Năng lực hộ trì mạnh mẽ của Chân ngôn Lục tự đại minh


Chân ngôn “OM MANI PADME HUNG” nêu biểu cho tâm đại bi và ân đức gia trì của hết thảy chư Phật, chư Bồ tát, nhất là ân đức gia trì của Quán Tự Tại, đức Phật của lòng bi mẫn. Quán Tự Tại (hay Quan Âm) là hiện thân từ bi của Phật trong hình thức Báo thân, và chân ngôn của Ngài được tôn kính là tinh túy tình yêu thương và lòng bi mẫn vô điều kiện của chư Phật với hữu tình chúng sinh.

Nếu Thượng sư Liên Hoa Sinh là bậc Thượng sư quan trọng nhất trong truyền thống Kim Cương thừa, thì Quán Tự Tại là vị Phật Bảo hộ quan trọng nhất cho hành giả Kim Cương thừa. Chân ngôn Lục Tự đại minh “OM MANI PADME HUNG” nêu biểu cho lòng bi mẫn của Phật đã ăn sâu vào tiềm thức tất cả Phật tử, từ lứa trẻ thơ đến những bậc cao niên được trưởng dưỡng theo truyền thống Kim Cương thừa.

Theo kinh điển Đại thừa, chính đức Quan Âm đã cúng dàng lên đức Phật câu chân ngôn Lục tự Đại Minh này, và đức Phật trở lại giao phó cho ngài Phật sự cao quý là cứu giúp tất cả chúng sinh thoát khỏi các khổ nạn trên con đường tiến đến giác ngộ. Vào lúc ấy, chư thiên tung hoa xuống tán thán ca ngợi các ngài, trái đất chấn động, và không trung vang lên âm thanh OM MANI PADME HUNG SHRI.
 


(Kinh luân cầu nguyện được khắc Lục Tự Đại Minh chân ngôn)

Trong Mật điển dạy rằng: chân ngôn đại bi Lục tự là hiện thân tinh túy tâm giác ngộ của hết thảy chư Phật, tinh túy của Ngũ bộ Phật và tinh túy trì giữ bí mật. Chân ngôn này chứa đựng khẩu truyền tinh túy trong từng chủng tử của sáu chủng tử chân ngôn, là phẩm hạnh Ba la mật tuyệt hảo và là cội nguồn của hết thảy chư Phật, cội nguồn của tất cả thành tựu, đem lại phúc lợi và an bình cho tất cả chúng sinh và là con đường giác ngộ và giải thoát. Chỉ nhờ tu tập trì niệm sáu chữ chân ngôn này (là khẩu giác ngộ siêu việt tinh túy của hết thảy các pháp) hành giả có thể đạt được quả vị Vô học và trở thành bậc giải thoát hướng dẫn chúng sinh. Dù một lần được nghe chân ngôn này vào lúc chết, loài kiến và các động vật sẽ thoát khỏi thân nghiệp báo và tái sinh trong cõi Tịnh độ. Việc trì niệm sáu chữ chân ngôn này, giống như mặt trời tỏa chiếu trên núi tuyết, sẽ khiến tất cả nghiệp xấu và chướng ngại mà hành giả đã tích lũy từ vô thủy trong luân hồi được tịnh hóa và tiêu trừ, đến giây phút lâm chung sẽ được vãng sinh vào cảnh giới Tịnh độ. Thiền định về chân ngôn này hành giả có thể đạt được tam học Văn, Tư, Tu. Tất cả các pháp sẽ xuất hiện là Pháp thân và cánh cửa kho tàng công hạnh lợi ích chúng sinh sẽ được rộng mở. Hành trì chân ngôn này sẽ giúp hành giả không bị trôi dạt nơi cánh cửa tái sinh của lục đạo luân hồi và sẽ đạt được quả vị Ba la mật, đồng thời tịnh hóa tất cả nghiệp nhiễm ô, phiền não đau khổ, các thói quen tập khí  xấu và chuyển hóa tất cả hiện tướng bên ngoài thành cảnh giới Tịnh độ của Tam thân. Bởi vậy, công đức trì tụng chân ngôn Đại bi Lục tự đại minh là không thể đo lường và nghĩ bàn.

