Công Chúa Diệu Thiện ( Thanh Ngân vai Diệu Thiện)

Truyền thuyết về phật Quan Âm

 Truyền thuyết về phật Quan Âm

Truyền thuyết về phật Quan Âm

Truyện kể rằng, vào thời vua Diệu Trang ở bên Ấn Độ, vua có 3 người con gái rất xinh đẹp. Hai trong số đó đã yên bề gia thất, còn Diệu Thiện – người con gái thứ 3 của vua nhất định không lấy chồng, một lòng quyết chí tu hành. Người công chúa đó chính là Phật Quan Âm sau này.Công chúa Diệu Thiện không những là tuyệt sắc giai nhân mà còn có tấm lòng thiện lương, tính cách điềm tĩnh nhẹ nhàng và thông minh sắc sảo. Tuy nhiên, nàng đã quyết tâm buông bỏ mọi vinh hoa phú quý chốn cung thành…Không chỉ ở Đông Nam Á, mà tại các nước phương Tây và nhiều nơi khác trên thế giới đều có rất nhiều người tín phụng Quán Thế Âm Bồ Tát. Dân gian tin rằng Quán Thế Âm Bồ Tát là hóa thân của sự từ bi, là người luôn cứu vớt cuộc sống khổ nạn của những thiện nam tín nữ.Bởi vậy, khi nhắc tới Quán Thế Âm Bồ Tát, người ta luôn tôn kính gọi bằng cái tên “Quán Thế Âm Bồ Tát cứu khổ cứu nạn”.Công chúa Diệu Thiện quyết tâm tu hành, Diệu Trang Vương cố ý gây khó dễ

Công chúa Diệu Thiện và Quán Thế Âm Bồ Tát có mối quan hệ như thế nào? Có người nói rằng công chúa Diệu Thiện là do Quán Thế Âm Bồ Tát chuyển sinh, lại có người nói công chúa Diệu Thiện trải qua quá trình tu luyện gian nan, cuối cùng đắc chính quả trở thành Quán Thế Âm Bồ Tát.

Câu chuyện đằng sau đó là gì? Trước tiên, chúng ta hãy cùng ngược dòng lịch sử trở về thời kỳ Nam Bắc triều cách đây một nghìn năm trăm năm, để tìm hiểu về những dấu tích cũng như thân thế của người công chúa nổi tiếng này.

Tương truyền, vào thời Nam Bắc triều (420-589), vua Diệu Trang Vương có ba người con gái như hoa như ngọc lần lượt là Diệu Nhan, Diệu Âm và Diệu Thiện. Công chúa thứ ba Diệu Thiện vốn rất thông minh và được vua cha yêu thương nhất mực. Nàng không những là tuyệt sắc giai nhân mà còn có tấm lòng thiện lương, tính cách điềm tĩnh nhẹ nhàng và thông minh nhanh nhẹn.

Khi công chúa đến độ tuổi kết hôn, Diệu Trang Vương đích thân lựa chọn cho nàng những bậc anh tài tuấn tú, nhưng công chúa hết lần này tới lần khác đều một mực chối từ. Bởi Diệu Thiện không màng vinh hoa và hạnh phúc nơi thế gian trần tục, mà chỉ một lòng nhất tâm tín Phật và mong muốn tu luyện để cứu độ chúng sinh. Bởi vậy, nàng kiên quyết không chịu kết hôn.Công chúa Diệu Thiện không màng vinh hoa và hạnh phúc nơi thế gian trần tục, nàng chỉ một lòng nhất tâm tín Phật và mong muốn tu hành. 

Quyết định của công chúa khiến Diệu Trang Vương, một vị vua thô bạo và ngạo mạn vô cùng phẫn nộ. Ông không tin rằng cô con gái bé bỏng vốn sống trong nhung lụa có thể thật sự chịu khổ giữa chốn trần gian, thế nên ông đã đưa ra lời thách đố: “Bây giờ đang là tháng Chạp, nếu con có thể trồng hoa tươi nở khắp trên núi, ta sẽ cho phép con tu hành”.

