Sách cư sĩ giới pháp -Tỳ kheo Giác Giới (Bodhisīla Bhikkhu)

Namo tassa bhagavato arahato sammāsam-buddhassa.
Kính lễ Đức Thế Tôn, Ưng Cúng, Chánh Biến Tri

CHƯƠNG I – CƯ SĨ TRONG PHẬT GIÁO

I.1. TỨ CHÚNG PHẬT GIÁO

Trong Phật giáo có bốn hội chúng (parisā) là hội chúng tỳ kheo (bhikkhu), hội chúng tỳ kheo ni (bhikkhunī), hội chúng nam cư sĩ (upāsaka), hội chúng nữ cư sĩ (upāsikā).

Hội chúng tỳ kheo là hội chúng của những nam tu sĩ Phật giáo gồm cả Sa di (sāmanera), đó là những vị đã xuất gia từ bỏ gia đình sống không gia đình, chấp nhận đời sống phạm hạnh độc thân. Sa di là vị tu sĩ tập sự để trở thành vị tỳ kheo, vị sa di tuổi từ hai mươi trở lên mới được phép thọ cụ túc giới. Sa di bên Tăng chúng không buộc thời gian.

Hội chúng tỳ kheo ni là hội chúng của những nữ tu sĩ Phật giáo, gồm cả sa di ni và học nữ (sāmaṇerī, sikkhāmānā). Đó là những người nữ đã xuất gia, từ bỏ gia đình sống không gia đình, chấp nhận đời sống phạm hạnh độc thân. Người nữ mới gia nhập ni chúng phải qua hai năm thọ giới học nữ mới làm sa di ni, thọ giới sa di ni qua hai năm và tuổi đủ hai mươi mới được thọ đại giới tỳ kheo ni.

Hội chúng nam cư sĩ là chỉ cho những thiện nam tử ở gia đình, chưa xuất gia, vẫn còn hưởng dục lạc thế tục. Những người nam này có niềm tin Tam bảo, sống hiền thiện và tạo các công đức.

Hội chúng nữ cư sĩ là những người nữ ở gia đình, còn hưởng dục lạc thế tục, chưa xuất gia thành ni chúng. Họ có niềm tin Tam bảo, sống hiền thiện và tạo các công đức.

Bốn hội chúng Phật giáo, trong đó, hội chúng tỳ kheo và hội chúng tỳ kheo ni, là hội chúng đệ tử xuất gia của Đức Phật. Hội chúng nam cư sĩ và nữ cư sĩ là hội chúng đệ tử tại gia của Đức Phật.

I.2. Ý NGHĨA U-BÀ-TẮC VÀ U-BÀ-DI

Người sống đời sống gia đình không phải là vị tu sĩ của giáo hội, gọi là người tại gia (gahaṭṭha) hay cư sĩ (gihi).

Những cư sĩ theo đạo Phật được gọi là U-bà-tắc và U-bà-di. Đó là tiếng đọc âm của danh từ Phạn ngữ Upāsaka và Upāsikā.

Upāsaka (âm là U-bà-tắc), dịch là “Người phụng sự, người cận sự”, danh từ này chỉ cho nam cư sĩ nên được gọi là “Cận sự nam”. Người ta cũng thường gọi người nam cư sĩ trong Phật giáo là “Thiện nam”, nhưng danh từ này không dịch đúng với tiếng Upāsaka.

Upāsikā (âm là U-bà-di), cũng có nghĩa là người phụng sự, người cận sự. Tiếng Upāsikā và Upāsaka đều có một gốc từ “Upa + ās”. Danh từ Upāsikā dùng để chỉ cho nữ cư sĩ nên được gọi là cận sự nữ. Người ta thường gọi nữ cư sĩ trong Phật giáo là “Tín nữ”, đó cũng không phải dịch đúng với tiếng Upāsikā.

