Sau khi thành Phật và sau nhiều ngày suy nghiệm về căn cơ của chúng sanh để mở bày phương tiện thiện xảo, tuỳ duyên mà hoá độ. Rồi Ngài rời rừng núi cô tịch hoang liêu, rời xa cây bồ-đề trong niềm lưu luyến đầy niềm tri ân, để bắt đầu công cuộc đem pháp mầu giáo hoá chúng sanh.
Nếu trong giờ phút Đản Sanh của Thái tử Tất-đạt-đa đã xảy ra những sự lạ khác thường như quả đất rung động, nhạc trời chúc tụng, bao nhiêu kỳ hoa dị thảo trong vườn Lâm-tỳ-ni khoe sắc đua màu, hương thơm ngào ngạt khắp nơi, chim chóc ríu rít hoan ca hoà cùng với lòng người rộn rã để cùng đón Đấng cứu khổ của chúng sanh xuất hiện, thì trong giờ phút Thành Đạo cũng diễn ra không kém vẻ thiêng liêng mầu nhiệm và trọng đại nhất trong cõi đời, nhất là đối với loài người từ vô thủy đến vô chung, đó là: “con người đã thành Phật.”
“Ta là Phật đã thành, chúng sanh là Phật sẽ thành.” Đây là một sự kiện trọng đại nhất, kỳ vĩ nhất, khó được và khó thấy nhất đã trở thành hiện thực. Bóng tối đêm trường bấy lâu nay vây phủ con người đã bị xua tan, ánh sáng của vầng thái dương xuất hiện.
Thông điệp cứu khổ độ đời đã được ban ra từ một con người nay đã thành Phật, do nỗ lực tự thân, và sự hy sinh đầy gian lao thử thách chiến đấu và chiến thắng từ nội tâm đến ngoại cảnh, đằng đẳng qua nhiều ngày nhiều tháng, giữa rừng sâu núi tuyết trong đơn độc cô liêu.
Đêm quên ngủ ngày quên ăn, với đại hùng tâm và đại bi tâm, với chí nguyện độ sanh cao cả, mà hành trình từ lý tưởng, mục đích, lý thuyết cho đến phương pháp và hành động để đạt thành kết qủa đều như thật lý, như thật trí. Sự thành tựu đều phù hợp với mọi sự vật đúng như thật.
Vì vậy, đạo Phật còn gọi là đạo như thật, không có sự giả định hay xét lại. Tất cả bắt đầu từ sự thấy, biết, khảo sát, thể nghiệm và chứng đắc của một con người dưới cội bồ đề, do ân đức, trí đức và đoạn đức viên mãn của Đức Phật Thích-ca.
Qua kinh điển ghi chép lại, cho chúng ta biết rằng đầu đêm, Ngài chứng được quả Túc mạng minh, tức là thấy biết rốt ráo được đời sống quá khứ của chúng sanh. Giữa đêm, Ngài chứng được Thiên nhãn minh, thấy rõ các Pháp, vạn sự vạn vật đều tùy thuộc lẫn nhau, không có tánh riêng rẽ độc lập, tất cả đều liên quan đến nhau mà sanh khởi nên gọi là vô ngã. Và cuối cùng khi sao mai vừa mọc, Ngài chứng được quả Lậu tận minh, dứt sạch mọi vô minh phiền não, chấm dứt mọi khát ái và luân hồi sanh tử và đoạn tận hoàn toàn vô minh lậu hoặc.
Tương Ưng Bộ kinh tập 1B đã ghi lại lời của Đức Phật đầy hỷ lạc sau giờ phút đắc đạo rằng:
“Pháp này do ta chứng được thật nhiệm màu, sâu kín, khó thấy khó chứng, tịch tịnh cao thượng, vi diệu, siêu lý luận, vượt thoát ngôn ngữ, vượt thoát thời gian, không gian, chỉ có người tín trí mới hiểu nổi, còn đa số thì vì mê mờ và khát ái nên khó thấy được định lý y tánh duyên khởi pháp, thật khó thấy được định lý tất cả hành là tịch tịnh, tất cả sanh y (ngũ uẩn) phải được trừ bỏ, ái được đoạn tận, xa lià dục vọng, đoạn trừ ô nhiễm, chấp thủ mới thể nhập Niết bàn.”
