Cái nhìn “như thị” của giáo lý đạo Phật


Cái nhìn “như thị” của giáo lý đạo Phật

 

Nói đạo Phật là đạo “cứu khổ ban vui” nhưng kỳ thực chẳng có ai ‘cứu’ mà cũng không ai ‘ban’ cho cả. Chỉ do giác ngộ thấy lẽ thực, sống bằng lẽ thực; không sống dựa “cầu xin” hay ỷ lại vào một ai cả, tự nhiên hết khổ. Hết khổ, ắt là vui. Đạo Phật nói rõ lẽ thực rằng: có giác ngộ mới giải thoát được. Ví như người biết bệnh, thấy được bệnh của mình (giác ngộ) rồi sau đó dùng thuốc để chữa trị, tức là giải thoát được bệnh. Có vậy thôi, nhưng khi chạm vào thực tế mới biết được sự nan giải khó lường…

Trong Bát chánh đạo (con đường của tám sự hành trì chân chính) bài học của Phật dẫn đến thực chứng chúng ta thấy: Chính tri kiếnbước đầu tiên, sau đó mới đến Chính tư duy. Vì thế “thấy” đóng một vai trò đặc biệt quan trọng trong nhận thức luận của Phật giáo. Trong hầu hết các bộ kinh Đại thừa, thì câu mở đầu luôn là: “Như thị ngã văn… – Tôi nghe được Phật nói như thế này…” đó là lời của Tôn giả A-Nan, một trong 10 đệ tử lớn của Phật, từng được Phật khen ngợi là “đa văn cường ký” tức là người có văn tàitrí nhớ lâu bền. Tất cả rõ ràng như thực. Vì thế, khi mở cuốn kinh đọc tụng những lời đầu tiên là ta đã có ngay niềm tin trong sạch, từ đó mà hoan hỷ lĩnh hội ý kinh.

Trở lại cái nhìn “như thị” của đạo Phật. Muốn có cái nhìn như thực ấy thật không dễ, bởi thấy được lẽ thật đồng thời cũng biết được những cái không thật, cho nên phải có trí tuệ. Muốn có trí tuệ thì phải “lấy sự nghe, sự suy nghĩ, sự tu tập để phát triển trí tuệ” (kinh Di giáo). Và đó là tự thân của mỗi người nên chỉ có tự mình nỗ lực học và tu, không ai có thể làm thay mình được. Cho nên “ngộ” là tự ngộ, không ai thay cho ai được cả. Đó cũng là một lẽ thật, cần phải biết. Quá trình “ngộ” trong Phật giáo là quá trình bài trừ những quấy nhiễu không cần thiết gọi là bài trừ mọi phiền não. Trí tuệ để diệt trừ phiền não của nhà Phật được gọi là trí tuệ Vô lậu. Nó là một trong ba môn học rất căn bản trong hệ thống giáo dục Phật giáo được gọi là: “Tam vô lậu học”- ba môn học để diệt trừ phiền não. Tam vô lậu học ấy là “Giới-Định-Tuệ”. Ba môn học về (giới, định, tuệ) này thì chỉ có Tuệ họcsở hữu riêng của Phật giáo. Bởi lẽ, các tôn giáo khác cũng có Giới học, là môn học về giới luật của tôn giáo họ. Còn giới Định, hay thường gọi là thiền định cũng là một môn học rất căn bản của các đạo bạn. Các cha cố hàng ngày họ cũng có những giờ công phu thiền định nhằm “liên kết con người với đấng tối cao”.

 

Như vậy trong ba giới, thì hai giới đầu ta thấy một số tôn giáo khác cũng có. Còn Tuệ học, là môn học nhằm khai mở trí tuệ để có một cái nhìn “như thị” tức để thấy “thật tướng” của muôn sự, muôn vật, thì Tuệ học của Phật giáo gọi là Tuệ vô lậu. Nó khác với sự thông minh của người đời. Sự thông minh của người đời gọi là “thế trí biện thông”, tức giỏi giang việc thế gian đời thường; thông minh giỏi giang này, nếu mà lầm đường thì dễ trở thành đại ác.

Trí tuệ, hay Tuệ vô lậu của đạo Phật là phương thức tư duy bản thể, hay nói một cách khác, đó là phương pháp nhận thức về “Ngộ”. Trí tuệ ấy tuy là hai từ ghép nhưng cũng có sự khác biệt đôi chút:

Đạt tới sự tướng hữu vi là Trí (tức chỉ sự tướng hữu vi là hết thảy mọi sự, mọi việc hiện bày rõ ràng, có sự phân biệt tính đếm…).Đạt tới sự lý vô vi gọi là Tuệ (tức chỉ sự lý vô vi là sự thông tỏ, không còn phân biệt, tính đếm…). Do vậy, Trí tạo tác dụng cho Tuệ; tuệ bao hàm thông đạt tác dụng của trí.

Để kiến giải vấn đề này, Đạo đức Kinh của Lão Tử có câu: “Theo học (tức học thế gian) ngày càng thêm, theo đạo ngày càng bớt” (vi học nhật ích, vi đạo nhật tổn) là dụng ý nói về sự đối lập giữa nghiên cứu, suy luận, tưởng tượng của thế gian trí và thiền Thanh tịnh (tức Như Lai thanh tịnh thiền) với Chân nghĩa bản thể của Tuệ vô lậu…?

 

Trong hầu hết các kinh điển Phật giáo, trí tuệ luôn được đề cao và được xem là “tối thắng nhất trên đời”. Các từ ngữ xem là danh xưng Phật cũng đều có gốc nghĩa của trí tuệ như: Phật, Nhất thiết trí, Giác ngộ, Bồ đề, Chính đẳng chính giác…và ta thấy trong những giây phút cuối cùng trước khi nhập Niết-bàn, đức Phật đã nói lời khẩn thiết với các đệ tử là phải luôn luôn trau dồi trí tuệ và coi “Trí tuệ là chiếc thuyền kiên cố chở qua khỏi biển già, bệnh, chết; là ngọn đèn lớn chiếu phá vô minh hắc ám, là liều thuốc hay cho hết thảy bệnh tật, là chiếc búa sắt chặt gẫy cây phiền não…” (kinh Di giáo). Và ta lại thấy trong kinh Bát đại nhân giác có câu: “Duy tuệ thị nghiệp” – có nghĩa là lấy trí tuệ làm sự nghiệp, hoặc “Muốn làm nên sự nghiệp thì phải có trí tuệ”.

Với cái nhìn “như thị” mới có được Tuệ vô lậu, mới thấy rõ được nhân sinh vũ trụ như thật, với bản chất của chúng là duyên sinh tính, vô thường tính và vô ngã tính theo giáo lý Tứ diệu đếDuyên khởi.

Nguyễn Đức Sinh



Nguồn : Source link

Hits: 28

Trả lời