Hoa sen là một đặc trưng được nhắc đến trong nhiều kinh điển Phật giáo: Nguyên Thủy và Phát Triển đều có đề cập đến. Một bộ Kinh Đại Thừa trọng đại mà hầu hết Phật tử thuộc Phật giáo Bắc Tông ít nhiều đều có đọc tụng qua, chẳng những đọc tụng thôi mà còn quan tâm nghiên cứu học hỏi nữa, đó là bộ Kinh Diệu Pháp Liên Hoa.
Đức Liên Hoa Sinh tọa trên đài sen.
Khi mùa hạ đến, những khóm sen trong lòng ao đầm lại đâm chồi nẩy nụ. Thân sen hình trụ có gai nhó, phiến lá hình lọng to có gân tỏa tròn, hoa có nhiều lớp cánh. Theo y học cổ truyền, các bộ phận của sen từ lá, cuống, ngó, cánh hoa, đến nhụy hoa, gương, hạt, củ, tim… đều có thể được dùng để chế thành nhiều vị thuốc quý có các tác dụng cầm máu, an thần… chữa được những bệnh như kiết lỵ, mất ngủ… Sen quen thuộc với tuổi thơ của bao người qua những buổi trưa hè tắm mát bên hồ sen tỏa ngát. Còn đối với các bà, các mẹ thì đóa sen luôn chuyên chở thành tâm để dâng lên cúng Phật mỗi độ vào Hạ.
- Hoa sen trong truyền thuyết, nghệ thuật và kiến trúc Phật giáo.
Truyền thuyết của Phật giáo vẫn kể lại, tài vườn Lâm Tì Ni, vào lúc Đản sinh, mỗi bước trong bảy bước đi đầu tiên của Đức Phật đều có hoa sen hiện ra nâng đờ. Khi vừa thành đạo, Ngài phân vân trước con đường giáo hóa chúng sinh. Giáo lý giải thoát tế nhị, thâm sâu, ly dục, vô ngã, đi ngược với tập quán ham muốn và suy tư chấp trước của con người, làm sao để con người có thể tiếp nhận giáo lý ấy? Nhưng sau khi nhìn ngắm hồ sen, qua tuệ nhãn của mình, Đức Phật thấy rằng giữa cuộc đời này có nhiều hạng căn cơ khác nhau. Có căn cơ thấp như khi sen còn trầm luân dưới đáy bùn, có căn cơ cao như khi đã vươn lên thành hoa sen xòe nở đón nhận ánh sáng mặt trời. Tương tự, nếu có những người mãi đắm chìm trong dục vọng thì cũng có những người căn cơ cao có thể đón nhận được giáo lý uyên thâm mà Đức Phật đã chứng ngộ. Do đó, Đức Phật quyết định lên đường chuyển vận bánh xe Chánh pháp.
Khởi nguyên của lịch sử Thiền tông cũng gắn liền với hình ảnh hoa sen qua sự kiện Đức Phật truyền chánh pháp nhãn tạng cho Tôn giả Ma-ha Ca-diếp ở hội Linh Sơn. Truyền thuyết cho rằng một hôm Đức Phật chỉ cầm một cành hoa sen đưa lên trước mặt mọi người. Tất cả đều im lặng không hiểu. Riêng ngài Ma-ha Ca-diếp ngộ được và đáp lại bằng nụ cười hiểu biết. Lúc đó Đức Phật mới nói: “Ta có Chánh pháp nhãn tạng, Niết-bàn diệu tâm, thực tướng vô tướng, vi diệu pháp môn, bất lập văn tự, giáo ngoại biệt truyền nay trao cho Tôn giả Ma-ha Ca-diếp”(Liên đăng hội yến).
