồi thiền là họ đang tu dưỡng bản thân. Ngồi thiền không phải là tu dưỡng, đó chỉ là ngồi thiền. Ngồi thiền chỉ để trực tiếp thể nghiệm mùi vị của bản tính nguyên thủy. Thông qua quan sát trực tiếp người ta đi đến hiểu được tâm thức và nhìn thấy được bản tính nguyên thủy của họ.

Tuy nhiên, mục tiêu này không phải lúc nào cũng có thể đạt được. Một số người sử dụng việc ngồi thiền với mục đích trực tiếp thể nghiệm chân lý tối hậu của Pháp nhưng không thể làm được như vậy. Tu dưỡng bản thân là một điều hoàn toàn khác. Ngồi thiền thì chưa được một phần mười của việc tu tập. Thiền chỉ là một trong sáu ba la mật (lục độ), không liên quan tới năm ba la mật còn lại. Trong việc tu dưỡng bản thân người ta phải đối mặt với chúng sinh trong đời sống thực tế, đối mặt với tâm thức của họ và hành động như Đức Phật đã làm.

3. Tri kiến cho rằng, chỉ đơn giản bắt ấn và niệm chú là thực hành Pháp.

Một số người bắt ấn và niệm chú và nghĩ rằng họ đang thực hành pháp. Điều này là sai lầm. Đó không phải là thực hành pháp. Ngoài bắt ấn và niệm chú, một bài thực hành pháp phải bao gồm các pháp khí, quán tưởng, phương hướng, thời gian và tất cả những nghi thức được nêu trong tài liệu hướng dẫn hành trì pháp.

4. Tri kiến cho rằng, việc chỉ thực hành một pháp đã là tu dưỡng bản thân.

tri kiến cho rằng việc chỉ thực hành một pháp cụ thể đã là tu tập là một tri kiến sai lầm. Một thực hành pháp là một thực hành pháp. Đó không phải là tu dưỡng bản thân. Tu dưỡng đòi hỏi phải thực hiện bồ đề tâm của lòng đại bi, phải tuân thủ các giới luật và nhiều điều khác.

5. Tri kiến cho rằng, việc nghiên cứu giáo lý trong kinh điển là tu dưỡng bản thân.

Một số người dành tất cả thời gian của mình nghiên cứu các giáo lý trong kinh điển. Họ có thể trì tụng kinh điển thuộc lòng và lưu loát. Họ tự gọi mình là người tu tập Phật giáo. Điều đó là không chính xác. Họ chỉ là những học giả Phật giáo tham gia vào nghiên cứu Phật giáo. Họ không phải là người tu tập. Chúng ta không nên chấp nhận tri kiến sai lầm này. Chấp nhận nó có nghĩa là bản thân các con cũng có tri kiến sai lầm này hoặc các con chấp nhận người khác có tri kiến sai lầm này. Dù với cách nào thì nó cũng phản ánh một quan niệm sai lầm.

6. Tri kiến cho rằng, một người có tri kiến xấu ác và sai lầm vẫn có thể phát triển thành công những năng lực siêu nhiên thông qua sự thực hành của người đó.

Trong trường hợp này, người đã rơi vào tri kiến xấu ác hay tri kiến sai lầm nhưng vẫn nghĩ rằng họ có thể phát triển thành công năng lực siêu nhiên thông qua việc thực hành. Họ nghĩ rằng một ngày bánh trung thu sẽ rơi từ trên trời xuống khi họ đưa bàn tay mình ra hoặc hễ họ ra lệnh thì các vị hộ pháp sẽ xuất hiện ngay lập tức.

Điều đó là không thể. Không có những điều như vậy. Chỉ cần các con rơi vào tri kiến xấu ác hay tri kiến sai lầm các con sẽ không thể phát triển năng lực siêu nhiên thông qua thực tập. Thậm chí dù các con có phát triển năng lực siêu nhiên thì rồi nó cũng sẽ biến mất. Có hai vị rinpoche là hai ví dụ sống: Một người trong số họ đã có một nền tảng tốt trong Phật pháp. Vì vậy, ông ta yêu cầu được thọ quán đảnh Thiền Nhất Vị trong “Giải Thoát Đại Thủ Ấn Tối Thượng”.

Tuy nhiên, sau khi nhận được lễ quán đảnh đó, ông ta không thể nhập định vào cảnh giới nhất vị, ở đó sự trống rỗng và tồn tại là một và giống nhau. Điều duy nhất có thể được làm là thực hiện một lễ quán đảnh khác, lần này là lễ quán đảnh Thần Tài Trắng. Sau khi nhận lễ quán đảnh Thần Tài Trắng, ông ta vẫn không thể đạt đuợc trạng thái phát sinh. Vì vậy việc nhận quán đảnh đã không thành công.

Vị rinpoche khác đã thực hành pháp tập trung nội nhiệt (tummo), ông ta có thể nâng nhiệt độ cơ thể của mình lên đến 163 độ F (73 độ C). Tuy nhiên, sau đó điều lạ lùng đã xảy ra. Nhiệt độ cơ thể ông có được từ việc thực hành pháp tập trung nội nhiệt càng ngày càng hạ thấp và hoàn toàn biến mất trong vòng nửa năm. Ông trở lại với tình trạng ban đầu của một chúng sinh bình thường.

Cả hai vị rinpoche đều thấy nguyên nhân các vấn đề của họ. Đó là họ đã rơi vào tri kiến xấu ác và tri kiến sai lầm. Một trong những vị rinpoche ngay lập tức sửa chữa chính mình. Ông đã nhận được một quán đảnh khác nhưng vẫn không thành công, Ông ta đã nhiều lần tìm nguyên nhân và đã tìm ra hơn ba tri kiến xấu ác hay tri kiến sai lầm ông đã rơi vào. Tuy nhiên, vì ông ta không sám hối triệt để, nên việc nhận quán đảnh lại vẫn không thành công. Cuối cùng ông ta đã sám hối một cách sâu sắc triệt để. Sau đó, ông ta đã có thể trải nghiệm trạng thái phát sinh trong suốt lần quán đảnh kế tiếp.

Vị rinpoche thứ hai là người đã thực hành pháp tập trung nội nhiệt. Sau khi ông ta sám hối triệt để từ tận lòng mình, một điều rất tuyệt vời đã xảy ra với sức nóng bên trong của ông. Nhiệt độ tâm phong minh điểm, tam mạch, ngũ luân, và mật luân của ông đều tăng theo từng ngày. Sự thực hành giáo pháp Tummo của ông từ từ trở về trạng thái ban đầu.

Chỉ hai ví dụ này đã nói rõ triệt để về điều trên. Vì vậy, tất cả mọi người phải nhớ rằng không thể có việc một người rơi vào tri kiến xấu ác và tri kiến sai lầm lại có thể đạt được năng lực siêu nhiên hay sự chứng ngộ.

7. Tri kiến cho rằng, việc một bậc thầy có thể đưa ra những yêu cầu phi lý đối với học trò là chấp nhận được.

Thậm chí có rất nhiều người được gọi là đạo hạnh rơi vào tri kiến này. Họ tự coi mình là quá tuyệt vời và nghĩ rằng đệ tử phải chấp nhận những yêu cầu vô lý của họ như là một biểu hiện tuân theo của ba nghiệp. Trên thực tế, những người được gọi là đạo hạnh như vậy có tâm thái ích kỷ của một kẻ phàm phu. Họ chắc chắn không có những khả năng siêu nhiên thật sự. Tri kiến như vậy là sai lầm.

Có lẽ họ hành động theo những lời nói sai lầm của các bậc đạo hạnh thuở xưa. Trên thực tế, họ đã sai bất kể việc họ dựa vào quy định của bất cứ bậc đạo hạnh ngày xưa nào. Một bậc thầy không có quyền đưa ra một yêu cầu vô lý đối với đệ tử. Nếu vị thầy là một bậc thánh thì càng phải giảng pháp một cách đúng đắn hơn. Ông ta không nên gây ra thậm chí một chút hiểu lầm có thể tổn hại về thể chất hoặc tinh thần cho đệ tử. Một bậc thầy linh thánh càng phải dùng đạo đức vô tư vị tha của mình để thu hút chúng sinh đến với Phật pháp.

Bất cứ ai nghĩ rằng một bậc thầy có thể đưa ra những yêu cầu phi lý đối với đệ tử là chứa chấp tri kiến sai lầm này. Tuy nhiên, chỉ trong một trường hợp vị thầy kiểm tra đệ tử để xem duyên nghiệp đệ tử đó đối với Pháp, bậc thầy có thể sử dụng các phương pháp đặc biệt để quan sát đệ tử.

Tuy vậy, một tiêu chuẩn cơ bản là người thầy phải làm điều đó dựa trên tấm lòng đại bi dành cho đệ tử và vì lợi ích tương lai của đệ tử hơn là lợi ích cá nhân của người thầy. Hơn nữa, những người duy nhất đủ điều kiện để thực hiện những bài kiểm tra như vậy là những bậc thầy linh thánh, những bậc thầy đã đạt đến hai bậc cao nhất trong sáu bậc của năng lực kim cương. Ví dụ như đạo sư Marpa, người đã kiểm tra tổ sư Milarepa.

8. Tri kiến cho rằng, việc nghe hoặc đọc những quan niệm ngoại đạo của ai đó mà không lưu ý với thính chúng rằng đó là những quan niệm ngoại đạo là chấp nhận được.

Những người có quan niệm này khi thấy ai đó tuyên truyền tà thuyết có hại cho chúng sinh, họ chỉ nghĩ đến việc tu tập của bản thân mà không quan tâm đến người khác. Họ nghĩ: “Sai lầm của người khác tức là sai lầm của tôi. Xem tất cả mọi người như là một thực thể chính là có một lòng đại bi. Tôi sẽ không nói cho người khác biết về điều này. Tôi sẽ không làm điều đó. Tôi sẽ chỉ tập trung vào tu tập bản thân”.

tri kiến như vậy là sai lầm. Các con phải làm tất cả những gì các con có thể để ngăn chặn những tà thuyết. Các con nên nói cho những người đã nghe các ý tưởng đó như thế này: “Tất cả những gì các bạn đã nghe là những tà thuyết đi ngược lại những giáo lý kinh điển. Thầy của chúng tôi đức Dorje Chang III tuyệt đối không giảng như vậy.” Các con phải ghi nhớ một điều. Bất cứ khi nào các con nhìn thấy một người tuyên truyền những tà thuyết, các con phải báo cho chúng sinh để họ hiểu. Đừng để những tà thuyết của người ấy tiếp tục lan truyền làm hại chúng sinh nhiều hơn.

Tuy nhiên các con phải ghi nhớ rằng nếu những lời nói ti tiện của kẻ ấy trực tiếp làm tổn hại đến con thì hãy nghĩ rằng, “Sai lầm của người khác tức là sai lầm của mình. Xem tất cả mọi người như là một thực thể chính là lòng đại bi.” Các con con nên lặng lẽ chịu đựng sự sỉ nhục đó và không nên nói cho người khác biết về nó.

9. Tri kiến cho rằng việc ốm đau có thể chữa khỏi được bằng sự cầu nguyện gia trì mà không cần tu dưỡng bản thân.

Những người có tri kiến này nghĩ rằng không tu dưỡng bản thân thì bệnh của họ vẫn có thể được chữa khỏi chỉ bằng cách cầu chư Phật và chư Bồ tát hay đạo sư của họ gia trì cho họ. Suy nghĩ như vậy là sai lầm. Người ta phải tu dưỡng bản thân. Tu dưỡng bản thân, cầu nguyện sự gia trì cộng thêm uống thuốc, làm tất cả những điều đó thì bệnh của người ấy mới được chữa khỏi.

10. Tri kiến cho rằng, thuốc của Phật giáo có thể chữa trị mọi chứng bệnh.

Những người có tri kiến này nghĩ rằng những loại thuốc khác nhau như là thuốc kéo dài cuộc sống (trường thọ hoàn), thuốc quý giá nhất (chí bảo hoàn), thuốc quý (đại bảo hoàn), thuốc kim cương (kim cương hoàn), thuốc cam lộ (cam lộ hoàn) có thể chữa được bách bệnh. Đây là điều vô lý, các con không nên chấp nhận. Tri kiến này là vi phạm luật nhân quả. Nếu các con chấp nhận nó các con đã rơi vào tri kiến sai lầm. Không sai, ta có rất nhiều thuốc của Phật. Hơn nữa đều là thuốc quý. Trong đó có nhiều loại thuốc linh thánh thật sự có sức gia trì rất lớn. Tuy nhiên, chúng tuyệt đối không phải là thuốc chữa trị bách bệnh.

11. Tri kiến cho rằng, một người có thể ăn thịt sau khi người đó được xuống tóc và trở thành tu sĩ.

Sau khi một người đã xuống tóc và trở thành một tu sĩ, người đó sẽ thọ nhận các giới luật, chẳng hạn như giới luật dành cho các nữ tu mới tu (sa-di ni giới), giới luật dành cho các nhà sư nam mới tu (sa-di giới), giới luật dành cho nữ tu (tỉ -khâu ni giới), giới luật dành cho các nhà sư nam(tỉ-khâu giới) v.v.. Một khi các con đã thọ nhận những giới luật như thế, các con không được phép ăn thịt. Đây là một quy định rất nghiêm ngặt. Dù các con ở trong bất cứ địa vị nào, nếu ăn thịt các con sẽ bị vi phạm giới luật.

12. Tri kiến cho rằng, không cần phải thực hành Bồ-đề tâm sau khi con đã nhận được quán đảnh cao cấp.

Những người có tri kiến này cho rằng: “Hôm nay tôi đã thực hành một bài Pháp cao cấp. Tại sao tôi phải thực hành Bồ-đề tâm nữa? Pháp mà tôi nhận được tuyệt vời như vậy, tôi sẽ sớm đạt được thành tựu. Tôi không cần thực hành Bồ-đề tâm nữa.” Đây là tri kiến sai lầm. Nếu người ta không hành động xuất phát tử Bồ-đề tâm, thì kết quả thực hành bất kỳ một Pháp cao cấp nào đều sẽ giống như sự phản chiếu của mặt trăng trên mặt nước hoặc sự phản chiếu của những bông hoa trong gương – nhìn thấy được nhưng không có thật.

13. Tri kiến cho rằng, không thực hành sáu hạnh ba la mật là chấp nhận được.

Cho dù các con đang thực hành Pháp nào, các con vẫn phải thực hành sáu hạnh ba la mật: bố thí, trì giới, tinh tấn, nhẫn nhục, thiền định và trí tuệ. Nếu các con nghĩ rằng các con không cần phải thực hành sáu hạnh ba la mật thì các con đã rơi vào tri kiến sai lầm. Dù các con có thực hành bất kỳ Pháp nào cũng không thể thay thế cho sáu hạnh ba la mật.

14. Tri kiến cho rằng, có tồn tại một Pháp tối thượng có thể phù hợp với tất cả chúng sinh.

Các đệ tử của ta thường nói: “Pháp của chúng tôi là cao cấp nhât. Pháp của Đức Dorje Chang III là tối thượng. Nó là vô song. Nó có thể cứu độ tất cả chúng sinh. Không có chúng sinh nào mà Pháp này không cứu độ được!” Hôm nay ta nói cho tất cả các con rằng tri kiến này là sai lầm. Có một số chúng sinh không thể cứu độ được, một số chúng sinh là những kẻ xấu ác. Họ thậm chí còn phỉ báng Pháp. Ba nghiệp của họ sẽ không phù hợp với Pháp. Một số người trong họ thực sự là ma quỷ muốn chống lại Phật Pháp.