Hai danh từ cận sự nam và cận sự nữ đúng nghĩa với tiếng upāsaka và upāsikā (U-bà-tắc, U-bà-di) hơn là gọi Thiện nam và Tín nữ.

Người ta quan niệm người nam làm điều thiện nhiều hơn người nữ, nên mới gọi là Thiện nam; và người nữ thì có đức tin mạnh hơn người nam, nên gọi là Tín nữ. Thật ra quan niệm này không đúng, vì nếu người không có đức tin thì làm sao tạo thiện sự được? Người nam cũng có đức tin mạnh. Cũng như đối với người nữ không những chỉ có đức tin, mà người nữ vẫn tích cực làm điều thiện vậy. Và đó gọi là cận sự nam và cận sự nữ đúng hơn.

Ý nghĩa cận sự nam và cận sự nữ, cần được hiểu là những cư sĩ có niềm tin nơi Phật-Pháp-Tăng, trọn đời nguyện phụng sự Tam bảo, luôn luôn sống theo sự hướng dẫn của Tam bảo.

I.3. NHỮNG CƯ SĨ ĐẦU TIÊN

Cận sự nam đầu tiên trong Phật giáo qui y nhị bảo.

Hai thương gia Tapussa và Bhallika – Vào tuần lễ thứ bảy sau khi đắc đạo, Đức Thế Tôn ngự tại cội cây Rājāyatana. Lúc bấy giờ có hai thương gia tên Tapussa và Bhallika trên đường về quê, từ Ukkhala đi ngang qua chỗ Đức Phật ngự, khi ấy hai thương gia này được một vị chư thiên vốn là quyến thuộc của họ, đã mách bảo rằng:

“Các bạn ơi, có Đức Thế Tôn vừa giác ngộ, Ngài đang ngự tại cội cây Rājāyatana; các vị hãy đi đến Đức Thế Tôn ấy và cúng dường với bánh bột và mật ong. Sự cúng dường này sẽ mang lại cho các bạn lợi ích an vui lâu dài”.

Được nghe mách bảo, hai thương gia này lòng tràn đầy vui sướng, vội dừng xe, sắp xếp bánh và mật ong, rồi cùng nhau đi đến chỗ Đức Phật ngự dưới tàn cây Rājāyatana. Đến nơi hai người đã kính cẩn đảnh lễ Đức Phật và dâng lên Ngài thực phẩm bánh và mật ong:

“Bạch Đức Thế Tôn, xin Ngài hãy thọ nhận lễ phẩm của chúng con, bánh và mật ong cho chúng con được sự lợi ích an vui lâu dài”.

Đức Thế Tôn suy nghĩ:

“Các đấng Như Lai không thọ nhận thực phẩm bằng tay, vậy ta nên thọ nhận bánh và mật ong này bằng cái chi đây?

Khi ấy, tứ đại thiên vương biết được ý nghĩ của Đức Thế Tôn từ bốn hướng hiện ra mang bốn cái bát đá dâng lên Đức Phật, bạch rằng:

“Bạch Đức Thế Tôn, xin ngài hãy thọ nhận bánh vào bốn cái bát đá này”.

Đức Thế Tôn đã lấy bốn cái bát và chú nguyện thành một, xong ngài đã thọ nhận bánh và mật bằng cái bát đá đặc biệt ấy rồi thọ thực.

Sau khi Đức Thế Tôn thọ thực xong hai thương gia Tapussa và Bhallika đảnh lễ dưới chân Ngài và xin qui y:

“Bạch Đức Thế Tôn, chúng con xin qui y Đức Thế Tôn và qui y giáo pháp. Xin Đức Thế Tôn thu nhận chúng con là cận sự nam, kể từ hôm nay đến trọn đời qui ngưỡng”.

Vào thời điểm này chưa có Tăng bảo nên họ chỉ qui y Phật và Pháp. Đây là những cận sự nam đầu tiên trong Phật giáo đã qui y nhị bảo (Phật bảo và Pháp bảo).