Từ lâu, trong kiến trúc Phật giáo, hình ảnh hoa sen đã được đưa vào trang trí ở vị trí chủ đạo. Ngay từ việc chọn thế đất làm chùa, người ta cũng phải lưu ý đến”… bên phải có hình hoa sen tràng phướn, lọng báu…”. Hoa sen cũng nằm trong biểu tượng tòa sen nơi Phật ngự. Tòa sen vừa là bệ đỡ cho pho tượng cao hơn, uy nghi hơn vừa mang ý nghĩa Đức Phật là đấng giác ngộ, đã tìm ra chân lý nên ngồi trên tòa sen để thể hiện sự thanh tịnh tỏa sáng về trí tuệ. Cũng có thể hiểu theo cách giải thích của Mật tông, hình ảnh Đức Phật ngồi trên tòa sen biểu thị Phật tánh nơi một con người đã phát triển rực rỡ. Đài sen thường được tạo thành hai lớp cánh hoặc ba lớp cánh ở dạng nở xòa mềm mại, nét cong uốn khá sắc sảo. Một lớp cánh quay xuống theo bàn tay phải của Phật biểu hiện sự nhu thuận, một lớp cánh quay lên nâng đỡ Đức Phật biểu hiện sự điều phục. Nói chung tượng Phật dù đứng hay ngồi cũng đều ngự trên tòa sen nhiều tầng. Đó là sự biểu hiện của linh thiêng thoát tục, sự nảy nở tinh thần hướng thiện.
Sen còn được thể hiện trên các kiến trúc ở cổng chùa và ở các tháp. Cổng chùa thường là cổng tam quan, nghĩa là cửa giới, cửa định và cửa tuệ. Đó là ranh giới giữa cõi thánh với cõi phàm, lại thể hiện phương châm tu hành của người Phật tử. Vì lẽ đó, những họa tiết trang trí trên trụ cổng thường là cảnh sắc thanh tịnh hay truyện tích nhà Phật, trong đó không thể thiếu họa tiết hoa sen. Hoa sen được đắp nổi trên trụ cột với một hoặc hai lớp cánh cong, thanh mảnh. Trên những ô hộc cổng chùa, họa tiết hoa sen là cả một đóa sen tám cánh rõ ràng. Ba cánh dưới tượng trưng cho Tam bảo Phật-Pháp-Tăng. Năm cánh trên tượng trưng cho năm hạnh của năm vị Phật và Bồ-tát mà người Phật tử muốn hướng tới.
Vào trong không gian chùa, hình ảnh ngôi tháp tạo nên điểm nhấn khá độc đáo. Ở Việt Nam, tháp và chùa là hai công trình độc lập khác hẳn với ngôi tháp ở quê hương Phật giáo Ấn Độ. Đặc biệt, ở Huế đã hình thành hệ thống tháp mộ với lối kiến trúc đặc trưng. Trong đó họa tiết hoa sen được trang trí trên chóp tháp mang ý nghĩa sâu sắc. Ở trường hợp này ngôi tháp chính là tòa cửu phẩm liên hoa.
Hình ảnh hoa sen còn được trang trí trên chuông chùa. Bằng chất liệu đồng, những họa tiết hoa văn trên thân chuông được thể hiện rất tinh xảo. Đặc biệt, hình ảnh hoa sen được trang trí tỉ mỉ trên vai và miệng chuông khá thẩm mỹ. Cánh sen thường đan lẫn tua quấn, hoặc được cách điệu bằng những đường cong như lượn sóng…
Nói tóm lại,trong nghệ thuật và kiến trúc Phật giáo, ta thấy người thể hiện luôn tìm cách đưa hình ảnh hoa sen vào với ý hướng biểu thị những chiều sâu ý nghĩa của hoa sen. Vì thế mà có người cho rằng đạo Phật là đạo “Hoa sen”.
- Ý nghĩa biểu tượng của hoa sen trong văn hóa tâm linh Phật giáo.
Thật ra, chẳng riêng gì giới Phật tử mới quý trọng hoa sen. Từ 5.000 năm trước, người Ai Cập cổ đại đã thể hiện lòng sùng kính đối với hoa sen và dùng sen trong nhiều nghi thức tế lễ. Dường như từ Ai Cập, trước hết sen đã được phổ biến ra nhiều vùng khác như Ba Tư, Ấn Độ, và Trung Quốc rồi sau đó được đưa đến trồng ở các địa phương khác nữa, trong đó có khu vực Đông Dương.