 

Chân ngôn bí mật “OM MANI PADME HUNG” là hiện thân tất cả năng lực từ bi, trí tuệ và công hạnh của đức Quan Âm tôn quý, ngài chính là hiện thân bi mẫn của tất cả chư Phật. Chữ chủng tử “OM”, sắc trắng sinh ra từ sự hiển bày của năm trí tuệ Phật, là chủng tử hợp nhất tất cả phẩm hạnh và là tinh túy Thiền định Ba la mật. Chữ này tịnh hóa tất cả phiền não của sự kiêu ngạo, có thể giải thoát được sự đau khổ của chư Thiên là cái chết và sự đọa lạc. Những sự đau khổ trong cõi chư Thiên bất khả phân với thân và công hạnh của Shatakratu, Đức Phật hiện thân cứu độ cõi chư Thiên. Chữ OM là sự phản chiếu của trí tuệ bình đẳng, xuất hiện rất sống động dẫn dắt sáu đạo chúng sinh đến Nam phương Tịnh độ, cảnh giới vinh quang và khiến họ thành tựu được sắc thân Phật Bảo Sinh.

 Chữ “MA”, sắc xanh lục xuất hiện bày tỏ lòng bi mẫn, lòng từ bi vô lượng của Đức Quan Âm tôn quý hướng về tất cả chúng sinh, là chữ chủng tử của công hạnh và là tự tính Nhẫn nhục Ba la mật. Chữ chủng tử này tịnh hóa tất cả nhân và quả phiền não của sự ganh ghét đố kị. Trên thực tế, sự đau khổ của cõi Trời Atula đều phát sinh từ những ghen tỵ, hiếu chiến và sân hận. Những đau khổ này bất khả phân với thân và công hạnh của Vemachit, Đức Phật hiện thân cứu độ loài Atula ganh tỵ. Chữ “MA” là hiện thân của trí tuệ Bất Không Thành Tựu, xuất hiện rất sống động dẫn dắt sáu đạo chúng sinh đến cõi Bắc phương Tịnh độ, nơi mọi công hạnh viên mãn và khiến họ chứng đạt thân Phật Bất Không Thành Tựu.
 


(Bảng luân hồi)

Chữ “NI”, màu vàng xuất hiện từ sự hiển bày của tất cả pháp giới và lòng từ bi vô tác diệu lực của Đức Quan Âm, là chữ chủng tử biến sự luân hồi điên đảo thành pháp giới Niết bàn nhất như, là trí tuệ Kim Cương hợp nhất của thân – khẩu – ý các công hạnh. Chủng tử NI là tự tính Trì giới Ba la mật, chữ này tịnh hóa sự ô nhiễm vô minh nhị nguyên, cùng tất cả nghiệp quả của phiền não trên bốn dòng sông lớn đau khổ của cõi Người là sinh, già, bệnh, chết. Sự đau khổ này bất khả phân với thân và công hạnh của đức Phật Thích Ca Mâu Ni, Đức Phật hiện thân cứu độ loài Người. Chữ NI này tỏa rạng trí tuệ, xuất hiện rất sống động hướng dẫn sáu cõi luân hồi đến cảnh giới Tịnh độ Sắc Cứu Kính Thiên, cõi Kim Cương Giới thanh tịnh hoàn hảo và khiến chúng sinh thành tựu thân Phật thứ sáu Vajradhara (Đức Phật Kim Cương Tổng Trì).