Trước lúc thành Phật, Ngài cũng như chúng ta, cũng trôi lăn trong khổ đau, luân hồi, sanh tử qua bao kiếp số, như chính lời Ngài thẩm xác được ghi lại trong kinh Pháp Cú câu 153 và 154 như sau:
“Ta lang thang trong vòng luân hồi sanh tử qua bao kiếp số, tìm mãi mà chẳng gặp kẻ làm nhà (chỉ sự vô minh hành động xấu ác của con người). Khổ thay kiếp sống cứ tái diễn mãi (chỉ cho sự luân hồi sanh tử).
Ôi! Kẻ làm nhà kia, nay ta đã thấy rồi (thấy biết rốt ráo nguyên nhân của vạn sự vạn vật). Ngươi không thể làm nhà nữa (vô minh sanh tử đã diệt). Đòn tay bị gãy, kèo cột ngươi bị tan (tham sân vị kỷ, hận thù cố chấp) và (tà kiến đã bị tiêu trừ). Tâm ta đã tịch diệt hết các hành, bao nhiêu tham ái đều dứt sạch cả (tâm giác ngộ đã bừng sáng, mọi sự mong cầu tham đắm đã bị nhổ sạch tận gốc rễ, không còn tái sanh lại trong đau khổ sanh tử).”
Sau khi thành Phật và sau nhiều ngày suy nghiệm về căn cơ của chúng sanh để mở bày phương tiện thiện xảo, tuỳ duyên mà hoá độ. Rồi Ngài rời rừng núi cô tịch hoang liêu, rời xa cây bồ-đề trong niềm lưu luyến đầy niềm tri ân, để bắt đầu công cuộc đem pháp mầu giáo hoá chúng sanh.
Dòng suối chánh pháp từ đây được ban bố và lưu lộ trong khắp cõi hoàn vũ, là cánh cửa cải tử hoàn sinh, là chiếc bè đưa người vượt qua trùng dương khổ ải mà từ lâu sống say chết mộng. Chánh pháp chính là ngọn hải đăng bất sinh bất diệt hướng dẫn cho biết bao chúng sanh trong cuộc đời trầm thống.
Nguồn đạo lý ấy phát sinh từ Đại bi, Đại trí và Đại hùng lực, mà như trong kinh Pháp Hoa diễn tả:
“như một trận mưa rào giữa nắng hạn xác xơ, trận mưa thấm nhuần vào lòng đất, cây cối, núi rừng và ruộng đồng. Tuỳ theo nhu cầu, các cây lớn bé đều hút lấy nước và hương vị mát mẻ của trận mưa.”
Và gần 3 ngàn năm đã trôi qua, hơn một phần ba nhân loại cũng đã thừa hưởng, tiếp nhận hương vị từ bi, giải thoát của trận mưa bất tận của chánh pháp.
Nhờ chánh pháp vô thượng mà đã cải hoá biết bao người từ độc ác trở nên thánh thiện, từ đau khổ được trở nên an lạc giải thoát. Như từ một A-Dục bạo chúa, đã gây ra bao cuộc chiến tranh đầu rơi máu đổ, nhờ hấp thụ chánh pháp mà đã trở thành một quân vương Bồ-tát, lại đem chánh pháp phục vụ đất nước Ấn Độ.
Đặc điểm nổi bật nhất là A-Dục vương đã tài trợ, ủng hộ và chủ trương kết tập Kinh tạng lần thứ III mà lịch sử muôn đời còn xưng tán công đức. Dùng những trụ đá để khắc những chỉ dụ, những nơi trọng yếu về cuộc đời của Đức Từ Phụ đến nay vẫn còn, lại còn cho Công chúa và Hoàng tử của mình xuất gia, đem Phật pháp và cây Bồ-đề qua trồng ở Tích Lan.
Đặc điểm nhất trong nhiều đặc điểm là câu minh thị khẳng quyết rằng:” Thắng lợi chân chánh nhất là chiến thắng được chính mình bằng trí tuệ như lời Phật giáo chứ không phải chiến thắng người bằng bạo lực hay vũ khí.” Điều ấy đã thực chứng qua thời gian và không gian trong lịch sử nhân loại rằng Phật giáo truyền bá đến đâu đều đem an lạc hạnh phúc tới đó.
“Không bao giờ có một cuộc chiến tranh do sự truyền bá Phật giáo gây ra. Không một quốc gia nào bị xâm lăng do sự chiến đấu hăng say của người Phật tử.
Không một người nào bị sát hại đổ máu mà kẻ sát nhân ấy nhân danh Đức Phật. Ngài và niềm tin nơi Ngài không hề mang một vết máu của bất cứ ai. Ngài hoằng dương một giaó lý đem lại an lành vĩ đại, tình thương, lòng từ ái, bi mẫn và lời dạy của Ngài trong sáng, hoàn thiện, chính xác và rõ rệt đến độ không bao giờ có thể bị nhầm lẫn” (Nhà học giả, nghiên cứu, tiến sĩ H. Fielding trong quyển The Soul of a People).