Tại Ấn Độ, hình ảnh hoa sen mọc trên bùn đã được coi là biểu tượng của đạo đức và thể hiện cho sức mạnh tinh thần. Các văn bản cổ Ấn Độ đã nhắc tới hoa sen tám cánh như một biểu tượng của sự hài hòa trong vũ trụ. Là một tôn giáo sử dụng nhiểu ngôn ngữ biểu trưng và là một hệ tư tưởng cách mạng so với tư tưởng Bà-la-môn, Phật giáo đã phát triển nhiều ý nghĩa biểu tượng của hoa sen. Sen được coi là mang nhiều đức tính gần gũi với cuộc đời của bậc giác ngộ, nói lên được những lời dạy của Đức Phật, cho nên được coi là vi diệu.
Sen ẩn sâu dưới bùn xa lìa trần cấu gọi là u vi, giống như cuộc đời của người tu hành luôn tránh xa những điều trần tục, cuộc đời ấy là sự dâng hiến âm thầm, là nỗ lực vươn đến sự giải thoát chứ không khoe khoang. Quả thật, đối với bông sen, một nửa cuộc đời của nó nào ai biết được, nhưng nó vẫn âm thầm tự mình vươn lên khỏi mặt nước u tối để tòa hương.
Sen khiêm tốn không khoe tài đua sắc với các loài hoa khác trên đồng nội gọi là ẩn vi, thể hiện sự khiêm nhường như cuộc đời tu hành của người Phật tử. Họ không đua chen danh lợi, những tiếng tăm hay của cải vật chất chỉ là phù du. Và vì lẽ đó họ chọn những nơi hẻo lánh để tỉnh tâm tu Phật.
Lá sen ngửa rộng lên trời với những thớ mạch như nét vẽ của thiên nhiên gọi là tế vi. Tất cả mặt phải của lá đều hướng lên tượng trưng cho sự thành tâm. Tương ứng, người Phật tử có nhiều pháp môn tu tập, đều quy về một hướng giải thoát. Một điều đáng quý nữa ở chỗ tuy lá sen chưa phải là hoa, nó cũng có thể tô điểm cho hồ sen. Tương tự, với tâm hạnh của người Phật tử, dù họ chưa chứng ngộ đạo giải thoát, lòng từ bi và thái độ dũng cảm sống một đời trung thức của họ cũng đủ giúp ích cho cuộc đời và cho xã hội.
Mọi thành phần của sen đều có công dụng, hoặc để chữa bệnh, hoặc để ăn, được gọi là tinh vi, cũng giống như thân, khẩu, ý của một người Phật tử biết thúc liễm thân tâm luôn luôn có công dụng cứu người giúp đời.
Sen không sớm nở tối tàn, mà sáng thì nở để đến đêm lại búp; được gọi là ẩn hiển tùy nghi diệu. Người Phật tử khi cần thì ra mặt, khi không cần thì lẳng lặng ẩn cư.
Sen chẳng vì mùa xuân mà khoe hương sắc, chẳng theo mùa thu mà úa tàn, mỗi năm mỗi mang một thân một thân mới, một hoa mới; được gọi là hàn thử bất thiên diệu. Người Phật tử cũng vậy, không vì gặp được thuận duyên thì hăng hái đến khi đối mặt với trở ngại thì bải hoải buông xuôi, mà luôn luôn tinh tấn hướng tới con đường giải thoát trong lúc vẫn dũng mãnh cứu người giúp đời. Cuộc đời sen lại còn như là một minh họa cho thuyết luân hồi của nhà Phật. Dưới mặt nước trầm mặc sau mùa sen tàn lụi ta tưởng chừng chôn dấu đời sen mãi mãi. Nhưng không, dưới ấy không có gì mất đi, chỉ là sự chuẩn bị cho một kiếp mới hiển hiện. Sen tàn, sen nở, sen tàn..cũng chỉ là vòng luân hồi thường tình như quan niệm Phật giáo bấy lâu.