Hơn nữa, trong Phật Pháp, không có Pháp nào là Pháp tối thượng phù hợp với tất cả chúng sinh. Chưa bao giờ có một Pháp nào như vậy. Trong số tất cả các chư Phật, không có một vị Phật nào có Pháp như vậy. Chúng sinh là những thực thể với những duyên nghiệp khác nhau. Một người sẽ trải nghiệm được kết quả lợi lạc từ việc thực hành Pháp chỉ khi Pháp đó phù hợp với người ấy. Một người sẽ không thể trải nghiệm được lợi ích từ việc thực hành Pháp nếu Pháp đó không phù hợp với người ấy.

Mặc dù có Pháp vô cùng tuyệt vời, nhưng một bậc thầy sở hữu Pháp đó sẽ không dạy cho người không có đủ lòng sùng mộ. Thậm chí nếu vị thầy có dạy Pháp như vậy cho người đó thì họ cũng không thể thực hành Pháp thành công. Vì vậy, mặc dù Pháp như vậy là tốt nhưng nó vẫn không thể cứu độ được họ.

15. Tri kiến cho rằng, có thể tiến hành một buổi lễ quán đảnh ở một vị trí cách xa nơi mà người nhận quán đảnh đang ở.

Luôn luôn có những buổi lễ quán đảnh như vậy trong xã hội. Những người thực hiện chúng thực chất là những thầy giả hiệu. Ví dụ, một ai đó đang ở một nơi xa, ông ta gửi một số tiền cùng với tên và địa chỉ của mình cho một hành giả Mật tông – người sẽ tiến hành buổi lễ quán đảnh. Vị hành giả Mật tông này sau đó sẽ tiến hành một buổi lễ quán đảnh cho người đó. Đó gọi là lễ quán đảnh từ xa. Những người tiến hành nó là những kẻ hoàn toàn bịp bợm.

Mặc dù họ mặc y áo của người tu tập Phật giáo nhưng họ chỉ là những kẻ phàm phu tục tử xấu ác. Các con phải hiểu rằng trước khi các con học một Pháp, cần phải xác định liệu các con có một nền tảng tâm linh phù hợp và liệu các con có là người phù hợp để nhận Pháp đó hay không. Các con phải trải qua sự quan sát và kiểm tra rất nghiêm ngặt. Một buổi lễ quán đảnh không thể được tiến hành cho một người không gặp gỡ người thực hiện lễ quán đảnh, người chưa trải qua những bài kiểm tra và người chưa được xác định phù hợp với những tiêu chuẩn của Pháp. Nếu các con đồng ý với tri kiến nhận lễ quán đảnh từ xa là các con đã sai lầm.

16. Tri kiến cho rằng, miễn là con làm việc thiện, con có thể đạt giải thoát mà không cần thực hành Pháp.

Những người có tri kiến này cho rằng miễn là họ làm việc thiện như: xây nhiều chùa, mở một số tuyến đường hoặc cung cấp cứu trợ cho một số người có nhu cầu, họ có thể đạt được giải thoát mà không cần thực hành Pháp. Đây là tri kiến sai lầm. Làm những việc tốt như vậy sẽ nhận được nghiệp quả hạn chế như những phước báu ở cõi người và cõi trời. Nó sẽ không dẫn đến giải thoát. Người ta có thể đạt được giải thoát chỉ khi người đó kết hợp làm viện thiện cùng với sự tu tập và thực hành Pháp.

17. Tri kiến cho rằng, việc cắt bỏ bám chấp vào bản ngã đồng nghĩa với việc không quan tâm đến sự khổ đau của những người khác.

Trong nổ lực thoát khỏi bám chấp vào bản ngã, những người có tri kiến này cho rằng họ không phải quan tâm đến nỗi đau khổ của người khác, thậm chí cho dù là người thân của họ đang đau khổ. Họ nghĩ rằng nếu quan tâm đến bệnh tật hay nỗi buồn của người khác, họ sẽ bị bó buộc bởi sự lo lắng về những nỗi đau đó. Họ quyết định làm ngơ trước những nỗi đau như vậy và nghĩ rằng đó là cắt bỏ bám chấp vào bản ngã.

Đây là một tri kiến sai lầm. Cắt bỏ bám chấp vào bản ngã có nghĩa là đặt lợi ích của bản thân xuống sau cùng và đặt lợi ích của người khác lên trên đầu. Nó có nghĩa là không làm hại kẻ khác về thể chất hoặc tinh thần và không làm họ đau buồn. Tuy nhiên, tất cả những gì chúng ta làm phải xuất phát từ bồ đề tâm. Chúng ta không được tạo ra bất kỳ bám chấp nào vào bản ngã. Đây là sự tu tập thật sự để cắt bỏ bám chấp vào bản ngã.

18. Tri kiến cho rằng, việc thực chứng tánh Không không liên quan đến trình độ chứng ngộ và công đức.

Ngày xưa có nhiều người đi theo tri kiến này, ngày nay cũng có nhiều người như vậy. Những người có tri kiến này nghĩ rằng việc thực chứng tính Không có nghĩa là hiểu được sự rỗng không của tứ đại và sống một cuộc sống không bị ô nhiễm bởi các đối tượng của sáu giác quan. Làm sao công đức và năng lực thực chứng lại có thể tồn tại trong tính Không đây?

Đây là một tri kiến sai lầm. Tất cả các năng lực siêu nhiên đều phát sinh từ việc thực chứng tính Không. Những thực chứng về tính Không đạt được thông qua công đức tính luỹ được từ tu tập. Chỉ bằng cách chuyển đổi nghiệp của một người thông qua tu tập tích lũy công đức mà người ấy mới có thể thực chứng tính Không. Đó là lý do tại sao Đức Phật dạy tất cả chúng sinh liên tục thực hành sáu hạnh ba la mật, tuân thủ các giới luật và v.v… Đây là cách nhìn mà từ đó con nên cố gắng hiểu vấn đề này.

19. Tri kiến cho rằng, tất cả những người lãnh đạo một dòng truyền thừa chính thống đều là những đạo sư xứng đáng đứng đầu dòng phái của họ.

Những người có tri kiến này nghĩ rằng một bậc thầy dẫn dắt một dòng truyền thừa pháp chính thống phải là những đạo sư đứng đầu hợp pháp dòng phái của họ. Tình hình này gây ra sự nhầm lẫn và hỗn loạn lớn trong giới Phật giáo và là một vấn đề nghiêm trọng nhất. Có thể nói rằng trong số một trăm người được gọi là bậc thầy lãnh đạo dòng truyền thừa chính thống của họ, hầu như tất cả là giả mạo.

Vậy dòng truyền thừa của họ có chính thống không? Dòng truyền thừa của họ là chính thống, nhưng thường thì sự tu tập và thực hành của họ là sai. Trong số một ngàn vị thầy lãnh đạo dòng phái có lẽ chỉ duy nhất một vị là lãnh đạo xứng đáng dẫn đầu dòng phái của họ. Đó là bởi vì tu tập là hành vi của cá nhân. Việc một bậc thầy dẫn đầu của dòng truyền thừa chính thống là xứng đáng phải phụ thuộc vào sự tu dưỡng và thực hành cụ thể. Các con không thể chỉ đơn giản nhìn vào dòng truyền thừa của họ mà xác định sự xứng đáng của họ.

Ví dụ, ta, Kim Cương Trì III trực tiếp truyền pháp. Đây là dòng truyền thừa Pháp đích thực. Các đệ tử của ta thường tu dưỡng bản thân và thực hành tốt. Những năng lực siêu nhiên mà họ đã thực chứng có được là rất hiếm hoi và ít thấy trên thế giới này. Tuy nhiên, ta vẫn có không ít đệ tử, bao gồm cả một số là các bậc thầy, đi theo tri kiến xấu ác và tri kiến sai lầm. Hơn nữa, họ không chỉ rơi vào một hoặc hai trong số những tri kiến đó. Vì vậy, tất cả các con phải chú ý vấn đề này. Dùng 128 tri kiến này để xác định người nào có sự hiểu biết đúng đắn và có tri kiến đúng đắn hay không và người nào là một đạo sư xứng đáng dẫn đầu dòng phái của họ.

Một vài đệ tử nói với ta: “Thưa sư phụ, Ngài có thể nói về những tri kiến sai lầm một cách mềm mại hơn không? Nếu không, làm thế nào chúng con có thể ra ngoài và cứu độ chúng sinh? Có tông phái nào nói rằng đệ tử của họ là có vấn đề? Dù thế nào không phải là chúng con vẫn tốt hơn nhiều so với những người được gọi là cao tăng và những đại đức ở các tông phái của họ sao?” Ta nói với họ “Cho dù con có tốt hơn họ nhiều hay ít đều vô dụng. Các con phải trở thành những vị thầy thuần tịnh trên con đường đi đến giác ngộ. Thậm chí nếu các vị thầy trong giới Phật giáo, bao gồm tất cả các con, tất cả đều than phiền về ta và rời bỏ ta, ta vẫn phải nói về những hiểu biết đúng đắn và những quan niệm đúng đắn để duy trì giáo Pháp thật sự của các đấng Như Lai và bảo vệ những gốc rễ trí huệ của chúng sinh dẫn đến giải thoát.”

20. Tri kiến cho rằng việc tiến hành một buổi lễ quán đảnh hoặc truyền Phật pháp vì tiền là chấp nhận được.

Có những người tổ chức ngay lập tức một lễ quán đảnh cho một người nào đó sau khi nhận được tiền cúng dường của họ. Làm như vậy là đã rơi vào tri kiến sai lầm. Cho dù một lễ quán đánh được tổ chức hay không nên được dựa trên năng lực tâm linh và thiện căn của người được nhận. Không được để một lễ quán đảnh được thực hiện đơn giản chỉ dựa trên sự cúng dường bằng tiền bạc.

Các đệ tử nên cúng dường cho thầy của họ. Dĩ nhiên, ta không nói là các con nên cúng dường cho ta. Ta đã nói là ta không nhận cúng dường. Điểm mấu chốt là phải có một sự hiểu biết rõ rằng sau đây: một người không nên nhận một lễ quan đánh chỉ vì người đó đã trả tiền và người ta không nên nhận Phật pháp chỉ vì người đó đã trả tiền. Một lễ quán đảnh được thực hiện dựa trên tiền bạc là một lễ quán đảnh sai trái.

Điều này cũng có nghĩa những ai tổ chức lễ quán đảnh khi được trả tiền là những vị thầy giả mạo. Nếu các con không tin điều này, thì hãy để vị thầy như vậy làm bài kiểm tra sáu bộ về những phẩm chất của một vị thầy. Các con sẽ thấy ngay vị thầy đó là thật hay giả.

21. Tri kiến cho rằng, những ai được kế thừa vị trí lãnh đạo của một ngôi chùa lớn chắc chắn là một bậc thánh nhân đạo hạnh.

Có một số ngôi chùa rất lớn. Và khi có ai đó kế thừa vị trí cao nhất của ngôi chùa như vậy, tất cả mọi người thường nghĩ rằng người kế tục này chắc chắn là một thánh nhân. Điều đó không đúng! Hãy nhớ những gì ta nói ở đây. Không có gì đảm bảo rằng người đứng đầu một ngôi chùa vĩ đại là một thánh nhân. Ông ta có thể là một thánh nhân, hoặc ông ta cũng có thể chỉ là một người bình thường. Tất cả mọi thứ phải dựa trên chân lý tuyệt đối, chứ không phải trên bất cứ điều gì khác ngoài chân lý tuyệt đối.
22. Tri kiến cho rằng, một ngôi chùa nhỏ chẳng có vị tu sĩ nào xuất sắc.

Khi một người theo tri kiến này thấy một ngôi chùa rất nhỏ và chỉ có hai nhà sư, họ sẽ thắc mắc làm sao một ngôi chùa bé như vậy có thể có nổi tu sĩ xuất sắc nào ở đó? Đối với họ, điều đó là không thể. Đây cũng là một tri kiến sai lầm. Một ngôi chùa nhỏ cũng có thể có các tu sĩ xuất sắc. Không thể kết luận một tu sĩ có xuất sắc hay không thông qua tầm cỡ ngôi chùa nơi tu sĩ đó cư trú trong hay thông qua dòng truyền thừa của người đó. Nếu sự tu tập, thành tựu và sự thực chứng của tu sĩ đó lớn lao, thì họ sẽ là tu sĩ xuất sắc. Những người bình thường không biết về dòng truyền thừa của một số tu sĩ xuất sắc vì những tu sĩ thực sự xuất sắc này không khoe khoang tự ca ngợi mình do bám chấm vào bản ngã. Họ không tiết lộ về bản thân mình. Ví dụ đã có sự thắc mắc về nơi mà Kaichu Rinpoche đã học được năng lực tập trung nội nhiệt (tummo) của mình. Người bình thường không có cách nào biết được dòng truyền thừa mà từ đó ông đã nhận được Pháp này. Tới giờ họ vẫn không biết.

23. Tri kiến cho rằng, việc giảm bớt tinh tấn trong thực hành sau khi đã hiểu tâm và thấy bản tính tự nhiên của con là chấp nhận được.

Có những người hiểu tâm và thấy bản tính tự nhiên của họ. Sau khi họ đạt được năng lực chứng ngộ và hiểu bản chất của mọi hiện tượng và chân như, họ giảm bớt sự tinh tấn thực hành. Họ không còn cảm hứng thực hành giáo pháp và không thực hành tinh tấn sáu hạnh ba-la-mật. Họ chỉ muốn lặp lại một hoặc hai câu châm ngôn. Trong quá trình giảng dạy người khác, họ nói, “Hãy nhớ những gì ta sắp nói. Con phải quán tưởng. Quán tưởng năng lượng này và giữ vững. Tâm thức của con phải đứng yên. Hãy để suy nghĩ đã sinh của con ra đi và không để phát sinh suy nghĩ tiếp theo…” Những từ như vậy hoàn toàn là tà thuyết của ngoại đạo, hoàn toàn vô nghĩa và và hoàn toàn sai lầm. Một dạo sư cần dạy cho người khác cách tu tập và hành động trong bồ đề tâm. Đó là những điều mà người đã hiểu tâm và nhìn thấy bản tính tự nhiên của họ nên làm.

24. Tri kiến cho rằng, việc trì hoãn học hỏi giáo lý đạo Phật cho tới khi con hết vướng bận những việc thế gian là chấp nhận được.

Một số người nghĩ rằng, “Hiện tại tôi rất bận rộn. Tôi sẽ học hỏi Phật pháp sau khi hoàn tất công việc đang làm” hoặc “Tôi sẽ học hỏi Phật pháp sau khi doanh nghiệp của tôi phát triển tốt” hoặc “Tôi sẽ học hỏi Phật pháp sau khi đã già hơn và nghỉ hưu”. Ngay khi con nghĩ như thế, con đã gieo những hạt giống của sự suy đồi. Những hạt giống đó được trồng ngay tại thời điểm con có tri kiến sai lầm này. Việc học Phật pháp phải được bắt đầu ngay bây giờ. Tư duy đúng đắn phải được thiết lập ngay lập tức. Con nên bắt đầu ngay bây giờ – tại thời điểm này trong khi ta đang giảng. Vì người ta không thể xác định được ngày tháng mình sẽ ra đi và con không biết ngày con sẽ chết.
25. Tri kiến cho rằng, một người có số lượng lớn đệ tử là một bậc thánh nhân và đạo hạnh.