Giờ đây chỉ nói riêng Phật giáo Việt Nam thôi.
“Từ nguồn ra đến biển khơi
Việt Nam Phật giáo đời đời bên nhau”
(Vân Sơn Phan Mỹ Trúc).
Cụ thể và điển hình là Trần Nhân Tôn, từ một vị vua đánh Nam dẹp Bắc, đem hoà bình độc lập cho nước cho dân rồi xuất gia làm thiền sư, rồi Quốc sư, đem giáo lý thập thiện truyền bá khắp trong dân gian.
Tuệ Trung Thượng sỹ, một dũng tướng, một cư sĩ, thiền sư, thầy của các bậc đế vương nhà Trần. Trần Thái Tổ ngồi trên ngai vàng mà xem vương vị như đôi dép bỏ. Vua Lý Thánh Tông thì thương dân như thương con. Sử sách nào mà kể cho cùng tận sự tươi nhuận, thẩm thấu của Phật giáo trong nhân loại, trong lòng dân tộc, chỉ biết rằng:
“Tới đâu cũng thấy ngôi chùa cũ
Cũng thấy vườn lan, khóm trúc xưa.”
Lại nữa:
“À ơi bến cũ cây đa
Ngôi chùa còn đó thì ta còn mình”
Ai đã từng học hỏi nghiên cứu lịch sử dân tộc mà không biết rằng ở các triều đại Lý, Trần, Đạo Phật đóng vai trò kiến quốc trên các phương diện văn hoá, đạo đức, nghệ thuật, giáo dục, ngoại giao và xã hội.
Đạo Phật trong các thời đại ấy đã thúc đẩy sự thăng tiến của xã hội Việt Nam và những công trình ấy đã chứng thực nguồn sinh lực và khả năng tiềm tàng của Phật giáo. Các sử liệu chép rằng ở triều Lý, giới trí thức bác lãm nhất trong nước đều là những nhà Phật học và các Thiền sư.
Cái học của Phật học lúc đó là cái học để hiểu và để xây dựng, nó không vì danh lợi, bổng lộc, tiền tài mà chỉ để phục vụ xây dựng mà thôi. Các vị thiền sư thường được vua mời vào cung điện để giảng đạo, luận bàn việc văn hoá, kinh tế, xã hội và cả chính trị nữa.
Có Thiền sư được mời đứng ra để tiếp Sứ ngoại quốc (Pháp Thuận, Lý Giác Thiền sư). Thế nhưng họ vẫn sống thật sự đạm bạc nâu sồng trong các tự viện và chỉ vào cung khuyết khi có chiếu chỉ triệu mời. Họ chủ trương vô chấp và quan trọng nhất là vô trụ, nghĩa là không bị tiền tài và địa vị mà tham đắm, sa ngã hay lôi kéo. Chỉ vì các Thiền sư có đạo đức khả kính, có nếp sinh hoạt tâm linh phong phú, giải thoát và siêu phóng dung dị.
Như vậy, rõ ràng cốt tủy của Phật giáo chính là nội lực, phần tâm linh cao khiết là ở bên trong, tu tập và rèn luyện, thực hành để khai sáng nguồn tâm, làm chủ chính mình và hoàn cảnh. Đây là tinh hoa, là sinh mệnh của Phật giáo, và Phật giáo tồn tại cũng chính là ở những phần này. Đức Phật chủ trương: “Bán giàu mua nghèo, bán sang mua hèn” và “Bỏ tất cả để được tất cả.”
“Nếu bạn muốn thấy người cao quý nhất của loài người, bạn hãy nhìn vào Hoàng Đế trong y phục của một người ăn xin; chính là Ngài đó, Đức Phật, siêu phàm thánh tính của Ngài thật là vĩ đại giữa loài người”(Adule Atahiya –Học giả Hồi giáo).
Chúng ta hãy bình tâm để suy niệm lại hình ảnh của Đức Thế Tôn trong suốt cuộc đời truyền giáo cứu khổ độ sanh.
“Bình bát cơm ngàn nhà
Thân đi muôn dặm xa
Chỉ vì việc sanh tử
Giáo hoá tháng ngày qua”
Ngày nay, chúng ta vì tham lam ích kỷ, muốn ôm tất cả làm của riêng mình để rồi sẽ mất tất cả. Túi tham của con người là cái thùng lủng đáy, vơ vét biết khi nào cho đầy?