Sen có hoa quây quần hạt, hạt xúm xít trong hoa gọi là tổng biệt tề chương diệu; biểu thị cho lối sống của Tăng già luôn gắn bó với nhau trong tinh thần lục hòa mà từng cá nhân một vẫn tự chủ. Sen vừa là hoa vừa là quả gọi là nhân quả đồng thời diệu, là minh họa khác cho thuyết nhân quả của Phật giáo. Nhờ tất cả các đức tính cao quý đó mà sen gần gũi Đức Phật, biểu thị đước ý Phật.
Trong Phật giáo, hoa sen biểu trưng cho những giá trị đạo đức, sự thuần khiết và thánh thiện. Hoa sen còn biểu trưng cho trí tuệ siêu việt, thể hiện niềm khao khát giác ngộ. Trong mật điển có thần chú Lục tự Đại minh là tâm chú của ngài Quán Thế Âm Bồ tát: “Om Mani Padme Hum” (Án Ma Ni Bát Di Hồng). Trong đó, Padme tiếng Phạn có nghĩa là hoa sen – biểu tượng cho trí tuệ siêu việt, trí tuệ chứng ngộ tự nhiên vượt ra ngoài vòng vây hãm của nhị nguyên luận.
Trong Nhiếp đại thừa luận, hoa sen có bốn đức: hương (thơm), tịnh (sạch), nhu nhuyến (mềm mại) và đáng yêu. Trong Hoa Nghiêm kinh thám huyền ký, hoa sen có mười đặc tính: 1. Vi diệu; 2. Khai phụ; 3. Đoan chính; 4. Phân minh; 5. Thích duyệt; 6. Xảo thành; 7. Quang tịnh; 8. Trang sức; 9. Dẫn quả; 10. Bất nhiễm.
Hoa sen có 8 đặc tính tuyệt diệu sau đây: Không nhiễm; Trừng thanh; Kiên nhẫn; Viên dung; Thanh lương; Hành trực; Ngẩu không; Bồng thực.
Đặc tính không nhiễm
Hoa sen dù mọc lên từ bùn nhơ, nhưng tính chất của nó vẫn không mang mùi hôi của bùn. Ca dao Việt Nam có bài nói về đặc tính không cấu nhiễm này:
Trong đầm gì đẹp bằng sen
Lá xanh bông trắng lại chen nhụy vàng
Nhụy vàng bông trắng lá xanh
Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn.
Dù nằm trong bùn trải qua nhiều ngày tháng, nhưng hoa sen vẫn chờ ngày vươn mình lên khỏi mặt nước để nở ra và rồi khoe hương khoe sắc, ngát tỏa hương thơm cùng khắp đất trời.
Ta thấy giữa bùn và hoa không dính dáng gì nhau. Bùn là tượng trưng cho phiền não nhiễm ô, còn hoa sen là tiêu biểu cho thanh tịnh. Điều này, để nói lên cái ý nghĩa thâm trầm là chư Phật Bồ tát ra đời, các Ngài vẫn sinh hoạt trong dòng đời, nhưng các Ngài không bao giờ bị cấu nhiễm. Cư trần bất nhiễm trần là thế.
Ngược lại, chúng ta thì có khác. Chúng ta đụng đâu nhiễm đó. Mặc dù trong mỗi người chúng ta đều sẵn có hoa sen bất cấu nhiễm này. Hoa sen là để tiêu biểu ẩn dụ cho mỗi người chúng ta ai ai cũng sẵn có Phật tánh. Mà Phật tánh vốn không cấu nhiễm, vì bản chất của nó thanh tịnh sáng suốt. Nhưng vì chúng ta theo dòng vô minh vọng nghiệp mà tạo ra nhiều tội lỗi để rồi bị dính mắc trong trần lao ô nhiễm. Đó là đặc tính thứ nhất.
Tánh viên dung
Đức tính này, đặc biệt chỉ có hoa sen mới có. Vì hoa sen có những cánh hoa bao bọc gương sen tròn trịa. Đây là tiêu biểu cho tánh viên giác của mỗi chúng sanh sẵn có. Tánh viên giác vượt ngoài phạm trù nhân duyên đối đãi.