Khi những người có tri kiến rằng ai đó có một số lượng lớn các môn đồ, chẳng hạn như trên một trăm ngàn, hơn một triệu, ba hoặc bốn triệu, họ nghĩ rằng, “Điều này thật đáng kinh ngạc. Ông ấy là một bậc thánh vĩ đại!” tri kiến như vậy là sai lầm. Dù một người có thể có nhiều đệ tử đến thế nào, ông ấy có thể vẫn không phải là một bậc thánh. Trong số những người có nhiều đệ tử, có những người thực sự là những bậc thánh vĩ đại. Một trong số họ là đức Pháp vương Dodrupchen IV Thupten Trinle Palzang, hóa thân của đức Liên Hoa Sanh. Vì thế, con hãy nhớ phải rất cẩn thận. Sự nổi tiếng của một người không phản ánh bản chất thực chứng linh thánh của người đó.

Ta biết ba vị thánh nhân đạo hạnh vĩ đại; một trong số đó có một ít đệ tử là các rinpoche, và hai vị còn lại chưa bao giờ có bất kỳ một đệ tử nào. Tuy nhiên, trong số những vị pháp vương giả mạo, rinpoche giả mạo, và các vị giảng sư giả mạo – những người có hơn một triệu người môn đệ và nói những lý thuyết rỗng tuếch, đã có ai trong số những người này thể hiện chứng ngộ cao và đạt được thành tựu tuyệt vời như ba vị ta đã nói ở trên hay chưa? Họ thậm chí không thể tiến gần tới cấp độ của ba vị kia. Vì vậy, đó là tri kiến sai lầm khi coi một người là bậc thánh dựa trên số lượng đệ tử mà ông ta có.

26. Tri kiến cho rằng, việc coi một người không có sự thực chứng linh thánh và Bồ-đề tâm như là một bậc thánh nhân thực thụ là chấp nhận được.

Một số người vừa không có cả sự thực chứng inh thánh lẫn Bồ-đề tâm. Tuy nhiên, những bài giảng pháp của họ lại thu hút người nghe và rất dễ chịu với người nghe. Hơn nữa, vì thế gian không hiểu các kinh điển và luận giải, họ đánh giá sai về những người này. Tất cả điều đó dẫn tới kết quả là những người như vậy đang được coi như là những bậc thánh. Tri kiến này là một sai lầm. Một bậc thánh thực sự phải có sự thực chứng linh thánh, và người đó còn phải có Bồ-đề tâm. Không thể thiếu một trong hai điều này.

27. Tri kiến cho rằng, có thể coi terma (bảo tạng) như một bảo bối trong khi terma không phải là terma đúng nghĩa.

Nhiều bậc đạo hạnh và các rinpoche ở Tây Tạng thường đưa một terma ra cho những người khác xem và nói với họ rằng đó là terma. Họ nói rằng một terma như vậy đã được một vị lama nào đó hay một vị pháp vương vĩ đại nào đó trong tháng nào đó, của năm nào đó, tại địa điểm nào đó đã khám phá ra. Đó không phải là một terma đúng nghĩa. Một terma đúng nghĩa là gì? Là terma đó phải được xác thực. Việc xác thực này sẽ chứng minh một terma được nói tới có chính thống hay không. Một pháp cụ thể phải được thực hiện theo đúng giáo pháp. Nếu trong lúc thực hiện pháp đó, các hiện tượng linh thánh được nhìn thấy chứ không phải là hiện tượng ảo huyễn hay chỉ là sự thay đổi ánh sáng, hình dáng và màu sắc, thì nó có thể được gọi là terma đúng nghĩa. Nếu con coi bất cứ thứ gì không phải là một terma đúng nghĩa như một terma chính thống, thì con đang có tri kiến sai lầm này.
28. Tri kiến cho rằng, việc cố ý chối bỏ những gì mà thực tế con đã nói hoặc làm là chấp nhận được.

Một bậc thánh chắc chắn sẽ không phủ nhận những gì mình đã nói hoặc đã làm. Bất cứ ai không thực hiện những gì họ nói rằng họ sẽ thực hiện hoặc những người phủ nhận những gì trong thực tế họ đã làm, thì người đó không phải là thánh nhân. Họ không phải là một vị thầy có đủ tư cách. Con đi theo tri kiến sai lầm này nếu bản thân con có nó và hành động theo nó, hoặc nếu con chấp thuận những người khác có nó và hành động theo nó.

29. Tri kiến cho rằng, việc cố ý che giấu những vấn đề với bậc thầy đạo hạnh và linh thánh của con là chấp nhận được.

Một số người cố tình che giấu những vấn đề với đạo sư linh thánh của họ. Họ lo sợ sẽ bị người thầy linh thánh chỉ trích, phê bình nếu đạo sư biết về những vấn đề đó. Hoặc họ cảm thấy quá xấu hổ khi phải nói ra những điều đó với đạo sư linh thánh của mình. Vì vậy, họ cố tình che giấu các vấn đề với đạo sư. Đây là một tri kiến sai lầm.

30. Tri kiến cho rằng, con có thể trở nên thành tựu trong Pháp nếu con có một hay vài viên trong năm loại thuốc vĩ đại.

Những người có tri kiến này nghĩ rằng họ có thể thành tựu một khi họ có một viên thuốc kim cương (kim cương hoàn), thuốc quý (đại bảo hoàn), thuốc quý giá nhất (chí bảo hoàn), thuốc cam lộ (cam lộ hoàn), và/hoặc thuốc trường thọ (trường thọ hoàn). Có những viên thuốc là một điều tốt nhưng không liên quan gì tới việc đạt được các thành tựu. Một người phải dựa vào sự tu tập thực sự để trở nên thành tựu.

31. Tri kiến cho rằng, con không có hạt giống để trở thành một vị Phật bởi vì con quá nặng nghiệp.

Một số người nghĩ rằng họ quá nặng nghiệp. Họ nghĩ “Nghiệp xấu của tôi quá nặng. Nghiệp tiêu cực của tôi quá sâu dày. Tôi đã làm nhiều điều xấu xa. Than ôi, tôi thật đáng thương. Tôi sẽ không bao giờ có được hạt giống để trở thành một vị Phật.” Đây là một tri kiến sai lầm. Cho dù nghiệp của con nặng nề đến thế nào, miễn là con thành khẩn hối cải, trở thành người tốt, tu dưỡng bản thân và học hỏi Phật pháp thật tốt, con cũng có thể đạt đến giác ngộ.

32. Tri kiến cho rằng, một chúng sinh ở cõi phi nhân không có Phật tính.

Những ai theo tri kiến này nghĩ rằng, chỉ có mỗi loài người có Phật tính và tất cả các loài còn lại thì không. Họ nghĩ rằng một số chúng sinh khác đương nhiên ở cấp thấp và một số khác đương nhiên được sinh ra chỉ để làm thức ăn cho con người. Nghĩ như vậy là sai lầm. Mọi sinh linh sống đều bình đẳng. Tất cả họ đều có cảm xúc. Tất cả họ đều có buồn và vui. Hơn nữa, tất cả họ đều nằm trong sáu cõi luân hồi và chuyển từ cõi giới này sang cõi giới khác thông qua sự tái sinh. Hãy suy ngẫm về điều này và con sẽ hiểu. Loài người có Phật tính. Liệu có thể nào một người tái sinh thành một con chim, thì chú chim đó lại không thể có Phật tính hay sao?

33. Tri kiến cho rằng, miễn là một người học hỏi giáo Pháp, người ấy có thể đạt những năng lực thực chứng.

Những ai theo tri kiến này nghĩ rằng, miễn là họ học hỏi giáo Phật, chắc chắn họ sẽ ó được năng lực thực chứng. Điều này là không thể. Một người phải dựa vào sự tu tập để có được khả năng thực chứng. Đương nhiên, sẽ là tốt nhất nếu dựa trên Pháp Giải thoát đại thủ ấn tối thượng. Đây là Phật pháp cao nhất. Vào thời điểm nhận được một quán đảnh “trạng thái hành trì” nội mật theo nghĩa linh thánh, một người có thể phát tâm tu tập đúng đắn, bắt đầu hành trì đúng đắn và thâm nhập Phật pháp đích thực. Do đó, người đó có thể kết hợp phát tâm, hành trì và nguyện lực của họ cùng với giáo pháp linh thánh. Đó là giáo pháp duy nhất mà nhờ đó, người đó có thể thực chứng năng lực linh thánh ngay lập tức. Tuy nhiên, để nhận được quán đảnh “trạng thái hành trì” này, người đó đầu tiên phải học tốt và hành các pháp tu sơ khởi và chính yếu của Pháp Giải thoát đại thủ ấn tối thượng, điều tuyệt đối không thể thiếu trên con đường tu tập.

34. Tri kiến cho rằng, việc không sửa chữa lỗi lầm ngay là chấp nhận được.

Khi người theo tri kiến này nhận ra rằng họ vừa tạo ra một lỗi lầm, họ không sửa chữa ngay lập tức. Họ thực hiện điều đó sau một thời gian, có thể sau nửa tiếng hoặc chỉ sau mười phút. Mọi hành vi như vậy đều không tốt. Lỗi lầm cần được sửa chữa ngay lập tức. Sửa chữa lỗi lầm ngay lập tức chính là làm theo tri kiến đúng đắn.

35. Tri kiến cho rằng, một người làm những việc tốt và bố thí cho những người khác chắc chắn phải là một vị cao tăng hoặc một bậc vĩ nhân đạo hạnh.

Khi những người theo tri kiến này nhìn thấy một ai đó vốn được coi như một bậc cao tăng hay vĩ nhân đạo hạnh làm việc thiện và bố thí hào phóng cho người khác, họ nghĩ rằng bởi vì người đó thật tốt bụng và thích giúp đỡ người khác, như vậy, chắc chắn đó là một bậc cao tăng hoặc vĩ nhân đạo hạnh và chắc chắn là một bậc thánh nhân. Tuy nhiên, họ lại không quan tâm đến việc liệu người đó có hiểu kinh điển không, liệu người đó có theo những tri kiến xấu ác hay sai lầm không, hoặc liệu người đó có sở hữu pháp linh thánh không. Nghĩ như vậy là sai lầm.

36. Tri kiến cho rằng, việc thay đổi một giáo pháp, ấn quyết hoặc mật chú là chấp nhận được.

Nhiều người thường tạo ra những ấn quyết hoặc thần chú sai nhằm lừa dối chúng sinh. Con phải hiểu rằng, mỗi ấn quyết và thần chú tương ứng với một vị bổn tôn hộ pháp cụ thể. Hơn nữa, một ấn quyết phải được áp dụng kết hợp với thần chú tương ứng. Chỉ khi đó, một ấn quyết hoặc thần chú mới thực sự hiệu quả. Sẽ không thể chấp nhận được nếu con có suy nghĩ thay đổi một giáo lý, một ấn quyết hoặc một thần chú đã được viết trong giáo lý. Cũng sẽ không thể chấp nhận được nếu con nhìn thấy người khác làm điều này mà không phản đối. Tất cả điều này, kể cả việc thay đổi bài pháp thoại đã được ghi âm của ta về Phật pháp, đều phản ánh một tri kiến sai lầm nghiêm trọng.

37. Tri kiến cho rằng, Ngũ Minh có thể đạt được bởi những bậc không phải là Bồ Tát.

Kinh điển nói rằng, các bậc Bồ Tát đạt được Ngũ Minh. Tuy nhiên, một số người lại nói rằng, Bồ Tát không cần thiết phải thông tuệ Ngũ Minh. Một câu hỏi phải được đặt ra cho những người này về sự thật. Liệu những bậc Bồ Tát lại thấp kém hơn người bình thường? Tất cả các đại Bồ Tát đều phải thông thạo Ngũ Minh. Nếu trí tuệ của một vị được cho là Bồ Tát thậm chí không thể vượt qua một người bình thường, người đó chắc chắn là một vị Bồ Tát giả mạo, hoặc ít nhất, người đó cũng không phải là một vị đại Bồ Tát. Hãy suy ngẫm về điều này và con sẽ hiểu. Làm sao một người có một năng lực trí tuệ thấp hơn người bình thường lại có thể chứng minh được rằng sự kết hợp về thân khẩu ý của người đó lại là của một vị Bồ Tát sở hữu năng lực trí tuệ linh thánh?

38. Tri kiến cho rằng, một bậc đạo sư yêu cầu và lấy tài sản của học trò là chấp nhận được.

Một bậc thầy hoặc một bậc thầy gốc ủng hộ tri kiến này nghĩ rằng người đó có thể yêu cầu học trò mình đưa tiền khi ông ta cần. Người đó nghĩ rằng, ông ta có thể yêu cầu học trò mình đưa cho ông ta những tài sản của riêng họ khi ông ta cần. Điều này là sai lầm. Khi một bậc thầy hành động như vậy, người đó đang theo tri kiến xấu ác. Người học trò nào cho rằng điều này có thể chấp nhận được, người đó cũng đang theo tri kiến sai lầm.

39. Tri kiến cho rằng, việc sử dụng sự kế vị vị trí lãnh đạo dòng truyền thừa như là phương tiện để có được sự cúng dường từ các đệ tử là chấp nhận được.

Một số người tự xưng là những người thừa kế vị vị trí lãnh đạo của một dòng phái nào đó. Ta lấy ví dụ, một người có thể tự xưng là kế vị vị trí lãnh đạo đời thứ nhất, thứ hai hay thứ ba của dòng Kagyu. Một người có thể tự xưng là người kế vị vị trí lãnh đạo một đời nào đó của dòng truyền thừa Nyingma hoặc Sakya. Một người có thể tự xưng là kế vị vị trí lãnh đạo dòng truyền thừa Geluk, truyền thống Phật giáo Hiển thừa hay truyền thống Phật giáo nguyên thuỷ. Họ sử dụng sự kế vị vị trí lãnh đạo dòng truyền thừa của họ như là vốn liếng để quảng bá bản thân, là công cụ để tư lợi và lấy đi của cải và tài sản của người khác, và là phương tiện để yêu cầu những đệ tử cúng dường. Tất cả những việc làm trên đều sai trái. Chúng không phải là hành vi của chư Phật hay Bồ Tát. Những kẻ nêu trên cũng không phải là những bậc thầy đạo hạnh vĩ đại. Họ chỉ là những kẻ giả mạo đội lốt những bậc thầy linh thánh mà thôi.

40. Tri kiến cho rằng, việc ca tụng, tán dương bản thân như là một bậc đạo hạnh, thánh nhân hay tấm gương cho người khác là chấp nhận được.

Người theo tri kiến này ca ngợi, tán dương bản thân như là bậc thánh nhân đạo hạnh. Đi theo tri kiến này bao gồm việc con sẽ hành động giống như vậy hoặc ủng hộ người khác hành động giống vậy. Bất kỳ ai tự tán dương bản thân như một bậc thánh nhân đạo hạnh hay là hình mẫu cho người khác noi theo chắc chắn là một người bình thường đang hành động sai trái.

41. Tri kiến cho rằng, con cái không cần phải hướng dẫn tử tế để cha mẹ có tri kiến đúng đắn.

Đôi lúc những người con gặp phải tình huống cha mẹ họ không muốn học hỏi đạo Phật. Vì họ không biết phải làm gì, họ đơn giản là từ bỏ và để cha mẹ làm những gì cha mẹ muốn làm. Điều này là sai lầm. Con cái nên làm tất cả những gì có thể để chứng tỏ lòng hiếu thảo với cha mẹ, để cha mẹ được hạnh phúc, khai trí cho họ và hướng dẫn họ một cách tử tế. Con cái nên giúp cha mẹ dần dần chấp nhận những tri kiến đúng đắn và bước vào con đường Phật pháp. Con cái phải hướng dẫn cha mẹ mình một cách tử tế và kiên trì chấp nhận những tri kiến đúng đắn. Họ nên hướng cha mẹ tới hạnh phúc. Họ không thể chỉ buông xuôi và từ bỏ.

