Tứ diệu đế – nền tảng của Niềm tin vào Tam bảo


Trong điều kiện thông thường, sẽ rất khó để nói rằng chúng ta có chút hiểu biết nào về trí tuệ Trung đạo và Đại Toàn Thiện…, về quan kiến vô ngã hay chưa. Nhưng vì lòng từ bi mà bậc Căn bản Thượng sư đã truyền trao cho chúng ta các khai thị tựa như viên ngọc như ý để chúng ta thực hành theo tâm nguyện. Nếu có năng lực, chúng ta có thể thực hành trí tuệ bản lai về vô ngã, cắt đứt bám chấp vô minh cho rằng vạn pháp là chắc thực và chứng ngộ tự tính tâm ngay trong một đời. Nhờ đó, chúng ta đạt được niềm tin mình có khả năng chứng ngộ được Diệt đế, tiêu trừ mọi khổ đau. Tự tính của vạn pháp không giống như vẻ bề ngoài, vậy mà tâm mê lầm lại coi vạn pháp là thực chắc. Ví dụ, tâm vô minh thấy con người là con người, động vật là động vật, thần thánh là thần thánh, ma quỷ là ma quỷ. Khi hiểu rằng chấp ngã do duyên khởi, chúng ta đi đến chỗ hiểu được nhân và quả của luân hồi và từ đó quyết tâm mạnh mẽ xả ly luân hồi.

Có nhiều nội dung giảng về nguồn gốc của luân hồi, nhưng theo tôi hiểu và trình bày ở trên, chúng ta có thể tiêu trừ nhận thức mê lầm do vô minh che chướng bằng cách sử dụng chân lý của Đạo Phật làm pháp đối trị. Ví dụ, khi chúng ta dập tắt nguồn lửa thì không còn khói nữa. Tương tự như vậy, nếu chúng ta tiêu trừ ác nghiệp, cùng với xúc tình và phần dư, vốn là nhân, thì cuộc sống sẽ không còn khổ đau. Vì thế chúng ta có niềm tin kiên cố là có thể chứng đắc cực lạc nhờ tịnh hóa nhân và quả. Niềm tin kiên cố đó khiến chúng ta có tâm nguyện và thực hành tu tập thâm sâu để chứng đắc giải thoát và toàn tri. Từ việc có niềm tin vững chắc, chí thành với giáo pháp tôn quý, chúng ta có niềm tin vững chắc vào Đức Phật – bậc giảng pháp và Tăng đoàn – cộng đồng Tăng Ni thực hành các giáo pháp. Niềm tin này giúp chúng ta thực hành với quan kiến thanh tịnh thay vì đi tìm khuyết điểm của các đạo hữu – những người đang hỗ trợ chúng ta thực hành tâm linh.

Như Đức Di Lặc đã chỉ ra, nếu có niềm tin kiên cố vào Nhị Đế, Tứ Diệu Đế, Pháp Bảo, Phật Bảo và Tăng Bảo, thì chúng ta không phải quy y nơi Đức Phật lịch sử hay hành động như những người tin vào thần thánh và ma quỷ trong lúc phát nguyện: “Con nguyện quy y Tam Bảo”. Chúng ta sẽ vượt qua tất cả những khiếm khuyết như vậy và hiểu được ý nghĩa của câu nói “Phật tử luôn quy y”. Đến lúc đó, chúng ta có thể tự gọi mình là Phật tử. Khi Thượng sư Atisha đến vùng Himalaya, Ngài đã thể hiện sự ưu phiền khi nói: “Ngay cả những vị tăng được đại chúng gọi là cao niên cũng chưa đủ phẩm chất của Phật tử”. Câu nói này có nghĩa là các vị tăng đó chưa thực hành quy y thanh tịnh. Không có chuyện những hành giả đang cùng lúc thực hành Tam thừa Phật giáo lại không thể quán tưởng một Đức Phật với bốn thân – Pháp giới thể tính thân, Pháp thân, Báo thân và Hóa thân – và chúng ta không chỉ quy y nơi Hóa thân Phật. Chúng ta cần hiểu rõ tiến trình của bốn thân Phật và có thể tức thời quán về bốn thân này khi niệm Phật.
Trong hình ảnh có thể có: một hoặc nhiều người, mũ và cận cảnh

Chúng ta cần dựa vào hai chân lý (Nhị Đế) để hiểu được tự tính sáng rõ của vạn pháp, theo nội dung trình bày trong các văn bản Trung Quán Luận, bằng cách thụ nhận các khai thị tinh túy thanh tịnh về vạn pháp duy tâm, tâm không, hợp nhất của tính không, trí tuệ quang minh là nền tảng siêu vượt sự nghĩ bàn. Chúng ta cần thụ nhận hiểu biết này từ một bậc Thầy có đủ phẩm hạnh, chứ không phải chỉ dựa vào sách vở của người viết sách chuyên nghiệp hay ngôn từ của những diễn gia hùng biện. Nếu không có hiểu biết vững chắc từ bên trong như vậy, ngay cả khi bạn cố tỏ ra có niềm tin vào Đức Phật lịch sử thì cũng khó có niềm tin xuất thế gian vững chắc. Để hiểu thấu đáo về những nội dung này, chúng ta cần nghe giảng pháp và suy ngẫm quán chiếu. Các bậc Thầy trong quá khứ dạy rằng: “Hiểu được tinh túy của quy y sẽ tiết lộ tinh túy của các Kinh điển và Mật điển”. Vì thế, đây là việc thực sự thâm diệu. Khi nghe giảng pháp về quy y, chúng ta thường không chú ý lắng nghe mà lại nói chuyện phiếm và để tâm xao nhãng. Thế nhưng, khi nghe giảng pháp về thiền định và quán tưởng, đặc biệt là thiền về một Bản tôn, trì tụng một chân ngôn, kết Mật ấn hay yoga thì chúng ta lại hoàn toàn chú tâm, thậm chí còn nhiệt thành thực hành các giáo pháp đó. Chúng ta có thể hiểu được tinh túy của mọi Kinh điển và Mật điển bằng cách quy y. Không hiểu được điều cốt tủy này thì có giả bộ thực hành bất cứ Kinh điển hay Mật điển nào, hoặc tự xưng là một học giả uyên thâm về Đạo Phật, chúng ta vẫn chưa có được tinh túy quan trọng nhất. Giáo pháp dạy rằng: “Mọi người đều giữ giới, trừ những người chưa quy y”. Trên đây là sự giải thích tóm lược của tôi. Như đã nói ở trên, tâm thường trụ là nguồn gốc của chư Phật và Bồ tát; tâm thường trụ còn được gọi là Phật Mẫu. Vì tâm này bất khả tư nghì, chúng sinh thông thường không thể nghĩ bàn, thế nên tâm này luôn bí ẩn và được gọi là “bánh xe trang hoàng vô tận bí mật” hay “bí mật không thể nghĩ bàn”. Sau khi đã chứng ngộ Thượng sư bí mật ở cấp độ tuyệt đối, chúng ta đỉnh lễ Thượng sư tuyệt đối – gốc rễ của mọi nền tảng tu tập thành tựu – thay vì việc đỉnh lễ trước bất kỳ Đức Phật hay Bồ tát cụ thể nào đang là đối tượng để chúng ta quy y.

(Trích ấn phẩm “Tự Truyện Pháp Ký” – Tác giả: Đức Pháp Vương Gyalwang Drukpa)





Nguồn : Source link

Hits: 38

Trả lời