Cận sự nam đầu tiên trong Phật giáo qui y Tam bảo

Thân phụ của công tử Yasa – Sau khi Đức Thế Tôn Chuyển Pháp Luân tại Lộc Uyển Isipatana gần thành Bārāṇasī, đã tiếp độ được năm tỳ kheo Koṇḍañña (Kiều Trần Như). Bây giờ đã có đủ tam Bảo là Phật bảo, Pháp bảo, và Tăng bảo.

Lúc ấy tại thành Bārāṇasī (Ba-la-nại) có ông trưởng giả đại phú hộ, là thân phụ của công tử Yasa.

Một ngày kia công tử Yasa khởi lên tư tưởng chán mùi tục lụy, vì đêm khuya chợt thức giấc trông thấy cảnh các cô hầu ngủ say trên sàn nhà, mỗi cô lộ ra tật xấu, làm mất hết vẻ đẹp thần tiên, để hiện ra cảnh tưởng ê chề chẳng khác nào nghĩa địa tha ma. Công tử chán ngán và âm thầm bỏ nhà ra đi giữa đêm thanh vắng, hướng về khu rừng Isipatana.

Vừa đi, công tử Yasa vừa đi vừa thốt: “Ôi! đời quá bẩn chật, quá phiền toái’. Chàng vừa đến ven rừng thì Đức Phật đã ở tại đấy chờ đợi chàng. Khi nghe lời than thở của công tử Yasa, Đức Phật khẽ bảo: “Hỡi Yasa, ở đây không bẩn chật, ở đây không phiền toái. Hãy đến đây, hỡi Yasa! hãy ngồi xuống, ta sẽ thuyết pháp cho ngươi nghe”.

Công tử Yasa rất ngạc nhiên khi nghe Đức Phật bảo, chàng bỗng dưng cảm thấy dạt dào niềm hoan hỷ. Chàng liền cởi đôi hia vàng và đi chân trần đến gần Đức Phật, quì xuống đảnh lễ Ngài và ngồi qua một bên. Đức Thế Tôn thuyết pháp cho công tử nghe, Ngài đã khích lệ, đã khai thị với pháp thoại tuần tự. Liền đó công tử Yasa đã chứng quả Nhập lưu.

Rạng sáng hôm ấy, ông trưởng giả thân phụ của Yasa đi tìm con. Ông đi hướng về khu rừng Isipa-tana. Bất chợt cũng gặp Đức Thế Tôn đang ngồi dưới một tàn cây trong khu rừng ấy. Lúc này, Đức Thế Tôn đã dùng thần thông che khuất công tử Yasa, nên ông trưởng giả không nhìn thấy con mình đang ngồi bên Đức Phật.

Ông trưởng giả đến gần Đức Phật, chào Ngài và hỏi thăm Ngài có nhin thấy một vị công tử đi qua đây không? Đức Phật bảo ông ta hãy ngồi xuống đây trong giây lát sẽ gặp vị công tử ấy. Ông trưởng giả nghe lời và ngồi xuống, Đức Phật đã thuyết pháp cho ông nghe, với pháp thoại tuần tự, Ngài đã khích lệ, khai thị pháp nhãn cho ông trưởng giả, ông đắc quả Tu đà huờn ngay khi đó. Ông đảnh lễ Đức Phật và xin qui y:

“Bạch Đức Thế Tôn, thật kỳ diệu! Bạch Đức Thế Tôn, ví như người lật lên vật bị úp, hay như người mở ra vật bị gói kín, hoặc như người chỉ đường cho kẻ lạc lối, hoặc như người mang đèn vào bóng tối cho kẻ có mắt được thấy cảnh sắc; cùng thế ấy, giáo pháp đã được Đức Thế Tôn dùng nhiều phương tiện giảng giải. Bạch Đức Thế Tôn, con xin qui y Đức Thế Tôn, qui y Giáo pháp, qui y Tăng chúng; mong Đức Thế Tôn hãy nhận con là cận sự nam đã qui y kể từ hôm nay đến mạng chung”.