42. Tri kiến cho rằng, việc gọi một mạn-đà-la không được tạo hình từ những hạt cát màu bằng năng lực điều khiển từ xa bởi một bậc đạo sư xuyên qua một tảng đá chắn ngang là một mạn-đà-la linh thánh.

Nhiều người thực hành Mật tông Tây Tạng cho rằng, mạn-đà-la mà họ dùng để thực hành Pháp là mạn-đà-la linh thánh, giống như mạn đà la linh thánh của Kalachakra, mạn-đà-la linh thánh của Vajrakila, của Guhyasamaja, của Yamantaka, của Chakrasamvara, của Ekajati hay của Samsara-Yama. Điều này như thể là bất kỳ mạn-đà-la nào cũng đều là mạn-đà-la linh thánh. Cát kim cương họ dùng để làm mạn-đà-la được bán để lấy tiền. Tình trạng này cực kỳ hỗn độn và bừa bãi. Hãy nhớ rằng, chỉ có duy nhất một loại mạn-đà-la linh thánh. Đây là nhận thức về Pháp rất quan trọng, chỉ xếp sau nhận thức về cam lồ được ban bởi chư Phật. Chỉ khi mạn-đà-la được thành hình bởi năng lực điều khiển từ xa của một bậc đạo sư xuyên qua một tảng đá chắn ngang mới có thể được coi là một mạn-đà-la linh thánh đích thực. Bất kỳ mạn-đà-la nào không thành hình bằng sức mạnh điều khiển từ xa của một vị đạo sư xuyên qua một tảng đá phẳng chắn ngang đều không phải là mạn-đà-la linh thánh.

43. Tri kiến cho rằng, năng lực hộ trì của những vị sơn thần thổ địa lớn hơn sức mạnh hộ trì của các bậc đại Bồ Tát.

Những người đi theo tri kiến này nghĩ rằng, thậm chí dù cho một vị là bậc đại Bồ Tát, vị đó cũng không thể có được những năng lực lớn lao và không thể bảo vệ và gia hộ cho chúng sinh. Họ nghĩ rằng, chỉ có những vị sơn thần thổ địa mới có thể bảo vệ được chúng sinh. Họ nghĩ rằng, chúng sinh được những vị long thần thổ địa bảo vệ hiệu quả hơn. Bất kỳ suy nghĩ nào như vậy đều là một tri kiến sai lầm. Các bậc đại Bồ Tát thực sự vô cùng vĩ đại! Năng lực của những vị thổ địa không thể sánh được với năng lực của các bậc đại Bồ Tát. Những vị sơn thần thổ địa không thể bảo vệ các bậc Bồ Tát; đúng hơn là các bậc Bồ Tát bảo vệ những vị sơn thần thổ địa.

44. Tri kiến cho rằng, viên thuốc được làm từ các thảo dược thông thường là cam lồ đích thực.

Có những người pha trộn các thảo dược thông thường làm thành những viên thuốc. Sau đó, họ gia trì cho những viên thuốc đó bằng cách tụng kinh, trì chú và thực hành pháp. Họ gọi những viên thuốc đó là cam lồ đích thực. Đây cũng là một tri kiến sai lầm.

45. Tri kiến cho rằng ánh sáng mà con nhìn thấy khi nhắm mắt là sự thị hiện của năng lực Phật pháp

Những người theo tri kiến này nghĩ rằng, ánh sáng mà họ thấy khi nhắm mắt là sự thị hiện Phật pháp hoặc năng lực của Phật. Con phải nhớ điều này. Ánh sáng mà con nhìn thấy khi nhắm mắt không phải là sự thị hiện sức mạnh của Phật pháp. Hiện tượng ảo ảnh không phải là sự thị hiện năng lực của Phật pháp. Năng lực của Phật pháp thị hiện ở những điều thực tế. Ta lấy ví dụ, những gì mà nhiều người trong số các con nhìn thấy tận mắt và trải nghiệm trong ngày hôm nay là thực tế, như năng lực thực chứng của Gar Tongstan, pháp tập trung nội nhiệt của Kaichu, và trạng thái thực chứng của Miaokong và Akou Lamo. Đương nhiên là có nhiều điều có thực khác mà các con chưa nhìn thấy. Tóm lại, ánh sáng không có thực được nhìn thấy khi nhắm mắt chỉ là hiện tượng ảo ảnh. Thậm chí nếu con nhìn thấy với mắt mở, nó vẫn cần được xác định rõ ràng liệu ánh sáng đó là từ sức mạnh đích thực của chư Phật hay từ điện phát ra.

46. Tri kiến về việc tin vào những câu chuyện kể về những chiến công vinh quang và những lý thuyết rỗng tuếch về Pháp của một người nào đó mà không kiểm tra những năng lực kim cương của người đó.

Nhiều người thích nói về những chiến công vinh quang của họ. Họ thường nói về những điều như “Hãy nhìn vào luồng Phật quang xuất hiện khi ta thực hành Pháp ở đây”, hay “Hãy nhìn vào sương mù xuất hiện khắp nơi khi ta thực hành Pháp ở đây”, hoặc “hãy nhìn những vị sơn thần bắt đầu nằm phủ phục khi ta thực hành pháp ở đây”, hoặc “Con có thể thấy tất cả những chiếc lá rơi từ trên cây này khi ta thực hành Pháp ở đây”, hay “Con có thể thấy cam lồ rơi xuống từ cây này khi ta thực hành Pháp ở đây”. Trên thực tế, chỉ có hạt mưa rơi xuống. Họ có thể nói về cầu vồng trên bầu trời hoặc những điều tương tự khác. Những hiện tượng như vậy chỉ là tưởng tượng. Những cuộc nói chuyện trên là không chân thực, sai lầm và là một phần của tri kiến sai lầm này. Những kẻ trên nói về những chiến công có vẻ vinh quang của họ và nói những giáo lý rỗng tuếch về giáo pháp. Họ nói về những giáo lý rỗng tuếch này một cách thuyết phục, logic và ấn tượng. Thính chúng, những ai không phải là chuyên gia, sẽ không hiểu một chút nào. Họ không có khả năng phân biệt đúng sai, thậm chí ngay cả khi có rất nhiều lỗi sai trong toàn bộ bài pháp thoại. Mục tiêu của những vị đạo sư hành động như trên là thu nhận tiền cúng dường.

Tuy nhiên, những phật tử cúng dường không biết rằng, họ nên kiểm tra năng lực kim cương của những vị đạo sư này. Nếu một vị đạo sư như vậy muốn nhận phẩm vật cúng dường của con, đầu tiên, con phải kiểm tra năng lực kim cương của người đó! Nếu người đó không đáp ứng những phẩm chất của một bậc đạo sư, làm sao họ có đủ điều kiện nhận phẩm vật cúng dường? Mức kiểm tra cao nhất về năng lực kim cương là tạo thành một mạn-đà-la từ xa xuyên qua một tảng đá chắn ngang. Tiếp đến là ba loại năng lực kim cương. Ta cảm thấy xấu hổ khi ta không có được những năng lực này. Do đó, ta không nhận phẩm vật cúng dường. Trong giáo pháp Giải thoát Đại thủ ấn Tối thượng, con sẽ biết toàn bộ sáu bước kiểm tra để xác nhận phẩm chất của một bậc thầy. Những bước kiểm tra này là bắt buộc và không thể thay đổi. Bây giờ ta sẽ không giảng gì thêm về chủ đề này.

47. Tri kiến cho rằng, con không thể thành tựu trong Pháp trừ phi con nhận được quán đảnh, thậm chí cho dù con học hỏi giáo Pháp và tu dưỡng bản thân.

Người nào đi theo tri kiến này nghĩ rằng, bởi vì người đó chưa bao giờ nhận được quán đảnh, anh ta chắc chắn không thể thành tựu trong Pháp thậm chí dù cho anh ta học hỏi giáo Pháp và tu dưỡng bản thân. Đây là một sự hiểu lầm. Thậm chí cho dù con không nhận được quán đảnh, con vẫn có thể thành tựu và đạt giải thoát miễn là con quy y, học Phật pháp đích thực và tu dưỡng bản thân phù hợp với Pháp. Chỉ có thể nói rằng, sẽ là tốt nhất nếu con có được sự chỉ dẫn của một vị đạo sư tốt. Điều này giúp con giảm bớt khả năng rơi vào các tri kiến xấu ác và sai lầm. Tuy nhiên, một sự quán đảnh không tuyệt đối bắt buộc. Tu dưỡng bản thân và học Pháp mới thực sự quan trọng.

Học Pháp và tu dưỡng bản thân chính là chìa khóa. Nhận được quán đảnh không nhất thiết là yếu tố quan trọng nhất. Tất nhiên, một số pháp chỉ có thể được trao truyền thông qua sự quán đảnh, đặc biệt là pháp “trạng thái hành trì”. Nếu con không nhận được quán đảnh, điều này không có nghĩa là con không thể thành tựu. Miễn là con tu dưỡng bản thân phù hợp với Pháp, con có thể thành tựu trong Pháp. Giải thoát Đại thủ ấn Tối thượng là giáo pháp và là phương pháp tu dưỡng tốt nhất.

48. Việc nhìn nhận một ai đó như là một bậc đạo sư có thể quán đảnh Kim-cương Bồ-đề dù người đó không đưa ra những tiên đoán cần thiết trong buổi lễ quán đảnh đó.

Quán đảnh Bồ-đề Kim Cương là một trong những quán đảnh cấp cao. Nhiều người nghĩ rằng một quán đảnh Kim-cương Bồ-đề được coi là hoàn thành dựa vào sự tiến hành một buổi lễ quán đảnh ngắn mà không có sự tiên đoán linh thánh. Trên thực tế, mặt quan trọng nhất của một buổi lễ quán đảnh Kim-cương Bồ-đề chính là sự tiên đoán linh thánh. Như vậy, chỉ có những vị đại sư mới có thể tiến hành những buổi quán đảnh như vậy. Những vị đạo sư thông thường như những pháp vương không có khả năng làm những việc đó. Vào thời điểm quán đảnh, 250 viên thuốc bồ-đề được đánh dấu bởi những đốm trắng và 250 viên thuốc kim-cương được đánh dấu bởi những đốm xanh được trộn với nhau. Tất cả 500 viên thuốc này được đặt trong một chiếc thùng. Mỗi viên đều có kích thước giống nhau. 500 người sẽ nhận được quán đảnh. Mỗi người lấy ra một viên từ chiếc thùng. Không ai trong số họ biết mình lấy viên thuốc bồ-đề hay viên thuốc kim-cương. Bởi vì chiếc thùng được bọc ngoài, và chấm màu trắng hay xanh nước biển trên viên thuốc rất nhỏ, nhỏ gần bằng một đầu mút của sợi tóc nên không dễ nhìn thấy. Hơn nữa, người đệ tử không được phép nhìn vào viên thuốc người đó đã chọn.

Khi một người lấy ra một viên thuốc bằng ngón tay, họ đang ở trong một chiếc lều tối và phải đưa viên thuốc vào tuýp thuốc pháp của họ và dán tuýp thuốc lại ngay lập tức. Sau đó, họ rời khỏi lều tối cùng với chiếc tuýp của mình. Bậc đại đạo sư, người tiến hành buổi lễ quán đảnh Kim-cương Bồ-đề, phải gieo trồng hạt giống kim-cương bồ-đề cho mỗi người nhận quán đảnh. Một khi hạt giống kim-cương bồ-đề được gieo, mối liên hệ nghiệp này sẽ không bao giờ xấu đi. Thậm chí nếu người nhận quán đảnh tạo đủ loại nghiệp xấu khiến người đó xuống địa ngục sau đó, sau khi trả xong nghiệp trong cõi địa ngục, người đó vẫn có thể quay lại và tái kết nối với với Pháp thông qua mối liên hệ nghiệp này. Làm thế nào một người biết liệu hạt giống kim-cương-bồ-đề này được gieo trồng thành công hay không? Một người không thể đơn giản chỉ tin vào lời nói của bậc đạo sư rằng, hạt giống đó đã được gieo trồng một cách thành công. Một đại sư đích thực thì rất giản dị và sẽ không nói như thế này “À, tốt. Hôm nay, ta đã gieo trồng thành công những hạt giống kim-cương-bồ-đề bất hoại trong tất cả các con. Lễ quán đảnh giờ đây có thể coi là hoàn tất. Hãy nhanh chóng cúng dường cho ta”.

Sẽ không có chuyện như vậy. Một vị đại sư đích thực sẽ nói thế này. “Hỡi các con, giờ đây, ta sẽ chứng minh mối liên hệ nghiệp của các con. Các con sẽ có thể thấy liệu mối liên hệ nghiệp của các con được gieo trồng hay chưa. Ta sẽ chia 500 người các con thành hai nhóm. Những người thuộc nhóm bên này là những người đã lựa chọn viên thuốc bồ-đề, những người thuộc nhóm bên kia là những người đã lựa chọn viên thuốc kim-cương. Tuy nhiên, không được mở tuýp thuốc pháp của các con ra nhìn bây giờ”. Những tuýp thuốc pháp này chứa một viên thuốc kim-cương, hoặc một viên thuốc bồ-đề đã được dán kín toàn bộ. Mỗi tuýp được dán bởi người đệ tử sau khi người đó chọn một viên thuốc và nhét vào trong tuýp. Vị đại đạo sư không phân bổ những viên thuốc đến những người đệ tử của mình.

Khi mỗi người đệ tử đặt viên thuốc vào tuýp, vị đại đạo sư phải đứng cách xa những học trò mình tối thiểu 30 mét (98 feet) hoặc thậm chí xa hơn 100 mét (328 feet). Sau khi mỗi người đệ tử đặt một viên thuốc vào tuýp thuốc của mình, vị đại đạo sư sẽ thực hành pháp. Khi đó, ngài sẽ xướng tên của từng người đệ tử và nói người đó ngồi ở bên nào, bên phải hay bên trái. Ngài sẽ phân chia toàn bộ đệ tử của mình thành hai bên, mỗi bên đều có 250 vị đệ tử. Sau đó Ngài sẽ công bố bên nào có toàn bộ viên thuốc kim-cương, và bên nào có toàn bộ viên thuốc bồ-đề. Sau đó, Ngài sẽ ra lệnh cho những người đệ tử của mình mở ống tuýp và nhìn vào viên thuốc trong đó.

Tất cả các đệ tử của Ngài khi đó làm theo ngay lập tức. Thoạt nhìn, mọi viên thuốc đều màu đỏ, cùng kích thước và hình dáng. Tuy nhiên, sau khi kiểm tra thận trọng những viên thuốc của mình, những người đệ tử phát hiện ra rằng, toàn bộ những người đệ tử ở một bên đều nắm giữ viên thuốc bồ-đề với chấm trắng ở trên. Những người ở phía còn lại nắm giữ viên thuốc kim-cương với chấm xanh ở bên trên, giống như vị đại đạo sư đã tiên đoán. Điều này được gọi là một tiên tri linh thánh. Do đó, hành giả sẽ theo tri kiến sai lầm khi họ nhìn nhận một vị đạo sư là một bậc thầy vĩ đại của lễ quán đảnh Kim-cương Bồ-đề nếu vị đạo sư đó không đưa ra được tiên đoán linh thánh khi vị đó tiến hành lễ quán đảnh Kim-cương Bồ-đề. Vị đạo sư đó là một bậc thầy Quán đảnh Kim-cương-Bồ-đề giả mạo và không sở hữu những phẩm chất của một bậc đạo sư vĩ đại thực thụ.