Hoa sen từ lúc nở cho đến lúc tàn, không bị loài ong bướm làm hư hoại, khác với các loài hoa khác bị ong bướm tìm đến bu đậu và hút lấy nhụy. Điều này, nói lên tánh viên giác tròn sáng vô ngại, không bị cảnh nào có thể làm tiêu hoại ô nhiễm nó được.
Trừng thanh
Trừng thanh là lóng trong. Điểm đặc biệt là chỗ nào có hoa sen mọc, thì chỗ đó nước không bao giờ đục. Do đó, khi chúng ta hái hoa sen, thì khỏi cần phải rửa, bởi hoa sen không dính bùn nhơ. Bởi vì bản chất của nó mang sẵn tính trừng thanh. Điều này để nói lên cái ý nghĩa biểu trưng rằng, nơi nào có chư Phật, Bồ tát ra đời, thì nơi đó sẽ đem lại cho chúng sanh có sự an ổn mát dịu.
Ngược lại, nơi nào có những phần tử xấu ác bất lương, thì nơi đó chắc chắn là sẽ xảy ra lắm điều phiền phức họa hại bất an. Đặc tính trừng thanh này, các loài hoa khác không có. Đặc tánh này, nếu chúng ta khéo biết áp dụng vào đời sống thực tế hằng ngày, thì cũng rất là lợi ích. Vì sao? Vì có thường xuyên lóng lặng cấu uế phiền não thì nước hồ tâm của chúng ta mới trong sạch thanh lương được. Mà phiền não không có, tất nhiên là chúng ta sẽ có an lạc hạnh phúc ngay.
Hành trực
Hành trực là chỉ cho thân ngay thẳng. Không có loài hoa nào mọc lên mà có thân hình (cọng sen) ngay thẳng như hoa sen. Điều này, để tiêu biểu: “người tu hành cần phải sửa thân và tâm cho ngay thẳng”.
Trong Kinh Duy Ma Cật có câu nói: “Trực tâm tức thị đạo tràng”. Dù sống trong bất cứ hoàn cảnh thuận nghịch nào hay ở bất cứ nơi đâu mà tâm ta ngay thẳng, tức không khởi nghĩ hai bên: có, không, phải trái v.v…dù là ở nơi giữa chợ búa, thì ta cũng biến nơi đó thành đạo tràng. Đạo tràng là nơi thanh tịnh. Như vậy, đức tánh ngay thẳng là đức tánh mà người Phật tử cần phải áp dụng hành trì trong đời sống thực tế. Có thế, thì chúng ta mới có sự lợi lạc, như hoa sen mọc từ bùn thẳng lên và rồi khoe hương khoe sắc vậy.
Kiên nhẫn
Như chúng ta đã biết, hoa sen là loại túc căn thảo, tức một loại có nảy mầm từ rễ củ của năm trước. Hoa sen mang đặc tính kiên nhẫn rất là kỳ thú. Rễ củ của nó nằm trong bùn thật lâu để chờ đợi khi hội tụ đầy đủ nhân duyên là nó sẽ nảy mầm ngay. Sự chờ đợi đó, tức là đức tính kiên nhẫn.
Đức tính này, rất cần thiết trong đời sống hằng ngày của chúng ta. Người nào có đức tính kiên nhẫn này, thì người đó khi ra làm việc gì chắc chắn sẽ dễ đạt được thành công. Bằng ngược lại, thì khó mong đạt được.
Có nhiều khi, vì một việc rất nhỏ nhặt nào đó xảy ra mà chúng ta cũng không đủ sức kiên nhẫn để vượt qua, thì đừng nói chi đến việc trọng đại. Việc đời cũng như việc đạo muốn có kết quả tốt đẹp, tất nhiên, chúng ta phải có đức tánh kiên nhẫn nầy. Nếu không, thì khó mà thành công trong bất cứ lĩnh vực nào. Cho nên, đức tính kiên nhẫn là một đức tánh tối thiết yếu trong đời sống hướng thượng thăng hoa, khác nào hoa sen đã kiên nhẫn vươn lên tìm sự sống cao đẹp vậy.