Giáo lý ví như chiếc bè, là ngón tay chỉ mặt trăng. Chấp nhặt vào ngón tay thì làm sao thấy được mặt trăng. Đã đành hình thức cũng không kém quan trọng, ông thầy tu phải mặc áo tu, nhưng có kẻ không thật tu mà lợi dụng thì sao?
Ai cũng biết rằng kinh điển, chùa chiền, Tăng Ni rất cần cho sự phát triển của Đạo Pháp. Nếu kinh điển chỉ để trưng bày cho đẹp mắt, nếu chùa to Phật lớn, mà cuộc sống trong đó không hoà hợp, đầy hỷ nộ, ích kỷ, khư khư ôm giữ một bản ngã, vì lợi dưỡng và chỉ biết hưởng thụ mà quên đi cuộc đời còn khổ, quần chúng còn cơ cực nghèo đói.
Quên đi mục đích của mình là trên cầu đạo giác ngộ, dưới cứu khổ mọi loài. Phật tử đi chùa cho đông mà ô hợp, thiếu đoàn kết, đầy mê tín dị đoan, buôn thần bán thánh, xem Đức Phật như một vị thần linh, lạy lục cầu cúng, xin xăm bói quẻ cầu danh lợi mà quên đi sự vô thường trôi nổi, nay còn mai mất, quên đi lý tưởng của mình là cứu mình giúp đời.
Thử hỏi đó có phải là sinh hoạt chánh pháp, là sinh lực của Phật giáo không ?
Vì vậy, tu hành không phải là tìm nơi dung thân, ẩn dật cho qua ngày đoạn tháng, mặc cho đạo lực của mình suy vi, đạo pháp mất sinh khí diệu dụn, mặc cho quần chúng lầm than khốn khổ.
Mà tu hành chính là bước vào một cuộc chiến đấu thầm lặng, không kém phần gay cấn và quyết liệt, nhằm đè bẹp, hoá giải những trận cuồng phong trường kỳ dai dẳng của chính Mạt-na (mê chấp) bằng lưỡi gươm trí tuệ Bát-nhã để cho ánh sáng từ bi hỷ xả của chân tâm phát chiếu, để đem lại an lạc tuyệt đối cho thân tâm mình và đem trí tuệ, tình thương sở đắc của mình để phục vụ lợi ích thiết thực cho con người và muôn loài chúng sanh.
Muốn vậy, người tu sĩ Phật giáo đừng sống trong tháp ngà tự mãn (vì ít học thiếu tu) phải luôn thấy tài đức của mình còn kém cỏi. Làm mà không mong đền đáp, đừng làm vì danh lợi. Làm vì lợi đạo ích đời.
Trên kính dưới nhường, không lơi lỏng công việc tu học, phải ý thức thời gian qua nhanh. Không ghen ghét tật đố, không khoe mình chê người. Ai cũng đáng kính đáng trọng, đáng thương và cần sự giúp đỡ dìu dắt. Vì ai cũng có tánh Phật “Tôi không dám khinh người, vì người là Phật sẽ thành”, dù bị đánh mắng nhưng Ngài Thường Bất Khinh Bồ Tát luôn nhắc nhở điều đó mỗi lần gặp bất cứ ai. Ý nghĩ tư tưởng và việc làm luôn hướng về lợi tha vô ngã.
Đừng sợ khó ngại khổ mà phải thường hằng với lý tưởng với chí nguyện là: “Nơi nào đạo pháp cần con đi, chúng sanh cần thì con đến. Không sợ gian lao, chẳng từ khó nhọc” và Luận bảo Vương Tam Muội từng huấn thị:” Ở đời đừng cầu không khó khăn, vì không khó khăn thì kiêu sa nổi dậy. Giao tiếp đừng mong lợi mình, vì lợi mình thì mất đạo nghĩa.”
Kinh nghiệm đạo nghĩa của đạo Phật cho chúng ta một bài học quý giá và thâm thúy rằng: Thời đại nào mà giới tu sĩ được trọng vọng ưu đãi thì danh lợi, hưởng thụ và tranh chấp nổi lên, vì thiếu tu chứng, thiếu sự hành hoạt do tuệ giác dẫn khởi.
Giới tín đồ thiếu tu thân hành thiện, chỉ biết theo hùa tin sảng, thiếu học hỏi, mê chấp vào tà thuyết, mang nặng hình thức, thì đó là thời đại suy tàn của đạo pháp, và ngược lại là thời hưng thịnh của Phật giáo.