49. Tri kiến cho rằng, thọ quy y và thọ giới là trạng thái quy y.

Những ai theo tri kiến này nghĩ rằng, trạng thái quy y xảy ra khi một người thọ quy y và thọ giới trong một buổi lễ. Điều này là sai lầm. Có ba trạng thái quy y: trạng thái quy y giai đoạn hình thành, trạng thái quy y giai đoạn hoàn thiện, và trạng thái quy y giai đoạn áp dụng không dính mắc. Tại trạng thái quy y giai đoạn hình thành, một người nhìn thấy ngay lập tức sự hiển hiện những linh ảnh chân thực tương ứng với trạng thái quy y này. Do đó, tri kiến cho rằng, thọ giới chính là trạng thái quy y là một tri kiến sai lầm. Tri kiến như vậy của bất cứ vị đạo sư hay đệ tử nào đều là tri kiến sai lầm.

50. Tri kiến cho rằng, một hiện tượng không chân thực, huyễn ảo là sự biểu hiện linh thánh.

Một số người thường dựng chuyện. Họ thường nói những câu dạng như “Hôm qua, tôi thấy một luồng ánh sáng đỏ trong phòng của tôi”, hoặc “hôm qua, que nhang mà tôi cắm đượm lửa rất lâu mà không cháy hết, trong khi các que khác đã cháy hết hoàn toàn”, hay “hôm qua, màu nước mà tôi cúng dường chuyển thành màu của hoa sen”, hay “hôm qua khi tôi rời khỏi nhà, một con quạ đậu trên đỉnh đầu tôi”, hoặc “một đám mây nhiều màu chuyển thành hình dáng của đức Phật hoặc Bồ tát”, hoặc “có cầu vồng ở trên ngôi chùa, chắc chắn là có pháp thánh linh ở đó”, hoặc “một bầy quạ đậu ở mái nhà của tôi khi tôi đang thực hành Pháp, điều này cho thấy tôi đã thực hành Pháp Bầu trời vĩ đại tối đen thành công”, hoặc “Trong mơ, chư Phật đến và ban phước cho tôi bằng cách chạm vào đầu tôi”, và vân vân… Tất cả những điều trên là vô nghĩa, chỉ là tưởng tượng.

Hãy nhớ rằng, tất cả đó đều là tưởng tượng. Một số người gọi quầng ánh sáng xung quanh mặt trăng là Phật quang. Trên thực tế, đó chỉ là hiện tượng huyễn ảo. Có thể, nó được tạo ra bởi mưa hay sương mù. Tất nhiên, đôi lúc các hiện tượng linh thánh xuất hiện theo duyên nghiệp nhất định, nhưng chúng ta không nên coi chúng là những điều đáng ngạc nhiên. Vậy hiện tượng nào là hiện tượng linh thánh? Những điều dưới đây là một số ví dụ. Trong pháp hội tại Hua Zang Si để vinh danh cuốn sách nhỏ về ta, ánh Phật quang đích thực đã xuất hiện trên bầu trời. Thêm vào đó, tiếng sấm vang rền trong bầu trời trong suốt, không một gợn mây, và cam lồ liên tiếp rơi xuống từ cây mộc lan. Những hiện tượng đó không phải là huyễn ảo. Chúng là chân thực. Tại Pháp hội tắm tượng Phật, thiên long đã cười thật hoan hỉ. Sấm nổ trong bầu trời trong xanh khi mặt trời chiếu sáng rực rỡ từ phía trên. Một bể chứa một vài tấn nước đã được nâng bởi hai người. Những điều này không phải là tưởng tượng. Chúng đều là sự kiện thực tế.

Hôm nay, chúng ta đã chứng kiến Pháp vương Gar Tongstan, một trong ba bậc thánh nhân đạo hạnh, đã nâng một pháp vật với ý thức ngoài thân thể của mình. Đó là sự kiện chân thực. Một viên thuốc kim cương nhảy múa trong lòng bàn tay của Kaichu Rinpoche và Akou Lamo Rinpoche và biến mất không dấu vết. Họ thể hiện năng lực của họ bằng pháp tập trung nội nhiệt và/hoặc thiền Thế thân Kim Cương. Những điều này không phải là tưởng tượng. Do đó, không nên tin vào những chuyện kể vô nghĩa và dối trá về hoa sen, hình ảnh chư Phật và chư Bồ tát, hoặc cây đinh ba Phật giáo xuất hiện trong lễ hỏa táng. Tất cả những điều này là ảo tưởng. Tuy nhiên, xá lợi đích thực hay vật rắn được tìm thấy trong tro xương sau nghi lễ hỏa táng thì không phải là tưởng tượng.

51. Tri kiến cho rằng, Phật giáo Mật thừa là Pháp cao cấp nhất.

Những người có tri kiến này cho rằng giáo pháp của Phật giáo Mật thừa là cao hơn cả. Đúng là những lời dạy của Phật giáo Mật thừa ở một cấp độ sâu hơn những lời dạy của Phật giáo hiển thừa. Điều này là do các hành giả của Mật thừa tham gia vào các cuộc tranh luận về các kinh điển và cũng là do sự thực hành cụ thể của họ khi tu tập. Tuy nhiên, Phật giáo Mật thừa không nhất thiết phải là giáo pháp cao nhất khi nói đến thành tựu đạt được trong Pháp. Điều này chủ yếu phụ thuộc vào việc liệu một pháp cụ thể có tương ứng với người nhận được nó hay không.

52. Tri kiến cho rằng, Phật giáo Hiển thừa là Pháp thấp cấp nhất.

Những người có tri kiến này cho rằng giáo pháp của Phật giáo Hiển thừa là thấp nhất và là pháp yếu nhất và đó không phải là pháp tốt như pháp của Phật giáo Mật thừa. Bất kỳ suy nghĩ nào như vậy là đang rơi vào tri kiến sai lầm. Mỗi một trong số 84.000 pháp môn phù hợp với duyên nghiệp của người nhận được nó. Miễn đó là pháp được dạy bởi Ðức Phật chứ không phải là lời dạy của ma quỷ, thì đó là pháp tốt.

53. Tri kiến cho rằng, một người ốm không cần uống thuốc.

Những người có tri kiến này cho rằng, “Chúng ta, những người học Phật giáo không nên dùng thuốc khi chúng ta bị ốm. Bởi vì chúng ta dựa vào chư Phật và chư Bồ Tát và sự gia trì của Phật pháp để chữa bệnh”. Điều này là không đúng và đây là một tri kiến sai lầm.

54. Tri kiến cho rằng, một người có thể vãng sanh cõi Tịnh độ chỉ khi người đó tụng danh hiệu của đức Phật A Di Đà.

Những người có tri kiến này cho rằng, vì sự kết nối của đức Phật A Di Đà với cõi Tịnh Độ, nên một người sẽ vãng sanh cõi Tịnh độ chỉ khi họ thực hành giáo pháp của Tịnh độ tông bằng cách trì tụng danh hiệu của đức Phật A Di Đà. Trên thực tế, đức Phật A Di Đà là vị Phật cai quản Phật giáo Kim Cương thừa. Nhiều người không hiểu điều này. Hơn nữa, Phật A Di Đà là một vị Phật của tất cả các dòng phái Phật giáo. Phật A Di Đà không phải chỉ là vị Phật của một dòng phái riêng biệt nào. Ngài là một vị Phật! Vì vậy, sẽ không đúng đắn khi cho rằng một người sẽ vãng sanh cõi Tịnh độ chỉ khi họ tụng danh hiệu của Phật A Di Đà. Dù con thực hành pháp gì, nếu con muốn vãng sanh cõi Tịnh độ, con sẽ vãng sanh cõi Cực lạc Tịnh độ nếu sự thực hành pháp đó của con thành tựu.

55. Tri kiến cho rằng, chỉ hành giả Thiền tông mới có thể hiểu được tâm họ và nhận ra bản tính nguyên thủy của họ

Nhiều người nghĩ rằng chỉ các hành giả của Thiền tông mới có thể hiểu được tâm họ và nhận ra bản tính nguyên thủy của họ. Họ nghĩ rằng không có con đường nào khác để thành tựu điều đó. Điều này là không đúng. Các hành giả của bất kỳ tông phái nào cũng có thể hiểu được tâm họ và nhận ra bản tính nguyên thủy của họ. Khi con đạt đến mức độ thực chứng cần thiết thông qua sự thực hành, con sẽ hiểu tâm con và nhận ra bản tính nguyên thủy của con. Sự giải thoát thực sự chỉ đạt được bằng việc đạt đến mức độ đó của sự thực chứng.

56. Tri kiến cho rằng, việc coi rằng khi đưa được một cọng rơm cát tường vào đỉnh đầu (một thành tựu của pháp Kalachakra) nghĩa là đỉnh đầu đã được khai mở mà không có bằng chứng đích thực của sự thành tựu.

Đây là một nhận thức sai lầm mà các con thường mắc phải. Mọi người thường tự nhận rằng đỉnh đầu họ đã được mở sau khi một cọng rơm cát tường đã được đưa vào đỉnh đầu của họ.

Như ta đã nói nhiều lần, một cọng rơm cát tường còn cứng hơn một ống tre. Bởi vậy, tình huống đó có thể dẫn tới hoặc không dẫn tới việc khai mở đỉnh đầu. Đưa một cọng rơm cát tường vào đỉnh đầu một người chưa chắc đã dẫn tới việc đỉnh đầu họ được khai mở.

Khi một sợi lông công được đưa vào, đỉnh đầu sẽ được khai mở. Tuy nhiên, việc mở đỉnh đầu đó rất khác với việc mở đỉnh đầu diễn ra trong pháp thiền Thân kim cương thay thế. Việc mở đỉnh đầu ở phần trước được làm bởi phép phổ-oa. Trong mật thừa, có các phép phổ-oa Sáng tỏ, phổ-oa Quan Âm, phổ-oa Văn Thù và vân vân. Tuy nhiên phép phổ-oa Sáng tỏ được coi là pháp cao nhất trong Phật giáo mật thừa, pháp thiền Thân kim cương thay thế thực sự còn cao hơn rất nhiều. Hai pháp mở đỉnh đầu này là khác nhau.

Sau khi một người được mở đỉnh đầu bởi pháp phổ oa, thần thức người đó không thể quay lại vào sau khi nó đã ra khỏi thân thể. Tuy nhiên, khi đỉnh đầu được mở nhờ pháp thiền Thân kim cương thay thế, thần thức của họ có thể quay lại thân thể sau khi đã rời đi. Tuy nhiên, pháp thiền Thân kim cương thay thế, còn được gọi là pháp thiền Đỉnh đầu rỗng không, đòi hỏi phải có nền tảng là thực hành Kalachakra.

Chỉ khi một người thực hành Kalachakra đã đạt đến một mức độ nhất định họ mới có thể thực hành pháp thiền Thân kim cương thay thế, là pháp tuyệt vời, cao tột và bí mật nhất của Kalachakra. Sau khi một người thực hành thành công pháp thiền Thân kim cương thay thế, một lỗ hổng lớn được mở ra trên da đầu, xương sọ, màng não và não. Thần thức của họ sau đó có thể đi ra và đi vào thân thể. Nếu không thế, thực hành của họ sẽ không thành công. Một vị rinpoche đã nói “Con đã thực hành pháp Kalachakra. Tại sao con chưa nghe về pháp thiền Thân kim cương thay thế?”.

Câu trả lời rất đơn giản. Ta nói với vị ấy “Sự chứng ngộ mà con có được từ thực hành chưa đạt đến mức để thực hành pháp thiền Thân kim cương thay thế, một pháp tối mật. Vì vậy con không thể nhận được giáo pháp về pháp thiền Thân kim cương thay thế. Chỉ khi nào con đạt đến trạng thái thành tựu đáng kể của sự thực chứng thông qua thực hành Kalachakra con mới có thể học pháp này. Nếu chưa đạt đến trạng thái đấy, việc nhận quán đảnh “trạng thái thực hành” còn chưa đáng để bàn đến.
Đó là lý do tại sao con chưa nghe đến pháp tối mật này. Chính xác là vì vậy, da đầu, hộp sọ và màng não của con đều đang đóng. Nếu con không tin vào điều đó, hãy đi quét MRI đầu của con. Con sẽ thấy bằng chính mắt mình rằng đỉnh đầu con vẫn bị đóng”.

Sự thực chứng nào cao hơn, giữa đỉnh đầu đóng và đỉnh đâu mở? Ta nghĩ các con sẽ biết câu trả lời mà không cần ta nói cho biết. Tuy nhiên, ta phải nói rằng Kalachakra là một pháp ở mức độ cao nhất của Phật giáo mật thừa. Con không nhất thiết phải thực chứng trạng thái thiền mà thần thức có thể rời khỏi thân thể và nhận ra rằng mọi thứ đều trống rỗng.

57. Tri kiến cho rằng, việc không cúng dường đạo sư của con sau khi con đạt chứng ngộ nhờ việc thọ nhận Pháp của Ngài là chấp nhận được.

Một số người nhận được sự truyền pháp và quán đảnh từ vị thầy gốc của họ. Họ thậm chí đạt được chứng ngộ và tăng trưởng tích lũy công đức và trí tuệ thông qua thực hành pháp đó. Tuy nhiên, họ không suy nghĩ về sự cần thiết phải biết ơn vị thầy của họ. Họ hành động như thể họ không nhận được bất cứ điều gì. Nó dường như thể là đối với họ vị thầy, chư Phật, chư Bồ Tát đều nợ họ một cái gì đó và tất nhiên phải truyền pháp và quán đảnh cho họ.

Họ không hiểu rằng vị thầy gốc của họ chính là cội nguồn giáo pháp hay hạt giống của sự giải thoát trong tương lai của họ. Vị thầy gốc của họ là quan trọng nhất với họ vào lúc này. Họ phải hiểu được sự cần thiết phải biết ơn và phải đền ơn sự tử tế mà họ đã nhận được bằng cách cúng dường cho vị thầy của họ. Một người không nên coi lợi ích của chính mình là quan trọng. Người ta phải coi Phật pháp là quan trọng. Bởi vì một người trở nên thành tựu thông qua việc nhận được giáo pháp. Đây là một sự tử tế mà vị thầy gốc ban cho các đệ tử của mình. Đây là một điểm rất quan trọng.

Ta không muốn tất cả các con cúng dường cho ta. Ta đã công bố công khai rằng ta không chấp nhận sự cúng dường nào. Tuy nhiên, theo những giáo lý và quy tắc của Phật pháp, đây là cách ta phải giải thích chủ đề này. Sự giải thích của ta là ở phù hợp với Pháp. Ta phải cho các con biết rõ ràng rằng con thực sự nên cúng dường ta. Vì ta truyền Phật pháp cho các con, nên thật đúng đắn và chính xác khi ta chấp nhận sự cúng dường của các con.

Nhưng tại sao ta không chấp nhận sự cúng dường của các con? Đó là bởi vì ta biết điều kiện sống của các con. Nói ngắn gọn, ta làm điều này để giảm chi phí của các con. Ta làm điều này vì lòng từ bi và cảm thông đến các con. Vì vậy, ta đã phát nguyện không chấp nhận sự cúng dường nào. Ta phục vụ và làm lợi ích cho các con vô điều kiện. Việc tăng trưởng hạnh phúc của các con là sự cúng dường mà ta muốn.