Thanh lương
Thông thường các loài hoa thi nhau đua nở vào mùa Xuân, vì mùa Xuân là mùa mát mẻ. Ngược lại, chúng không thể nở hoa vào mùa Thu hay mùa Ðông. Vì mùa Thu là mùa hay có mưa phùn còn mùa Ðông thì giá lạnh. Do đó, không thích hợp cho các loài hoa khai hoa nở nhụy.
Khác hơn các loài hoa khác, hoa sen lại nở vào mùa Hạ, đây là mùa nóng bức. Điều này, để nói lên ý nghĩa chư Phật Bồ tát ra đời trong cõi đời ngũ trược, chúng sanh đầy đầy phiền não, bức bách khó chịu, các Ngài mang lại nước cam lồ từ bi để tưới tẩm làm mát dịu cho mọi người.
Giữa mùa hè oi ả nóng bức, nhưng hoa sen vẫn bất chấp sự nóng bức đó mà vẫn vươn mình mọc lên, để nói lên rằng, dù chúng ta đang sống trong nhà lửa tam giới đang bị thiêu đốt bởi những thứ lửa dục vọng tham sân si…nhưng chúng ta vẫn cố gắng bền tâm nhẫn nại chịu đựng để khắc phục vượt qua. Đồng thời dùng nước chánh pháp để tưới tẩm làm mát dịu tâm hồn.
Ngẩu không
Hoa sen tuy thân ngay thẳng, nhưng trong ruột thì trống rỗng. Điểm đặc biệt này để nói lên một ý nghĩa rất thâm trầm là người tu hành cần phải có tánh hỷ xả. Hai đức tính này Bồ tát luôn thực hiện. Nói đến hạnh hỷ xả, chúng ta liền nghĩ ngay đến Bồ tát Di Lặc.
Đức Di Lặc ngồi trơ bụng đá
Bao bụi trần bám đã rồi rơi
Mặc cho thế cuộc đầy vơi
Dửng dưng như một nụ cười an nhiên.
Đối với Bồ tát Di Lặc mọi việc đến và đi, tất cả chỉ là một nụ cười an nhiên. Một nụ cười khi nhìn thấy:
Mắt trông thấy sắc thì thôi
Tai nghe thấy tiếng nghe rồi thì không
Trơ trơ lẳng lặng cõi lòng
Nhẹ nhàng ta bước trong vòng trần ai.
Bồng thực
Các loài hoa khác, khi bông tàn mới kết nụ thành trái và có hột. Ngược lại, hoa sen thì không như thế. Hoa sen nở ra thì đã có gương có hột sẵn rồi. Đó là nhân quả đồng thời. Điều này, nói lên một triết lý sống, nhân quả không bao giờ sai khác. Nhân quả như hình với bóng, hình thế nào, thì bóng như thế đó.
Thế nên, muốn cho đời sống được an ổn tươi mát thơm tho như hoa sen, thì chúng ta nên nhớ đến lý nhân quả mà hành xử tu nhân tích đức, làm lợi ích cho mình và người thì chắc chắn chúng ta sẽ có hạnh phúc an lạc ngay trong đời sống hiện thực, không cần phải tốn công hao sức tìm nơi đâu xa xôi. Niết bàn hay đau khổ rốt lại ở nơi tâm chúng ta mà thôi.
Trên đây, chúng tôi chỉ nêu ra trình bày một cách khái yếu về những đặc tính của hoa sen mà thôi. Thật ra, ý nghĩa của hoa sen rất thâm thúy, không thể nào giải thích hết được. Tuy nhiên, qua 8 đặc tính tiêu biểu trên, thiết nghĩ, cũng tạm đủ để chúng ta hiểu được phần nào về triết lý và hình ảnh hoa sen biểu trưng trong Phật giáo.
Bài viết được tổng hợp từ:
- Nguyễn Đăng Duy (2001), Văn hóa tâm linh, NXB Văn hóa thông tin.
- Pháp sư Tuệ Luật (Minh Đức dịch) (2006), Phật giáo với nhân sinh, NXB Tôn giáo, Hà Nội.
- Hà Văn Tấn (1992), Chùa Việt Nam, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.
- Báo giác ngộ online (2018)
Nguồn : Source link
Hits: 161