Tháng Chạp với thời tiết giá lạnh thấu xương, tuyết rơi phủ kín mặt đất, đó cũng là khoảng thời gian người người đều háo hức chào đón năm mới. Còn công chúa Diệu Thiện phải một mình lên núi nơi tuyết trắng phủ đầy, vừa trồng từng cây non vừa thành tâm niệm Phật. Và không biết từ lúc nào, tất cả những cây non đã được phủ đầy trên ngọn núi tuyết.

Khi quay đầu nhìn lại, công chúa phát hiện tất cả đang nở rộ những đoá hoa rực rỡ. Từ đó về sau, người dân quanh vùng gọi ngọn núi nơi công chúa trồng hoa bằng cái tên Tháp Hoa Lĩnh và lưu truyền mãi cho tới ngày nay.

Diệu Trang Vương tức giận đốt chùa, mãnh hổ cứu nguy cho Diệu Thiện

Thế là công chúa Diệu Thiện đã được toại nguyện, nàng rời khỏi cung vua, tới tu hành tại chùa Bạch Tước, nằm dưới chân núi phía Đông của  chùa “Đại Hương Sơn” tại Diệu Châu, Thiểm Tây. Nàng không hề bước chân ra khỏi cửa, một lòng thành tâm lễ Phật. Thế nhưng, những người thành kính và quyết tâm tu hành đều phải trải qua ma nạn thử thách, và công chúa cũng vậy.

Diệu Thiện thuần khiết trong sáng là vậy, nhưng vẫn bị bôi nhọ bởi những lời đồn thổi ác ý của một số tên lưu manh vô lại. Lời đồn lưu truyền khắp bốn phương khiến Diệu Trang Vương cảm thấy mất mặt. Vua vô cùng phẫn nộ và cho rằng đó là tội không thể dung thứ, nên đã hạ lệnh cho người tới đốt chùa Bạch Tước nơi công chúa tu hành.

Chùa Bạch Tước chìm trong khói lửa ngút trời, cuối cùng chỉ còn lại một đống tro tàn, nhưng lạ thay công chúa Diệu Thiện vẫn ngồi tụng kinh niệm Phật bình an vô sự. Cơn phẫn nộ đã làm Diệu Trang Vương mất đi lý trí, ông không hề cảm nhận được sự thần thánh trang nghiêm của Phật Pháp.

Trong lúc tức giận, ông lại hạ lệnh dùng cực hình với Diệu Thiện. Thế nhưng khi đao phủ vừa vung tay lên thì cây đao bỗng gãy làm đôi. Vua Diệu Trang Vương lại hạ lệnh dùng hình thức treo cổ để xử tội, đúng lúc ấy xuất hiện một con hổ lớn nhảy vào pháp trường giải cứu cho công chúa.

Sau khi được cứu khỏi pháp trường, công chúa Diệu Thiện tới hồ Tĩnh Thủy để gột sạch bụi trần, chỉnh sửa lại xiêm y. Sau này, hồ nước nơi công chúa tẩy trần được đặt tên là hồ Phượng Hoàng, nơi cô chỉnh sửa xiêm y sau này được xây dựng thành Sơ Trang Lầu.

Quán Thế Âm Bồ Tát mang đến sự cứu độ linh hồn

Công chúa Diệu Thiện tiếp tục đi vào trong núi, trên đường nàng gặp các khe suối chắn ngang. Công chúa thầm nghĩ, giá như nước suối kia chảy dưới những hòn đá thì khách bộ hành sẽ đi lại dễ dàng hơn. Công chúa vừa nhắm mắt tụng kinh, trong phạm vi ba dặm ở chân núi Đại Hương Sơn, các khe suối đều chảy ngầm qua những hòn đá, nối tiếp nhau không ngừng…

Bầu trời dần tối đen như mực, rất khó để nhìn thấy đường đi, công chúa liền tới bên một tảng đá và tự nói với mình: “Hòn đá này có thể sáng như ánh trăng để giúp ta soi đường thì tốt biết mấy”. Thế là hòn đá liền phát ra những tia sáng xanh giúp nàng nhìn thấy đường đi.