58. Việc nhìn nhận một người có năng lực Ngũ Minh tầm thường là một bậc linh thánh và có đức hạnh.

Mặc dù một người có năng lực Ngũ Minh tầm thường, một số người vẫn nói rằng ông ta là một bậc linh thánh và đức hạnh tuyệt vời bởi vì ông ta rất giỏi ở một vài khía cạnh nhất định. Điều này là một sai lầm. Con phải hiểu rằng một bậc linh thánh và đức hạnh tuyệt vời là một vị đại Bồ Tát. Chỉ có rất ít người như vậy trên trái đất này. Hãy suy nghĩ về điều đó. Có thể nào một người với trí tuệ của một vị đại Bồ Tát lại có năng lực Ngũ minh tầm thường chăng? Có thể nào một người như vậy lại kém hơn người bình thường? Một vị đại Bồ Tát có một trí tuệ vĩ đại. Năng lực Ngũ minh của thế gian là một năng lực không đáng kể gì đối với một vị Bồ Tát. Vì vậy, coi một người có năng lực Ngũ Minh tầm thường là một vị đại Bồ Tát hoặc một bậc linh thánh và đức hạnh lớn lao là một tri kiến sai lầm.

59. Tri kiến cho rằng, một người với những tư tưởng và hành vi của một người không thiết sống nữa là một cao tăng xuất sắc.

Một số tu sĩ nổi tiếng có địa vị rất cao và có danh tiếng được biết đến một cách rộng rãi. Tuy nhiên, có lẽ họ đã có ý nghĩ tự tử hay vì quá buồn mà họ không muốn sống nữa. Đây là những suy nghĩ hoặc hành vi của một icchantika (người không thiết sống). Phật A Di Đà sẽ không đưa đến Tây phương cực lạc một người với những suy nghĩ hoặc hành vi của một icchantika như vậy. Làm thế nào một người như vậy lại có thể là một cao tăng? Cho dù địa vị hay uy tín của ông ta có như thế nào, ông ta dứt khoát không phải là một cao tăng. Điêu này vi phạm nghiêm trọng của những lời dạy của Đức Phật.

60. Tri kiến cho rằng, một người đã hiểu tâm họ và nhận ra bản tánh tự nhiên của họ lại không kính trọng hình ảnh của chư Phật và chư Bồ Tát.

Những người có tri kiến này cho rằng, “Tôi đã hiểu tâm tôi và nhận ra bản tính nguyên thủy của tôi. Tôi đã thâm nhập vào sự thật và hiểu được sự rỗng không của tứ đại. Tôi đã thâm nhập vào sự thật rằng tất cả các pháp có điều kiện giống như một giấc mơ, ảo ảnh, bọt nước và hình bóng, giống như sương sớm và tia chớp. Và tại sao, sau đó, bức tượng đất sét của một vị Bồ Tát lại xứng đáng được ca tụng như vậy?” Một người có tri kiến như vậy thậm chí không tôn kính một bức tượng khi vào một ngôi đền. Điều này không đúng.

Một người phải cúng dường trước các bức tranh và tượng của chư Phật và chư Bồ Tát. Các con phải tôn thờ những hình ảnh của chư Phật, chẳng hạn như bằng cách lễ lạy, hoặc quỳ xuống, nằm rạp. Cho dù con có hiểu tâm con và nhận ra bản tính nguyên thủy của con nhiều thế nào đi nữa, con vẫn phải thực hiện cúng dường và thể hiện sự tôn trọng những hình ảnh này. Nếu con không tôn trọng các hình thức thế gian này, con sẽ rơi vào suy nghĩ sa đọa của ma quỷ. Đây là một tri kiến sai lầm rất trầm trọng và có thể xếp vào hàng những tri kiến xấu ác.

61. Tri kiến cho rằng, một vị đại Bồ Tát thì không mắc bệnh.

Những người có tri kiến này nghĩ rằng những bậc đại Bồ Tát tối cao thì không bị mắc bệnh. Nhưng đại Bồ Tát cũng bị bệnh. Ví dụ như thiền sư Huang Bo là một vị đại Bồ tát. Rất nhiều vị đại Bồ tát bị mắc bệnh. Tổ sư Milarepa bị ngộ độc, trong khi Ngài là một vị đại Bồ tát. Đại Bồ tát cũng có thể mắc bệnh, giống như những người khác. Hơn thế nữa, đôi khi họ còn nhiễm bệnh vì lợi ích của chúng sinh. Giống trường hợp của Trưởng giả Duy Ma Cật. Chừng nào bệnh của chúng sinh còn thì bệnh của ngài Duy Ma Cật sẽ không thể lành. Trước đây ta hiếm khi mắc bệnh, nhưng bây giờ ta bị bệnh rất nặng. Ta không có năng lực để chữa căn bệnh nghiêm trọng như vậy. Ta cũng không tài giỏi như Gar Tongstan hay Miaokong có khả năng thực hành pháp Thiền Thế Thân Kim Cương và ngay lập tức tách rời ý thức của họ khỏi bất kỳ bệnh tật nào. Ta không tài giỏi như Kaichu Rinpoche, có khả năng thực hành pháp tập trung nội nhiệt và trong một khóa ngồi trừ bỏ tất cả các bệnh trong thân vật lý. Đó là lý do tại sao ta nói ta không tài giỏi như họ. Ta không định nói nhiều hơn ở đây. Ta hy vọng rằng tất cả chúng sinh không mắc bệnh. Ta hy vọng rằng mọi điều trong cuộc sống của họ đem đến cho họ hạnh phúc, và họ trở nên thành tựu thông qua sự thực hành nghiêm chỉnh. Chỉ đơn giản là như vậy.

62. Tri kiến cho rằng, một người đệ tử ngồi cao hơn bậc đạo sư tôn quý của anh ta là chấp nhận được.

Một vài đệ tử ngồi cao hơn bậc đạo sư gốc của họ mà họ không hề biết hay lưu tâm. Như thế, họ đã mắc vào tri kiến sai lầm này. Những người khác thấy điều này nhưng không nhắc nhở một đệ tử như vậy cũng sẽ mắc phải một nghiệp xấu. Phước đức và trí huệ của họ sẽ không phát triển.

63. Tri kiến cho rằng, đặt một cuốn sách về đạo Phật và ảnh của chư Phật ở vị trí thấp hơn vị trí của một bậc cao tăng hoặc bậc có đạo hạnh lớn là chấp nhận được

Những người với tri kiến này đặt một cuốn sách về đạo Phật và ảnh của chư Phật ở vị trí thấp hơn vị trí của một bậc cao tăng hoặc bậc có đạo hạnh lớn. Cho dù bậc cao tăng hoặc bậc có đạo hạnh lớn như thế nào, kinh sách Phật giáo và ảnh của chư Phật phải được đặt cao hơn chỗ ngồi của vị đó. Đây là một yêu cầu. Bất kỳ ai không làm theo tức là mắc phải tri kiến sai lầm này. Tất cả Phật pháp mà người đó thực hành sẽ vô tác dụng giống như một ảo ảnh hay hình bóng.

64. Tri kiến cho rằng, một bậc thánh nhân đạo hạnh không cần thiết phải kính trọng và cúng dường cho những vị thần địa phương và thổ địa.

Có những người thực sự có đạo hạnh linh thánh mà không tỏ ra kính trọng hay cúng dường những vị thần địa phương và thổ địa. Họ xem thường những vị thần này, nghĩ rằng các vị thần thật nhỏ bé và tầm thường. Tâm lý này phản ánh một tri kiến sai lầm. Tại sao? Các vị thần địa phương và các vị thổ địa nhiều khi tốt đẹp hơn và tử tế hơn một số chúng sinh. Những vị thần này cũng là những chúng sinh. Trách nhiệm của chúng ta là làm lợi ích cho họ. Họ đã từng là cha mẹ của chúng ta trong những kiếp trước đây của chúng ta trong sáu cõi. Vì vậy chúng ta cũng phải cúng dường cho họ. Hơn nữa, chúng ta phải rất chân thành bày tỏ sự kính trọng và cúng dường cho họ.

65. Tri kiến cho rằng, những bậc là hoá thân của một vị Phật hoặc Bồ Tát thì không cần tôn kính hình ảnh của những bậc thánh nhân khi đi vào chùa.

Cho dù là hoá thân của một vị Phật hoặc Bồ tát, một người phải tôn kính những hình ảnh của thánh nhân sau khi vào chùa. Đây là một yêu cầu. Ta thực sự được công nhận là Kim Cương Trì III. Trên thực tế, ta không được đề cao hơn bởi việc được công nhận cũng không bị đánh giá thấp đi bởi việc không được công nhận. Điểm quan trọng là sự thực chứng mới là quyết định. Tuy thế, ta cảm thấy rất bình thường. Ta cũng chú trọng tới nghi lễ của sự tôn kính hình ảnh của các thánh nhân. Một ngày, ta đã đi đến chùa Hua Zang Si. Ta đã bắt đầu quỳ lạy trước những bức tượng của thánh nhân ngay sau khi ta bước vào cánh cửa và tiếp tục làm như vậy cho đến khi ta đi tới chính điện. Một vài người thậm chí nói, “Thế nào mà Đức Dorje Chang III lại khấu đầu trước những bức tượng thánh nhân?”. Họ không hiểu rằng tất cả chư Phật phải là một hình mẫu cho chúng sinh. Ta phải khấu đầu trước những bức tượng. Không làm như vậy là theo một tri kiến sai lầm. Tất cả chúng sinh có đức hạnh linh thánh, đặc biệt là các vị Phật, phải là hình mẫu cho tất cả chúng sinh. Khi những vị Phật đến thế giới của chúng ta, họ thậm chí có thể lễ lạy khi một vị thần địa phương khi đi qua một cây cầu mà vị thần địa phương giám sát để cảm ơn ông ta đã bảo vệ chúng sinh. Những vị Phật là những hình mẫu tốt nhất về sự khiêm tốn. Ta, với tâm khiêm nhường, càng nên khiêm tốn hơn nữa.

66. Tri kiến cho rằng, không phải tất cả chúng sinh đều có Phật tính.

Những người có tri kiến này nghĩ rằng chỉ có những chúng sinh như là người, voi, và chó là có Phật tính. Họ nghĩ rằng những chúng sinh khác, đặc biệt là những chúng sinh bé nhỏ, không có Phật tính và không thể trở thành Phật. Đây là một tri kiến sai lầm. Tất cả mọi chúng sinh đều có Phật tính.

67. Tri kiến đồng ý với việc dự báo trước một thảm hoạ toàn cầu sẽ xảy ra trong một năm nhất định.

Có rất nhiều tin đồn như vậy trong thế giới này. Chúng ta thường nghe thấy những thứ như thế giới này sẽ sớm bị huỷ diệt, nó sẽ bị nổ tung vào lúc nào đó, lũ lụt và hỏa hoạn sẽ lớn đến nỗi con người không thể tồn tại, bệnh dịch hoặc virus sẽ gây ra sự tuyệt chủng của loài người, hay vào tháng nào đó của năm nào đó sẽ có đại họa do trái đất sẽ va chạm với một thiên thạch. Tất cả điều đó phản ánh một tri kiến sai lầm rất trầm trọng. Ta nói với tất cả các con rằng trái đất sẽ không bị phá hủy và sẽ không trải qua một đại họa lớn như những gì vừa được nói đến. Nhân loại cũng sẽ không trải qua một đại họa như những gì vừa được đề cập. Tất cả mọi thứ từ từ sẽ phát triển theo duyên nghiệp riêng của nó và luật nhân quả. Sẽ không có những thảm hoạ toàn cầu. Tất cả các tin đồn đó chỉ là lời nói tà ác gây hiểu lầm cho công chúng. Nếu con có loại niềm tin như vậy, con đã mắc phải tri kiến sai lầm này.

68. Tri kiến cho rằng, ai đó mặc y áo của tu sĩ hoặc của rinpoche đều là thánh nhân.

Những người có tri kiến này nghĩ rằng bất cứ ai họ thấy mặc quần áo của một rinpoche hay quần áo của một tu sĩ là bậc thánh nhân cần được kính trọng tuyệt đối. Khi một mảnh vải trông giống như áo choàng đỏ của tu sĩ Tây Tạng nằm trên mặt đất, những người có tri kiến này chắc chắn sẽ nhặt nó lên và tôn thờ nó trên bàn thờ pháp của họ. Họ sẽ trân trọng lễ lạy bộ đồ hay khăn vải với màu của áo ngoài của các tu sĩ. Đây là sai lầm. Nếu bộ đồ đó được mặc bởi một con quỷ dữ thì sao? Nếu bộ đồ đó được mặc bởi một kẻ tồi tệ thì sao? Nếu vải màu đỏ là do sự đổ máu bởi một con dao sử dụng để giết chóc thì sao? Con sẽ bị mắc tội không nếu tôn thờ một chiếc áo như vậy ư? Hơn nữa, trong các cửa hàng vải có rất nhiều loại vải có màu giống áo choàng đỏ của tu sĩ Tây Tạng. Con có định nói là con sẽ lễ lạy mỗi khi đi vào một cửa hàng như vậy? Con đừng nên làm thế. Đó chỉ là mê tín, không phải chân lý tối hậu. Chúng ta phải theo chân lý tối hậu. Chúng ta không được phép tđi heo những gì không phải là chân lý tối hậu. Chúng ta nên tôn kính những bộ y phục của những bậc đức hạnh ilnh thánh đích thực và không ai khác.

69. Tri kiến cho rằng, ai đó truyền bá giáo pháp bằng giọng nói êm dịu thì đích thực là một vị Bồ Tát.

Những người có tri kiến này nghĩ rằng người truyền pháp bằng một giọng nói nhẹ nhàng và âm điệu rất từ bi là những vị Bồ Tát đích thực. Con nên nhớ rằng một số người hành động một cách có chủ tâm bằng cách thay đổi giọng nói của họ để làm cho âm thanh nhẹ nhàng và từ bi. Nhiều người bị lừa khi nghe tiếng nói của họ và xem họ như là hóa thân của chư Bồ Tát. Trên thực tế, họ cố ý tạo ra một không khí bí ẩn bằng việc làm ra vẻ từ bi. Tất cả các pháp họ giảng thì mang tính ngoại đạo hơn là chân lý tối hậu và đi ngược lại những lời dạy của kinh điển. Vì thế, con không nên nghĩ rằng một người giảng pháp bằng một giọng nói nhẹ nhàng thì chắc chắn là một vị Bồ Tát. Cho dù một người nói bằng giọng nhẹ nhàng hay to lớn thì đó không phải là yếu tố quyết định ông ta là một vị Bồ Tát hay không. Việc một ai đó là vị Bồ Tát thật hay giả được quyết định bởi những nguyên tắc của Phật pháp.

70. Tri kiến cho rằng, việc dùng lời nói kim cương [phê bình để chỉ ra chỗ sai – ND] để truyền bá giáo pháp và tiêu trừ nghiệp chướng là không từ bi.

Những người có tri kiến này nghĩ rằng sẽ không từ bi khi truyền giảng pháp trong đó lời nói kim cương được sử dụng để khiển trách nghiêm khắc, phê bình, và đánh thức chúng sinh vô minh và bướng bỉnh. Đây là một tri kiến sai lầm. Một số chúng sinh chỉ có thể được đánh thức bằng cách trách mắng nghiêm khắc bằng ngữ kim cương. Nếu không, họ sẽ tiếp tục con đường sai lầm của họ. Cách sử dụng lời nói kim cương này không phải là không từ bi. Hơn thế, nó còn là biểu hiện của lòng đại bi đích thực. Một hành động làm lợi ích của chúng sinh hay không là cơ sở để xác định hành động đó có bản chất từ bi hay không.

71. Tri kiến cho rằng, một người dùng dạng kim cương của hạnh Bồ-đề [trừng phạt để chỉ ra chỗ sai  ND] để làm lợi ích cho người khác không phải một bậc thánh nhân đức hạnh cao quý.