Chữ “PAD”, sắc xanh dương tự hiển bày từ bình đẳng xả vô lượng, lòng từ bi của Đức Quan Âm tôn quý, không phải là lòng từ ái kiến thiên vị, chữ chủng tử này là thân và là tự tính siêu việt của Trí tuệ Ba la mật. Chữ này tịnh hóa tất cả nhân, quả của vô minh phiền não, một cách cụ thể đó là những khổ đau của loài súc sinh ngu si, đần độn và nô lệ. Sự khổ đau này bất khả phân với công hạnh của đức Dhuvasimha, Đức Phật hiện thân cứu độ loài Súc sinh. Chữ chủng tử PAD này tỏa rạng từ Pháp giới thể tánh trí, xuất hiện rất sống động hướng dẫn sáu đạo chúng sinh đến cõi Trung phương Tịnh độ và giúp họ chứng đạt thân Phật Tỳ lư Giá Na.
 

Chữ “ME”, sắc đỏ tự hiển bày từ sự hỷ lạc vô lượng trong lòng từ bi của Đức Quan Âm tôn quý, là tất cả pháp bình đẳng, là chủng tử của khẩu và là tự tính Bố thí Ba la mật. Chữ “ME” này tịnh hóa được tất cả nhân và quả phiền não đau khổ sự đau khổ của loài Ngạ quỷ sống trong đói  khát triền miên. Sự đau khổ này bất khả phân với công hạnh của đức Phật Vajlamukha, đức Phật hiện thân cứu loài quỷ đói. Chữ “ME” toả chiếu trí tuệ Diệu Quan Sát Trí, xuất hiện rất sống động dẫn dắt sáu đạo chúng sinh đến Tây phương Tịnh độ và giúp họ chứng đạt được thân Phật A Di Đà.

Chữ “HUNG” xuất hiện từ sự hiển bày lòng từ bi vô lượng trong tâm từ bi của đức Quan Âm tôn quý. Ngài hộ trì, nâng đỡ tất cả chúng sinh như con đỏ của mình. Đây là chữ chủng tử của tâm, tự tính của Trí tuệ Ba la mật siêu việt. Chữ chủng tử này tịnh hóa tất cả nhân và quả của đau khổ sân giận nhị nguyên, một cách cụ thể đó là sự đau khổ của chúng sinh trong cõi Địa ngục chịu thống khổ đọa đầy bởi hai thái cực nóng và lạnh. Sự đau khổ này bất khả phân với thân và các công hạnh của Dhamaraja, Đức Phật hiện thân cứu độ chúng sinh Địa ngục. Chữ “HUNG” tỏa sáng của trí tuệ của Đại Viên Kính Trí, xuất hiện rất sống động dẫn dắt sáu đạo chúng sinh đến cõi Tịnh độ Đại Hỷ lạc chân thật và giúp họ thành tựu thân Phật A Súc Bệ.


(Thangka Ngũ trí Như Lai)

Như vậy, việc trì tụng chân ngôn không chỉ lợi ích nhỏ hẹp cho bản thân hành giả, mà tất cả năng lượng và công hạnh vô hạn của sáu chữ chủng tử Đại minh Vương chân ngôn này chấn động sáu cõi chúng sinh, từ tận cùng của cõi luân hồi phiền não giải thoát chúng sinh thoát khỏi đau khổ, sợ hãi. Hành giả nên trì tụng Chân ngôn này càng lâu càng tốt trong các thời khóa tu.

Công đức của chân ngôn Lục tự Đại Minh rất phi thường rộng lớn. Đức Phật dùng thần lực có thể đếm hết được số giọt nước mưa trong mười hai năm, nhưng công đức lợi ích của người trì niệm câu chân ngôn Lục Tự thì Đức Phật không thể đếm hết được. Đối với bệnh khổ, hình phạt, những sợ hãi chết bất đắc kỳ tử nếu trì niệm Lục Tự chân ngôn đều được tiêu trừ, thọ mạng tăng trưởng, phúc đức gia tăng, của cải sung mãn, khiến lúc lâm chung không đoạ ác đạo, được sinh cõi nhân thiên, được gặp Phật Pháp công đức lợi ích không thể nghĩ bàn.
 

 






Nguồn : Source link

Hits: 35

Trả lời