Vì vậy, muốn cho đạo Phật trở về với bản chất đích thực vốn có của nó là Đạo cứu khổ độ mê; muốn đạo Phật hiển lộ với hết nguồn sinh lực Phật chất tốt đẹp của nó, chúng ta phải nỗ lực bằng mọi phương cách áp dụng cho được đạo Phật một cách sung mãn của Từ bi trí tuệ và giải thoát cho mỗi người, trong sự sống giữa cuộc đời.
Đừng để mọi người hiểu lầm rằng Phật Pháp Tăng là những bảo vật xa rời cuộc sống, không thật có ích cho cuộc đời. Phải thực hiện tất cả những sinh hoạt sinh động nào có thể chứng minh rằng đạo Phật hiện hữu trong cuộc đời để giải phóng những khổ đau cho loài người.
Người Phật tử lý tưởng là những người có cuộc sống giản dị, đồng lao cộng khổ giữa những đồng đạo, và đồng bào đồng loại, biết mang nguồn sinh lực của chánh pháp bằng chí nguyện Bồ tát đi vào đời và giúp đời.
Đạo Phật là đạo cứu khổ độ sanh chứ không phải chỉ cứu những người đã chết. Đừng biến những phương tiện thiện xảo trong việc giải thoát thành những hình thức xa rời lý tưởng giác ngộ chỉ vì mê tín lợi dụng và lợi dưỡng tệ hơn nữa là biến nó thành thủ đoạn để kiếm sống, thành một nghề nghiệp chính.
Hãy trả đạo Phật về với sự thanh tịnh. Từ bi trí huệ vốn là bản chất của nó. Đừng bao giờ dán vào Đức Phật những nhãn hiệu mà vốn không phải của Ngài. Đừng biến đạo Phật thành những đồ vật trang sức cho mình. Nhất là đừng lợi dụng đạo Phật để ru ngủ, lôi kéo cho những mưu mô thủ đoạn, cho mục đích riêng tư đầy xảo thuật, xảo quyệt thâm độc cho lợi ích riêng.
Đạo Phật là con đường do Đức Phật tuyên bố, truyền đạt, con đường ấy đã được thực nghiệm, khảo sát và thực chứng. Đạo Phật là phương thức sống, lẽ sống, lối sống cao rộng để có được an vui, hạnh phúc chân thực.
Hãy để cho từ bi và trí huệ sáng suốt, cho lòng thương đâm chồi bén rễ trong mọi hoạt động, cho công tác Phật sự hàng ngày của mình. Hãy biến mình thành những người bạn giản dị, khiêm nhượng và thân thiết của tầng lớp thua thiệt, khổ đau.
Đòi hỏi chư Tăng Ni đừng ngồi yên tại chỗ mà phải có cuộc sống thao thức, đi đầu như những chiến sĩ xung trận trong cuộc chiến chống si mê, tham vọng ích kỷ và hưởng thụ tầm thường mà quên đi lý tưởng Phật giáo. Người tại gia cư sĩ phải có niềm tin chân chánh, phải học Phật để thấy biết cái hay, cái đẹp, cái cao quý luôn có sẵn trong kho tàng giáo lý.
Đừng biến những chất liệu sinh động, thực tế của đạo Phật là cứu đời, là từ bi nhân bản, vị tha vô ngã, giải thoát thành một đạo Phật yếm thế bi quan luôn cho đời là khổ, nên chỉ biết trông chờ vào thượng đế, thần linh, như một số người ác ý vu khống. Phải biết rằng Tăng Ni và Phật tử sống ở đâu thì niềm tin yêu và sức sống hiển hiện ở nơi đó.
Muốn phục vụ Đức Phật và muốn phụng sự đạo Phật đúng với bản hoài xuất thế của Ngài thì phải xông pha lăn lộn vào đời, săn sóc người bệnh, giúp đỡ người nghèo, góp phần làm cho xã hội công bằng, văn minh, mọi người sống với nhau như anh em ruột thịt. “Phụng sự chúng sanh là cúng dường chư Phật.”
Đó là cách kỷ niệm có giá trị thiết thực của người con Phật nhân dịp kỷ niệm Thành đạo của Ngài. Và cũng là tâm nguyện, là của cải và sức lực của chúng ta nhằm xây dựng cho thế kỷ 21 được an lạc thanh bình theo lý tưởng Phật giáo.
Chơn Hương
Nguồn : Source link vuonhoaphatgiao.com
Hits: 3