Hạnh Bồ-đề được thể hiện thông qua vẻ bề ngoài từ bi và sự hiểu hiện của lòng yêu thương. Mặt khác, hạnh kim cương còn được thể hiện thông qua sự trừng phạt và khiển trách nghiêm khắc. Việc này được thực hiện bằng cách sử dụng pháp phẫn nộ. Sẽ là tri kiến hoàn toàn sai lầm khi nghĩ rằng những người sử dụng dạng kim cương của hạnh Bồ-đề để giảng dạy và chuyển hóa những chúng sinh không phải là những thánh nhân. Đó là bởi vì chư Phật hoạt động bằng nhiều loại phương tiện và thị hiện dưới nhiều hình thức. Ví dụ, Bồ Tát Quan Âm xuất hiện như quân vương Truton, vị vua hùng mạnh nhất của những tinh linh xấu ác trong cõi giới địa ngục. Vua Truton xé những tinh linh xấu ác thành từng miếng và ăn chúng. Bằng cách này, vua Truton dạy dỗ và chuyển hóa vô số tinh linh xấu ác. Trong thực tế, ông đã hành động với lòng đại bi, khi ông sử dụng phương tiện thiện xảo đó để nâng đỡ những tinh linh xấu ác lên cõi giới cao hơn.

Trong Phật giáo Mật thừa, có rất nhiều Bồ Tát Kim cương có vẻ ngoài rất hung hãn. Trên thực tế, các ngài làm lợi lạc cho chúng sinh với lòng đại bi. Lấy ví dụ, bổn tôn hộ pháp Ruonama, là vị kim vương uy quyền, hung dữ với sức mạnh lớn lao. Ngài là chúa tể tối cao của loài ma, nhưng ngài cũng sở hữu sức mạnh thánh linh và có sự thực chứng của một bậc thánh nhân. Một ví dụ khác là vị hộ pháp Rahula và vị hộ pháp Ekajati, cả hai vị đều trông cực kỳ hung tợn. Nhiều người sợ hãi khi họ thấy một bức hình của các ngài. Họ nghĩ, “Làm thế nào họ có thể là những thánh nhân? Họ không có lòng từ bi gì cả. Thật đáng sợ!” Điều này là sai lầm. Họ là những bậc đạo sư giác ngộ với lòng bi mẫn lớn lao, làm lợi lạc cho chúng sinh. Đó chỉ là do các phương pháp của họ sử dụng khác với hầu hết những vị khác. Vì vậy, tri kiến cho rằng, một người dùng dạng kim cương của hạnh Bồ-đề để làm lợi lạc cho người khác không phải là bậc thánh nhân đức hạnh cao quý là một tri kiến sai lầm.

72. Tri kiến cho rằng, việc nhìn nhận một người nào đó có sự tự tôn và kiêu ngạo như là bậc thầy kim cương là chấp nhận được.

Một số người có sự tự tôn to lớn. Họ kiêu căng khoe khoang về bản thân mình. Họ hoàn toàn dốt nát về Phật pháp và không hiểu về các nguyên tắc của Pháp. Họ không tuân thủ các giới luật, không có Bồ-đề tâm, và không có thực chứng linh thánh. Tất cả cái họ có là sự kiêu ngạo và tất cả điều họ làm là lừa gạt các môn đệ của họ. Con không nên nhìn nhận một người như vậy như đạo sư kim cương của con. Nếu con làm như vậy, con đang đi trên con đường sai lầm.

73. Tri kiến cho rằng, con phải kính trọng một đạo sư linh thánh “dởm” theo năm mươi khổ thơ về lòng sùng mộ đạo sư.

Từ khi “Năm mươi khổ thơ về lòng sùng mộ đạo sư” được công bố, nhiều người không còn dám phản đối đạo sư của mình. Bởi vì “Năm mươi khổ thơ về lòng sùng mộ đạo sư” đã cấm như vậy, họ nghĩ rằng họ không thể phản đối đạo sư của họ bất kể vị này là người tốt hay xấu. Bây giờ con phải hiểu rõ rằng đó chính xác là điểm con bị mắc kẹt. Mặc dù “Năm mươi khổ thơ về lòng sùng mộ đạo sư” đưa ra rằng con phải tôn kính đạo sư của mình, trước tiên con phải nhận ra thầy của mình đang hành động phù hợp với giáo pháp hay không và ông ta có thực sự sở hữu những phẩm chất của một vị thầy hay không. Nếu ông ta theo những tri kiến sai lầm, hoặc cả tri kiến xấu ác, con vẫn còn muốn theo ông ta chứ? Con có rời bỏ ông ta không? Nếu con không rời bỏ ông ta, con sẽ bị ô nhiễm bởi cùng nghiệp đen tối đó. Nếu con không rời khỏi ngay lập tức, con sẽ phải chịu số phận bi đát. Con không nên tôn trọng “đạo sư linh thánh” dởm.

Năm mươi khổ thơ về lòng sùng mộ đạo sư đòi hỏi con phải tôn kính bậc đạo sư linh thánh đích thực, chứ không phải những kẻ giả mạo. Vì vậy, việc sử dụng “Năm mươi khổ thơ về lòng sùng mộ đạo sư” như là cơ sở để yêu cầu con tôn kính “dạo sư linh thánh” dởm phản ánh một tri kiến sai lầm.

74. Tri kiến cho rằng, theo một vị thầy không còn Bồ-đề tâm là chấp nhận được.

Nếu bậc thầy của con không còn có Bồ đề tâm và không còn trau dồi bản thân dựa trên Bồ đề tâm, sẽ là sai lầm khi con vẫn còn theo và chấp thuận ông ta. Cho dù ông ta có địa vị thế nào, chẳng hạn như là một vị pháp vương, một tôn giả, một rinpoche vĩ đại, hoặc một giảng sư tuyệt vời, ông ta không phải là một bậc thầy tốt nếu ông ta không có Bồ đề tâm. Ông ta là một người đạo đức giả và đã rơi vào trong những tri kiến sai lầm.

75. Tri kiến cho rằng, ai đó nắm giữ một chứng nhận được phát hành bởi một pháp vương vĩ đại thì chắc chắn là bậc thánh nhân vĩ đại.

Giả sử một vị pháp vương vĩ đại đã viết một giấy chứng nhận cho một ai đó, hoặc hai vị pháp vương đã viết một giấy chứng nhận công nhận cho người đó. Những người có tri kiến sai lầm sẽ nghĩ rằng người đó chắc chắn là một bậc thánh nhân. Suy nghĩ như vậy là không chính xác. Cần xác định xem đó có phải là xác nhận mang ý nghĩa cao nhất hay là một xác nhận mang ý nghĩa trần tục. Phải xác định xem phương pháp sử dụng để chứng nhận bao gồm quan sát một hồ nước, bói toán, hình tượng được tạo ra khi đập vào nước, quay một viên thuốc làm từ bột lúa mạch rang, hoặc một số phương pháp khác.

Sự công nhận theo ý nghĩa thế gian có thể là chính xác, và cũng có thể đi trệch khỏi sự thật đó. Vì vậy một sự công nhận theo ý nghĩa thế gian không thể xác định chắc chắn rằng người được công nhận là một thánh nhân. Cũng không thể xác định chắc chắn rằng người được công nhận không phải là một thánh nhân. Ngay cả khi sự công nhận được thực hiện phù hợp với giáo pháp, chúng ta cũng cần xem liệu người được công nhận này có theo 128 tri kiến xấu ác và sai lầm hay không. Mặt khác, một người không theo 128 tri kiến này trong hành động của mình và do đó không vi phạm các chuẩn mực của các tri kiến này chắc chắn là một bậc thực sự có đức hạnh linh thánh ngay cả khi người ấy không có chứng chỉ công nhận nào.

76. Tri kiến cho rằng, không nên đưa những tinh linh xấu ác lên những cõi giới cao hơn.

Những người có tri kiến này cho rằng những tinh linh xấu ác chắc chắn không nên được đưa lên những cõi giới cao hơn. Những người có suy nghĩ như vậy đã rơi vào tri kiến sai lầm. Những tinh linh xấu ác nên được đưa lên những cõi giới cao hơn. Cho dù họ có xấu ác kinh khủng đến thế nào, họ vẫn là những chúng sinh. Chúng ta là những người tu tập, nên có lòng từ bi đối với tất cả chúng sinh. Hơn nữa, chúng ta đưa các tinh linh xấu ác lên các cõi giới cao hơn sớm bao nhiêu thì càng ngăn chặn họ khỏi làm hại nhiều người tốt bấy nhiêu.

77. Tri kiến cho rằng, ma quỷ xấu ác phải bị tiêu diệt thay vì được dạy dỗ và giúp đỡ sửa chữa.

Những người có tri kiến này cho rằng ma quỷ phải bị tiêu diệt. Suy nghĩ như vậy là sai lầm. Tùy thuộc vào từng hoàn cảnh cụ thể, ma quỷ phải được dạy dỗ và giúp đỡ sửa chữa hoặc phải bị tiêu diệt. Khi thực sự là không có cách nào để dạy dỗ, sửa chữa chúng và chúng quyết tâm tiếp tục làm hại chúng sinh, chúng phải bị tiêu diệt. Nếu thậm chí còn có cơ hội dù là nhỏ nhất để dạy dỗ và sửa chữa chúng, chúng ta nên làm tất cả điều có thể làm để dạy dỗ và giúp chúng sửa chữa và không nên tiêu diệt chúng, vì ma quỷ cũng là những chúng sinh.

78. Tri kiến cho rằng, một người không cần thiết phải cúng dường thức ăn cho loài la sát và quỷ đói.

Những người có tri kiến này nghĩ rằng chúng ta không nên cúng dường thức ăn cho loài la sát và quỷ đói. Đây cũng là sai lầm. Thức ăn nên được cúng dường cho loài la sát và quỷ đói. Chúng cũng là những chúng sinh. Chỉ khác là chúng có những tri kiến xấu ác. Chúng ta phải sửa chữa chúng để chúng có hiểu biết và cái nhìn đúng đắn. Chúng ta cần tìm ra những cách để đưa chúng đến với giáo pháp chân chính. Chúng ta cần cúng dường cho chúng để chúng sẽ được chuyển biến, sửa chữa lối sống xấu ác, và làm những điều tốt.

79. Tri kiến cho rằng, người ta phải trả tiền để đổi lấy việc được học hay nghe Pháp.

Hiệu tượng kiểu này đã tồn tại từ xưa cho tới nay. Dựa theo tri kiến này, một người phải trả tiền trước khi họ được phép học Pháp, nghe Pháp hay là bước vào một ngôi đền. Như vậy là họ không thể được học hoặc là nghe pháp nếu không trả tiền. Trước đây ta đã gặp phải trường hợp này khi ta ở trong một số ngôi chùa. Mọi người trong ngôi đền thường nói rằng, “Hôm nay bạn có mang theo vật phẩm cúng dường không? Bạn không được vào đền trừ khi bạn mang theo một vật phẩm. Nếu bạn không mang theo tiền cúng dường, bạn không được phép nghe giảng kinh pháp. Hôm nay chỉ những người mang theo vật phẩm cúng dường mới được vào chùa! Chỉ những người đó mới có thể đến ăn ở phòng ăn. Những người khác không được phép.” Đó là điều rất sai lầm. Có những người giàu có và những người nghèo khổ. Chúng ta nên quan tâm tới hạnh phúc của tất cả mọi người. Nếu họ thực sự nghèo khó, chúng ta thậm chí nên cung cấp tiền cho họ. Chúng ta không nên nói họ phải cúng dường tiền bạc trước khi họ được phép học Pháp, nghe Pháp hoặc là ăn uống. Đó là điều không đúng đắn và cấm kỵ tuyệt đối.

80. Tri kiến cho rằng, việc thính chúng không kính trọng Pháp truyền khẩu qua ghi âm là chấp nhận được.

Một số người khi nghe giáo pháp đã không tôn kính những bài thuyết pháp truyền khẩu được ghi lại và bàn luận khiếm nhã về những bài thuyết pháp này. Họ nghĩ rằng do họ không buộc phải trả tiền để đổi lấy việc nghe Pháp, nên họ sẽ không cúng dường bất cứ vật phẩm nào có giá trị tiền bạc. Họ nghĩ rằng không có điều gì mà họ cần quan tâm và họ có thể nghe những bài thuyết pháp một cách thông thường. Đây là điều thiếu tôn trọng Tam bảo. Hành vi thiếu tôn trọng những bài pháp truyền khẩu đã được ghi âm lại tự nó sẽ ngăn cản một người đạt được sự thành tựu. Phật pháp quý giá vô cùng. Sao con có thể đối xử thiếu tôn trọng với Phật pháp? Con nên cố gắng giúp đỡ bằng việc cúng dường nếu con có thể. Tuy nhiên, nếu con thực sự gặp khó khăn về tài chính, con vẫn nên lắng nghe giáo pháp cho dù con không thể cúng dường vật phẩm gì. Con có thể nghe một lần, một trăm lần hay một nghìn lần. Vị thầy của con sẽ giúp con. Tuy nhiên, nếu con có thể giúp đỡ bằng một vật phẩm cúng dường nhưng không làm vậy do tính ích kỷ, hẹp hòi, hoặc là con có tri kiến cho rằng Phật pháp là điều ít quan trọng hơn so với những vấn đề thế gian, con cũng có thể vẫn nghe giáo pháp. Tuy nhiên, bằng cách này con đang gieo trồng những hạt giống của những duyên nghiệp sẽ ngăn cản con trở nên thành tựu.

81. Tri kiến cho rằng, một vị đạo sư có thể chuyển một phần tuổi thọ cho học trò của mình là chấp nhận được.

Đây là một tri kiến ngoại đạo khá phổ biến. Dựa trên tri kiến này, một bậc thầy nói với đệ tử của mình rằng ông ta đã thực hành một pháp và do đó đã chuyển một phần trong tuổi thọ của mình cho đệ tử hoặc cho một thành viên nào đó trong gia đình đệ tử này. Ông ta nói với các đệ tử rằng các đệ tử hoặc thành viên gia đình của đệ tử vẫn còn sống là kết quả của điều đó. Ông ta còn tiếp tục nói rằng ông đã nhận hộ những nghiệp xấu của các đệ tử hoặc thành viên gia đình của đệ tử. Nói những lời như vậy là sai và không thể biện hộ nổi. Nếu một vị thầy muốn chuyển một phần trong tuổi thọ của mình cho một đệ tử, ông có thể cầu nguyện sẽ làm điều đó. Tuy nhiên, điều này chỉ là ước muốn của ông ta và không liên quan đến sự thành công của việc chuyển giao hay không. Vị thầy không nên tiết lộ ước muốn này cho đệ tử của mình bởi vì đây là một phần trong sự tu tập của ông. Trong thực tế, thực sự rất khó khăn để những việc chuyển giao như vậy thành công theo như luật nhân quả. Các vị thầy nên dạy các đệ tử để thay đổi tuổi thọ của chính mình thông qua quá trình tự tu tập. Một bậc thầy, đệ tử, hay bất cứ ai nghĩ rằng một vị thầy có thể chuyển giao một phần của tuổi thọ của mình cho đệ tử là đang có một tri kiến sai lầm.

82. Tri kiến cho rằng, một người học tại một ngôi chùa nổi tiếng chắc chắn là một vị tu sĩ xuất sắc.

Những người với tri kiến này cho rằng nếu một người nào đó đến từ một tu viện lớn với một ngàn hoặc thậm chí vài ngàn tu sĩ trong đó, ông ta chắc chắn sẽ là một tu sĩ lỗi lạc. Họ nghĩ rằng một ai đó với danh hiệu narenpa geshe – người dành vị trí dẫn đầu trong các cuộc tranh luận kinh điển chắc chắn phải là một tu sĩ xuất sắc. Điều này là sai. Ta cho các con biết rằng người này không nhất thiết đã là một tu sĩ xuất chúng. Ông ta thậm chí có thể là một kẻ xấu xa vô lại, hoặc một tên lừa đảo. Một người trở thành một tu sĩ lỗi lạc thông qua việc tự tu tập và nhận ra sự thật tối hậu. Con sẽ không thể xác định được xem một ai đó là một tu sĩ lỗi lạc chỉ đơn giản bằng cách xem họ đến từ tu viện nào .

