Đại Thế Chí
Bách khoa toàn thư mở WikipediaBước tới điều hướngBước tới tìm kiếm
Bài viết này cần thêm chú thích nguồn gốc để kiểm chứng thông tin. Mời bạn giúp hoàn thiện bài viết này bằng cách bổ sung chú thích tới các nguồn đáng tin cậy. Các nội dung không có nguồn có thể bị nghi ngờ và xóa bỏ. |
Mahāsthāmaprāpta | |
Tranh Đại Thế Chí Bồ Tát vào thế kỷ 13, Trung Quốc. | |
Tên tiếng Trung | |
---|---|
Phồn thể | 大勢至菩薩 Dàshìzhì Púsa |
Giản thể | 大势至菩萨 |
hiệnPhiên âm | |
hiệnPhiên âm | |
Tên tiếng Việt | |
Chữ Quốc ngữ | Đại Thế Chí Bồ tát |
Tên tiếng Triều Tiên | |
Hangul | 대세지 보살 Daeseji Bosal |
Tên tiếng Nhật | |
Kanji | 大勢至菩薩 Daiseishi Bosatsu |
hiệnChuyển tự |
Tượng Đại Thế Chí Bồ tát, Trung Quốc.
Đại Thế Chí Bồ Tát, chữ Hán: 大勢至菩薩 hay Đắc Đại Thế Bồ Tát (chữ Hán: 得大勢菩薩),tiếng Phạn: महास्थामप्राप्त/ Mahāsthāmaprāpta, là một vị đại Bồ tát thể hiện ánh sáng trí tuệ trong Phật giáo Đại Thừa, là bậc đại sĩ trợ tuyên chánh pháp cho Đức Phật A Di Đà ở Tây phương Cực Lạc.
Mục lục
Hồng danh và tiền thân[sửa | sửa mã nguồn]
Đại Thế Chí Bồ Tát còn được gọi là Đắc Đại Thế Bồ tát, Đại Tinh Tấn Bồ tát, Vô Biên Quang Bồ tát, Linh Cát Bồ tát,… hay vắn tắt là Thế Chí.
Ngài là vị Bồ tát thường dùng ánh sáng trí tuệ chiếu khắp mọi loài, khiến chúng sanh mười phương thế giới thoát khổ đau, thành tựu đạo quả Bồ đề. Đắc Đại Thế Bồ tát vì Bồ tát có hạnh nguyện đại hùng đại lực đại từ bi, dùng hạnh nguyện này để trụ trong Ta bà thế giới, điều phục và tiếp độ chúng sanh cang cường.
Trong Kinh Đại Bi Liên Hoa (Kinh Bi Hoa), tiền thân của Đại Thế Chí Bồ Tát là Ni-ma vương tử, người con thứ hai của Chuyển luân vương Vô Chánh Niệm (sau này là Đức Phật A Di Đà). Bồ tát được Phật Bảo Tạng thọ ký rằng, trong đời vị lai vô lượng vô biên kiếp, sau khi Đức Phật Biến Xuất Nhất Thiết Công Đức Sơn Vương Như Lai nhập Niết-bàn (tức Quán Thế Âm Bồ Tát thành Phật trong đời vị lai), Đại Thế Chí Bồ tát sẽ thay ngài tiếp quản chánh pháp và thế giới phương tây, thành Phật hiệu là Thiện Trụ Trân Bảo Sơn Vương Như Lai, Ứng cúng, Chánh biến tri, Minh hạnh túc, Thiện thệ, Thế gian giải, Vô thượng sĩ, Điều ngự trượng phu, Thiên nhân sư, Phật, Thế Tôn.
Biểu tượng và hình ảnh[sửa | sửa mã nguồn]
Kinh Quán Thế Âm Bồ tát thụ kí (Đại 12, 353 hạ) nói: “Tây phương cách đây trăm nghìn ức cõi; có Phật hiệu là A Di Đà Như Lai, Ứng cúng, Chính biến tri, hiện đang nói pháp. Đức Phật ấy có 2 vị Bồ tát, một là Quán Thế Âm, hai là Đại Thế Chí”. Đức Phật A Di Đà là Giáo chủ của thế giới Cực Lạc phương tây, Bồ tát Quán Thế Âm và Bồ tát Đại Thế Chí là 2 vị thị giả giúp Phật A Di Đà trong việc giáo hóa chúng sinh, vì thế được gọi là Tây Phương Tam Thánh.