Ngày nay người ta gọi loại đá đó là Nguyệt Quang Nham, trong đêm nếu nhìn từ xa, có thể thấy những tia sáng xanh phát ra, tuy nhiên ban ngày thì nó không có gì khác biệt với những hòn đá thông thường.

Cuối cùng, công chúa Diệu Thiện tới tu hành trong một hang đá trên Đại Hương Sơn. Thời gian qua đi, cuối cùng công chúa cũng đã tu thành chính quả. Sau khi đắc chính quả, Diệu Thiện hiện thân thành Pháp tượng Quán Thế Âm Bồ Tát thần thánh trang nghiêm, thần thông đại hiển cứu độ thiện nam tín nữ, bao gồm cả cha và các chị gái của mình.

Những hoàng thân quốc thích cùng người dân nghèo khó đều vì sự tu thành đắc đạo của công chúa mà thành tâm lễ Phật. Sau khi Diệu Thiện tọa hóa, nhục thân của nàng nghìn năm không bị mục nát, càng tăng thêm tín tâm cho những tín đồ tu hành.

Chùa Đại Hương Sơn ở Diệu Châu trở thành đạo tràng Quán Thế Âm lâu đời nổi tiếng nhất ở Trung Quốc.

Những người tu luyện Phật Pháp đều tin rằng, công chúa Diệu Thiện là do Quán Thế Âm Bồ Tát chuyển thế. Người phải trải qua vô vàn khổ nạn khó khăn ở nhân gian để đắc được quả vị Bồ Tát.

Mục đích của Bồ Tát khi tới thế gian này không chỉ là cứu độ chúng sinh mà còn để lưu lại quá trình tu luyện của mình cho hậu thế. Người hy vọng nhân loại có thể gìn giữ đạo đức, chờ đợi Chuyển Luân Thánh Vương chuyển sinh xuống cứu độ thế gian.

Nếu bạn có cơ hội đến thăm tượng binh mã ở Thiểm Tây, hãy nhớ tới thăm Đại Hương Sơn ở Diệu Châu – đạo tràng của Quán Thế Âm Bồ Tát. Cho dù bạn không tin Thần Phật, nhưng một người con gái vì để cứu vớt khổ nạn của chúng sinh mà quên đi những vinh hoa phú quý nơi thế tục, thật đáng để chúng ta kính ngưỡng…

Vua Diệu Trang rất tức giận, giam lỏng con gái vào chùa Bạch Tước, sai các sư, sãi trong chùa phải đối xử tệ bạc với cô. Cứ tưởng làm vậy sẽ khiến Diệu Thiện thấy khó nhọc mà bỏ tu hành, về cung lấy chồng theo ý vua. Nhưng Ni Trưởng trong chùa báo lại rằng, dù đã dùng nhiều cách ngược đãi Diệu Thiện nhưng Diệu Thiện không nản lòng mà còn quyết chí tu hành hơn. Tức giận, vua bèn sai quân đốt chùa rồi bắt cô về xử trảm.

Ngọc Hoàng trên trời cảm động trước tấm lòng của Diệu Thiện mà sai thần Hoàng bổn cảnh hóa cọp để bảo vệ cô. Trong hồn lìa khỏi xác, Diệu Thiện xuống địa ngục và được Diêm Vương dẫn đi quan sát 18 tầng địa ngục của âm phủ. Điều kỳ lạ là bất kỳ nơi nào mà cô tới thì vong hồn nơi đó đều được siêu thoát. Được lệnh Ngọc Hoàng, Diêm Vương đưa Diệu Thiện về trần thế. Trở lại nhân gian, lúc này Diệu Thiện không biết mình đi đâu về đâu thì được Đức Phật hiện thế chỉ cô đi về núi Phổ Đà, ở Cù Lao Hương, đảo Nam Hải để tu luyện. Trải qua 9 năm tu luyện ở đó, Diệu Thiện đã đắc đạo và được đặt với hồng danh là Quan Âm Nam Hải, còn gọi là Phật Quan Âm.

Đảo Nam Hải của Trung Quốc nằm ở phía nam nước họ và ở phía Bắc của nước ta, vì thế thế mà người Việt hay gọi Phật Quan Âm là Quan Âm Đông Hải.

Hits: 50

Trả lời