83. Tri kiến cho rằng, một người đã học hỏi dưới sự dẫn dắt của nhiều bậc đạo sư chắc chắn là một vị thánh nhân.

Có những người theo học với nhiều bậc đạo sư. Họ nhận được hơn một nghìn quán đảnh và chính thức công nhận một hoặc hai trăm người là thầy của họ. Họ tự nhận rằng đã thực hành pháp tập trung nội nhiệt tummo, pháp Kalachakra, và pháp Đại toàn thiện. Hơn thế nữa, họ nói rằng họ đã bước vào tầng cao nhất của pháp của Kalachakra bởi thực hành thành công pháp thiền Thân kim cương thay thế . Con nghe điều này và nghĩ rằng những người như vậy chắc chắn phải là những tu sĩ xuất sắc. Con đang rất lầm lẫn! Con chỉ tin vào những gì con nghe thấy và không tuân theo sự thật tối hậu. Con đã xác minh thông qua một cuộc kiểm tra khoa học xem đỉnh đầu của họ có thật sự mở ra được hay chưa? Ý thức của họ có thể rút ra rồi quay trở lại cơ thể họ chăng? Nếu không có xác minh, con không thể rút ra kết luận rằng họ đã hoàn thiện việc thực hành pháp thiền Thân kim cương thay thế.Tại sao vậy? Lý do rất đơn giản. Việc ai đó là một tu sĩ xuất sắc hay không phụ thuộc việc tự tu dưỡng và thực hành của họ. Nếu một người tu dưỡng và thực hành không tốt, cho dù anh ta có là đệ tử chính thức của bao nhiêu bậc thầy đi nữa cũng là vô nghĩa. Vì vậy, thật là sai lầm khi nghĩ rằng nếu có ai đó đã theo học nhiều bậc thầy hẳn sẽ là một tu sĩ xuất sắc hay một bậc thánh nhân.

84. Tri kiến cho rằng, nền tảng tâm linh của phụ nữ không tốt bằng của đàn ông.

Những người có tri kiến này cho rằng nền tảng tâm linh của phụ nữ là không tốt bằng của nam giới. Họ nghĩ rằng đàn ông có năng lực tâm linh tốt hơn. Đây là tri kiến sai lầm. Những người có một nền tảng tâm linh tốt có thể được tìm thấy giữa cả nam và nữ.
85. Tri kiến cho rằng, những sinh mạng của những chúng sinh nhỏ bé là không giá trị như sinh mạng của những chúng sinh to lớn.

Những người có tri kiến này cho rằng khi cứu giúp chúng sinh, những chúng sinh to lớn hơn nên được cứu giúp trước. Ví dụ, họ nghĩ con bò nên được cứu trước. Họ cho rằng con voi nên được giải cứu đầu tiên. Họ không vội vàng để cứu các loài chim nhỏ và họ cứu lũ kiến cuối cùng. Điều này là sai lầm. Chúng ta phải coi tất cả chúng sinh bình đằng như nhau.

86. Tri kiến cho rằng, việc trì tụng kinh điển mà không hiểu ý nghĩa là chấp nhận được.

Những người có tri kiến này nghĩ rằng có nhiều công đức chỉ bằng việc trì tụng một bản kinh cho dù người trì tụng không hiểu được ý nghĩa và nguyên tắc của bản kinh này. Điều này là không đúng. Trước khi trì tụng một bản kinh, người ta phải hiểu được nội dung của nó trước đã.

87. Tri kiến cho rằng, việc bí mật tích luỹ tiền bạc dưới chiêu bài kêu gọi quyên góp xây chùa, bảo tháp hay tổ chức pháp hội là chấp nhận được.

Dưới chiêu bài xây dựng một ngôi chùa, xây dựng một bảo tháp, hoặc tổ chức một pháp hội lớn, có những người trong thực tế, đã bí mật tích lũy tiền bạc cho bản thân họ. Chúng ta không được chấp nhận hành vi đó và phải phản đối chúng.

88. Tri kiến cho rằng, việc lạm dụng quỹ từ thiện hỗ trợ thảm hoạ cho những mục đích tham lam của cá nhân là chấp nhận được.

Một số người thu nhận rất nhiều tiền bạc dưới ngọn cờ của tổ chức từ thiện và cứu trợ thiên tai. Tuy nhiên, họ bí mật lạm dụng các quỹ đó cho mục đích riêng tham lam của mình. Đây là đang đi theo một tri kiến sai lầm. Cho dù là một vị thầy hay đệ tử, nhưng nếu lạm dụng cho dù một xu của những quỹ đó cho sự tham lam, ích kỉ của mình thì cũng là một vi phạm về nghiệp. Bất cứ ai sử dụng sai lầm các quỹ đó và bất cứ ai chấp nhận cho những hành động này đều đang đi theo tri kiến sai lầm này.

89. Tri kiến cho rằng, một người phải bỏ hết công việc của người đó để tu dưỡng bản thân và học đạo Phật.

Một vài người nói rằng họ sẽ đơn giản là từ bỏ hết những công việc của mình để tu dưỡng bản thân và học hỏi Phật pháp. Họ nói rằng chỉ bằng cách từ bỏ công việc, họ mới có thể tập trung sự chú ý của họ vào tu tập và do đó tu dưỡng bản thân thật tốt. Đây là một tri kiến sai lầm. Một người tu tập thực sự sẽ hành động theo giáo lý nhà Phật cho dù họ ở trong bất kì trường hợp nào. Không nên nghĩ rằng chỉ bằng cách từ bỏ công việc của mình và tập trung hoàn toàn vào tu tập mới là đang hành động theo đúng giáo lý nhà Phật.

90. Tri kiến cho rằng một người đã thọ quy y chắc chắn là một Phật tử.

Những người có tri kiến này nghĩ rằng nếu họ đã quy y, tham gia vào một buổi lễ quy y và nhận được chứng nhận quy y thì họ sẽ là Phật tử. Điều này không chính xác. Nhận lễ quy y không có nghĩa rằng người đó nhất thiết là một Phật tử. Một người có thể đại diện cho Phật giáo không nếu ông ta lại giết người và phóng hỏa sau khi quy y? Nếu một người sau khi quy y lại thực hiện tất cả những điều xấu xa suốt trong một ngày dài, làm nhục người khác, lừa dối người khác, thực hành và truyền bá tư tưởng ngoại đạo, liệu người này có phải là một Phật tử không? Không, anh ta không hề. Chỉ những người tuân thủ các giới luật trong thực hành mới là Phật tử thật sự. Chỉ những người không phạm phải 128 tri kiến xấu ác và sai lầm này mới là những Phật tử tinh thuần, chính thống, xuất sắc và là những người tu dưỡng đạo đức sâu sắc. Điều này là cực kỳ quan trọng.

Chúng ta nên xem xét bản thân một cách sâu sắc để xem liệu chúng ta có đang theo bất kỳ một tri kiến sai lầm nào đó hay không. Nếu con theo một, hai, hoặc ba trong số các tri kiến sai lầm trên, hậu quả sẽ phụ thuộc vào việc vi phạm là nặng hay nhẹ. Điều đó lại phụ thuộc vào tri kiến sai lầm mà con mắc phải là gì. Nếu con theo ba tri kiến sai lầm mà gây ra hậu quả tương đối nhẹ hoặc nếu con theo một hoặc hai tri kiến sai lầm nhưng hậu quả tương đối nặng mà con không ngay lập tức sửa đổi thì con sẽ không thể có được bất kỳ hiệu quả lợi lạc nào từ việc tu tập bất cứ pháp nào. Con sẽ không đạt được bất cứ khả năng siêu nhiên hay năng lực thực chứng nào thông qua thực hành. Con sẽ không thể thực hiện được bất cứ năng lực đích thực nào ngoại trừ khi con theo các pháp thực hành của ngoại đạo và năng lực đó là biểu hiện của tà pháp. Tuy nhiên, điều đó sẽ khiến cho con chết sớm và bị đoạ xuống địa ngục vô gián. Sẽ không có kết quả nào khác ngoài điều này.

Chỉ có duy nhất một con đường đúng đắn trong tu tập. Nếu con làm theo những tri kiến xấu ác và/hoặc các tri kiến sai lầm mà không ngay lập tức sửa mình thì có thể từ thời điểm đó cho đến hết quãng đời còn lại con sẽ đánh mất tất cả cơ hội để nhận được Phật pháp đích thực, đánh mất tất cả những chánh pháp con đã từng thọ nhận và sẽ bị đọa xuống một trong ba cõi thấp mà không bao giờ có thể đạt được giải thoát. Vì thế, con tuyệt đối không được theo bất cứ tri kiến xấu ác và sai lầm nào đã được làm rõ trong ngày hôm nay. Không quan trọng việc con học theo giáo pháp nào, con thuộc dòng phái nào, nếu con theo các tri kiến xấu ác và/hoặc tri kiến sai lầm, thì đơn giản con là một kẻ ngoại đạo. Con sẽ phải nhận quả báo trong tương lai. Đây là điều không thể tránh khỏi. Đây là điều chắc chắn. Đó là cách mà tất cả mười phương chư Phật và chư Bồ tát bảo vệ những tri thức và tri kiến đúng đắn. Bất cứ ai theo những tri kiến xấu ác và sai lầm này sẽ trở nên giống như cội nguồn của một khối u ác tính làm ngộ độc chúng sinh và chính họ. Vì thế, ta phải cho các con biết rằng các con không được theo bất cứ một tri kiến nào như vậy.

Đồng thời, chúng ta phải khắc sâu trong tâm một điều vô cùng quan trọng. Một số người nói rằng “128 tri kiến này không có trong giáo huấn của tông phái chúng tôi. Chúng không liên quan gì tới chúng tôi.” Nếu con có tư tưởng này thì con đã gieo mầm mống để rơi vào một trong ba cõi thấp. Những tri kiến xấu ác và sai lầm này mang tính bất bộ phái. Chúng thuộc về Phật giáo chứ không phải bất cứ dòng phái riêng biệt nào. Chúng thuộc về luật nhân quả trong vũ trụ. Chúng được đưa ra để tương ứng với sự tương sinh tương diệt của chúng sinh và tương ứng với các nghiệp xấu phát sinh do ảo tưởng của chúng sinh. Do đó, những tri kiến này mang tính bất bộ phái.

Ta sẽ đưa ra cho các con một ví dụ tương đồng ở đây. Hãy xem việc có ai đó nói rằng “thuốc độc và thuốc tốt không ảnh hưởng gì đến việc kinh doanh của chúng tôi, bởi vì chúng tôi bán vải chứ không bán thuốc. Chỉ các bệnh viện và các dược sĩ mới làm việc với các loại thuốc. Chúng tôi không muốn sử dụng thuốc hay dược phẩm gì cả”. Tri kiến này hoàn toàn sai lầm. Mặc dù dược phẩm hay thuốc được sử dụng trong bệnh viện, nhưng tác dụng của chúng là như nhau trên tất cả mọi người. Bất kể con đang kinh doanh gì, nếu con nghĩ rằng uống một loại thuốc độc là vô hại và con vẫn uống thì con sẽ bị nhiễm độc dẫn đến cái chết. Vì vậy bất kể con đang thuộc tông phái nào, việc theo hay không theo những tri kiến xấu ác và sai lầm này đều chắc chắn sẽ gây ra nghiệp báo tương ứng theo quy luật nhân quả tự nhiên.

Ta sẽ đưa ra một ví dụ có thực xảy ra trong thực tế tu tập. Một vị rinpoche từ Tây Tạng đã đến để tỏ lòng kính trọng với Kaichu Rinpoche. Vị Rinpoche Tây Tạng này nói: “Tôi đến từ tông phái này của Phật giáo mật thừa truyền thống, và tông phái chúng tôi thực hành bốn pháp yoga. Tôi là đệ tử của vị đạo sư này, là một vị đạo sư yoga cao nhất ở Tây Tạng”. Ông ấy hỏi Kaichu Rinpoche, “Theo Ngài, tông phái nào của Phật giáo là cao nhất và tốt nhất?” Kaichu Rinpoche trả lời, “Bất cứ tông phái nào cũng có thể tốt hoặc không tốt. Nếu những tri kiến của tông phái là đúng thì tông phái đó là tốt. Nếu tri kiến của tông phái đó là xấu ác và sai lầm thì đó là tông phái không tốt”. Vị rinpoche Tây Tạng nói: “Tôi đã đọc 128 tri kiến của tông phái của Ngài. Những hành giả chúng tôi không liên quan gì đến những tri kiến này. Tôi có thể nâng nhiệt độ cơ thể mình qua việc thực hành pháp tập trung nội nhiệt tummo mặc dù tôi không học về 128 tri kiến này.” Kaichu Rinpoche nói với ông ta rằng: “Tôi không thuộc tông phái nào cả. Tất cả những gì tôi có là Phật giáo.”

Trong quá trình thảo luận của họ, họ bắt đầu thi triển những năng lực của mình từ việc thực hành pháp tập trung nội nhiệt. Kaichu Rinpoche áp dụng pháp tập trung nội nhiệt bên ngoài cơ thể của mình và do đó lập tức chữa khỏi bệnh tật của một người khác ngay tại đó. Sau khi các cuộc thi triển năng lực kết thúc, vị rinpoche đó hỏi: “Làm thế nào để tôi có thể có được những năng lực như Ngài?” “Hãy chú ý đến 128 tri kiến” Kaichu Rinpoche trả lời ông ta như vậy.

Bởi vì điều này đã để lại một ấn tượng rất sâu sắc với vị Rinpoche Tây Tạng đó, ông ngay lập tức tập trung vào việc xem mình có theo tri kiến nào trong 128 tri kiến này hay không. Trong vòng một tháng, ông đã có thể tăng nhiệt độ cơ thể lên gấp đôi trong pháp tummo. Ông ấy nói: “Điều này thật kỳ diệu. Tôi đã thực hành pháp tummo trong 16 năm, nhưng trong suốt thời gian đó tôi đã không thể thực hiện được một bước tiến triển nhảy vọt như tôi đã thực hiện trong tháng vừa rồi. Tôi vẫn đang thực hành pháp như tôi đã thực hành trước đây. Bây giờ tôi biết rằng 128 tri kiến không thuộc về bất cứ tông phái riêng biệt nào. Chúng là những nguyên tắc của Pháp mang lại lợi ích cho tất cả các hành giả và dựa trên quy luật nhân quả.”. Đó là những ấn tượng rất sâu sắc của vị rinpoche đó.

Ta phải nhắc lại một lần nữa với tất cả các con về điều này. Không được rơi vào bất cứ tri kiến nào trong các tri kiến này. Nếu không việc tu tập của các con là vô ích. 128 tri kiến xấu ác và sai lầm này cũng là một phần của pháp quan trọng chứa đựng trong Giải thoát Đại thủ ấn tối thượng. Bài giải thích ngắn gọn về pháp của ngày hôm nay sẽ kết thúc ở đây.

Các đệ tử: Chúng con đảnh lễ Đức Dorje Chang III.

Khi ta nghe các con xưng hô như vậy, ta cảm thấy rất xấu hổ. Đừng gọi ta là Đức Dorje Chang III. Chỉ cần gọi ta là Sư phụ, cách xưng hô giản dị nhất.

Hits: 285