Trong bức tranh vẽ “Tây Phương Tam Thánh”, Bồ Tát Ðại Thế Chí cầm cành hoa sen màu xanh đứng bên tay phải Ðức Phật A Di Ðà, bên tay trái là Bồ Tát Quán Thế Âm cầm nhành dương liễu và bình tịnh thủy.
Theo kinh Quán Vô Lượng Thọ, Bồ tát thân cao tám mươi muôn ức na do tha do tuần, da màu vàng tử kim, trong thiên quang của Bồ tát có 500 hoa báu, mỗi một hoa báu có 500 đài báu, trong mỗi đài đều hiện quốc độ tịnh diệu của mười phương chư Phật, nhục kế như hoa Bát đầu ma, giữa nhục kế có một bình báu, khác hình tượng Quan Thế Âm Bồ tát.
Theo phẩm A-lợi-đa-la-đà-la-ni-a-lỗ-lực, hai Bồ tát đều toàn thân màu vàng, phóng hào quang trắng, tay phải cầm phất trần trắng, tay trái cầm hoa sen, thân hình Bồ tát Đại Thế Chí nhỏ hơn Quán Thế Âm.
Còn trong Hiện đồ mạn đồ la thai tạng giới của Mật tông, ngài là vị thứ hai ở phương trên trong viện Quan Âm, ngồi trên hoa sen đỏ, thân màu trắng, tay trái cầm hoa sen mới nở, tay phải co ba ngón giữa đặt trước ngực. Mật hiệu là Trì luân kim cương, hình Tam muội da là hoa sen mới nở.
Theo Wiki
Bồ Tát Đại Thế Chí là vị Bồ tát thường dùng ánh sáng trí tuệ chiếu khắp mọi loài, khiến chúng sanh mười phương thế giới thoát khổ đau, thành tựu đạo quả Bồ đề.
> Phật, Bồ Tát là gì? Có bao nhiêu vị Phật, Bồ Tát?
Lược sử và ý nghĩa Bồ Tát Đại Thế Chí
Thửa xa xưa ở thế giới Vô Lượng Đức Tựu An Lạc có Đức Phật hiệu Kim Quang Sư Tử Du Hỷ thị hiện để hóa độ chúng sanh. Lúc bấy giờ trong nước đó có ông vua hiệu là Oai Đức chuyên dùng chánh pháp để trị dân nên được gọi là Pháp Vương. Vị vua này rất kính thờ Phật Kim Quang Sư Tử Du Hỷ. Một hôm, nhà vua ngồi tọa thiền Tam muội đến khi xuất định thì thấy hai hoa sen mọc ở hai bên tả hữu và trong mỗi hoa sen có mỗi đồng tử. Nhà vua cùng hai đồng tử cùng đến chổ Phật để nghe pháp. Vua Oai Đức đó là tiền thân của Phật Thích Ca và hai vị đồng tử chính là Bồ tát Quán Thế Âm và Bồ Tát Đại Thế Chí.
Lại một thủa khác, Bồ Tát Đại Thế Chí khi chưa xuất gia học đạo, thì Ngài chính là con thứ hai của vua Vô Tránh Niệm tên là Ni Ma Thái Tử. Ngài vâng lời phụ vương phát tâm cúng dường Phật Bảo Tạng và phát nguyện độ sanh. Những hạnh tu mà Ngài chú tâm là:
– Ba nghiệp của thân: Không sát hại chúng sanh, không trộm cướp của người và không tà dâm.
– Bốn nghiệp của miệng: Không nói láo xược, không nói lời thêu dệt, không nói lời hai chiều và không nói lời độc ác.
– Ba nghiệp của ý: Không tham nhiễm danh lợi và sắc dục, không hờn giận oán cừu và không si mê ám muội, cùng các món hạnh tu thanh tịnh mà hồi hướng về Đạo Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác và cầu đặng một thế giới trang nghiêm đẹp đẽ, như cõi Phật Biến Xuất Nhất Thiết Công Đức Quang Minh Sang Vương Như Lai.
Trong khi đó, thì Ngài cũng còn tu Bồ tát Đạo, làm việc Phật sự, dạy dỗ mọi người và làm những sự lợi ích cho các loài hữu tình để mà cầu mau đặng hoàn mãn các món công hạnh đã thệ nguyện. Đến chừng Phật Biến Xuất Nhứt Thiết Công Đức Quang Minh Sang Vương Như Lai diệt độ rồi, thì ngài sẽ thành đạo, kế ngôi Phật truyền chánh pháp mà hóa độ chúng sinh.
Phật Bảo Tạng nghe mấy lời vủa Ni Ma Thái tử nguyện ở trên, liền thọ ký rằng: “Theo như lòng của ngươi muốn thành tựu một thế giới rộng lớn trang nghiêm, thì qua đời vị lai, trải hằng hà sa kiếp, sau nầy làm Bồ tát hiệu là Đại Thế Chí, phụ tá bên cạnh đức Phật A Di Đà ở cõi Cực Lạc. Và, sau nữa ngươi sẽ thành Phật hiệu là “Thiên Trụ Công Đức Bảo Vương” ở thế giới Đại Thế”.
Theo kinh Quán Vô Lượng Thọ thì Đại Thế Chí có nghĩa là dùng ánh sáng trí tuệ soi khắp mười phương, khiến chúng sanh trong ba đường ác được giải thoát và được năng lực vô thượng.
Ngài đã dùng pháp môn Niệm Phật Tam muộI để tự tu và hóa đô chúng sanh. Trong hội Lăng Nghiêm, Đức Phật Thích Ca hỏi chỗ sở tu sở đắc của các vị A–la-hán và Bồ tát, thì ngài trả lời rằng: “Thời Đức Phật Siêu Nhật Nguyệt Quang dạy con niệm Phật Tam muội…Nhơn địa xưa của con dùng tâm niệm Phật nhập vô sanh nhẫn. Nay ở thế gian nầy, con tiếp độ người niệm Phật về Tịnh độ”. Đức Quán Thế Âm dùng lòng từ bi lắng nghe tiếng đau khổ đến cứu độ chúng sinh, còn Bồ Tát Đại Thế Chí dùng ánh sáng trí tuệ soi đường cho chúng sinh được giải thoát.
Hình tượng Bồ Tát Đại Thế Chí
Ngài đứng bên phải của Đức Phật A Di Đà, đeo chuỗi anh lạc và tay cầm hoa sen xanh. Hoa sen xanh tượng trưng cho thanh tịnh, tức là đoạn đức. Dùng trí tuệ dứt sạch tất cả phiền não nhiễm ô, cứu vớt chúng sinh lên khỏi vũng bùn ác trược.
Muốn cứu vớt chúng sanh về cõi Tịnh độ, trước phải dạy họ dứt sạch phiền não uế ô. Vì thế, danh hiệu Ngài đã nói lên ý nghĩa vận dụng ánh sáng trí tuệ chiếu soi cho chúng sinh thấy rõ những ô nhiễm của mình và đồng thời cũng giúp cho họ có sức mạnh đoạn trừ những nhiễm ô nầy để có thể đưa họ về cõi Tịnh độ.
Trong mỗi vị Phật đều có đủ hai đức tánh quan trọng là từ bi và trí tuệ. Nếu thiếu một trong hai đức tánh này, thì sẽ không bao giờ thành Phật.
Đức Phật A Di Đà thì cũng thế, Ngài có hai vị thị giả là Bồ Tát Quán Thế Âm bên trái và Bồ Tát Đại Thế Chí bên phải. Bồ Tát Quán Thế Âm thì tượng trưng cho từ bi, còn Bồ Tát Đại Thế Chí thì tượng trưng cho trí tuệ viên mãn. Trí tuệ thì lúc nào cũng dẫn đầu bởi vì có trí tuệ viên mãn thì từ bi mới thành tựu được. Đức Phật Thích Ca cũng có hai vị Bồ tát phụ tá là Văn Thù và Phổ Hiền. Ngài Văn Thù Sư Lợi tượng trưng cho trí tuệ còn ngài Phổ Hiền là đại hạnh từ bi.
Minh Chính (Tổng Hợp)
https://phatgiao.org.vn/bo-tat-dai-the-chi-trong-phat-giao-la-ai-d39629.html
Video sự tích Ngài Đại Thế Chí Bồ Tát ở 1 nguồn youtube
Hits: 432