Đây là người cận sự nam đầu tiên trong Phật giáo đã qui y Tam bảo (Phật bảo – Pháp bảo – Tăng bảo).

Cận sự nữ đầu tiên trong Phật giáo qui y Tam bảo.

Thân mẫu và hiền thê của công tử Yasa –Trong khi Đức Phật đang thuyết pháp cho ông trưởng giả thì công tử Yasa đã thẩm nghiệm lại pháp và đắc quả A la hán. Đức Phật biết rõ điều đó nên Ngài thu hồi thần thông, ông trưởng giả nhìn thấy con trai của mình, ông rất vui và bảo con trai hãy trở về nhà để an lòng người mẹ.

Đức Phật đã nói với ông trưởng giả rằng: Yasa, con trai của ông đã đạt đến vô lậu tâm giải thoát thì không thể trở lui lại đời sống thế tục nữa. Nghe vậy ông trưởng giả rất vui lòng vì ông là bậc Dự Lưu nên nhận thức rõ điều đó. Rồi ông trưởng giả đã thỉnh Đức Phật cùng các tỳ kheo đến nhà thọ thực ngày mai, Đức Phật nhận lời, ông đảnh lễ Ngài và ra về. Sau đó, Đức Phật cho phép Yasa thọ phẩm mạo tỳ kheo bằng cách “Ehi bhikkhu” (Thiện lai tỳ kheo).

Sáng hôm sau, Đức Thế Tôn cùng tôn giả Yasa là thị giả, đã đi đến nhà của ông trưởng giả, cha của tôn giả Yasa.

Người mẹ và người vợ của ngài Yasa đã bước ra đảnh lễ Đức Phật. Đức Phật thuyết tuần tự pháp thoại và giảng về bốn chơn lý cho những nữ cư sĩ ấy nghe. Cuối thời pháp cả hai người đều chứng quả Dự lưu, đạt được lòng tin bất động nơi Tam bảo.

Khi đã đắc pháp nhãn ly trần vô cấu, họ đảnh lễ Đức Phật, xin qui y:

“Bạch Đức Thế Tôn, thật kỳ diệu! Bạch Đức Thế Tôn, cũng ví như người lật lên vật bị úp, hay người mở ra vật bị gói kín, hoặc như người chỉ đường cho kẻ lạc lối, hay như người đem đèn vào bóng tối cho kẻ có mắt thấy được cảnh sắc; cùng thế ấy, giáo pháp đã được Đức Thế Tôn dùng nhiều phương tiện giảng giải. Bạch Đức Thế Tôn, chúng con xin qui y Đức Thế Tôn, qui y Giáo pháp, qui y Tăng chúng, mong Đức Thế Tôn hãy nhận chúng con là những cận sự nữ đã qui y kể từ hôm nay đến mạng chung” …

Đây là những người cận sự nữ đầu tiên trong Phật giáo đã qui y Tam bảo.

I.4. NHỮNG CƯ SĨ CÓ CÔNG HẠNH LỚN

Người cư sĩ xây dựng ngôi chùa đầu tiên trong Phật giáo

Vua Bimbisāra (Bình Sa Vương) – Khi thái tử Sĩ-đạt-ta thoát ly đời sống thế tục để đi tìm chơn lý, trở thành một đạo sĩ. Buổi đầu đạo sĩ Gotama (đó là danh gọi thái tử Sĩ-đạt-ta, khi Ngài xuất gia làm đạo sĩ) chưa khổ hạnh, Ngài khất thực để nuôi mạng. Ngài chọn trú xứ tại khu rừng tĩnh mịch gần thành Rājagaha (Vương xá) của xứ Magadha (Ma kiệt đà). Khi ấy vua Bimbisāra đang trị vì xứ sở này, kinh đô của vua là thành Rājagaha.

Một hôm đức vua trông thấy một vị đạo sĩ đang đi khất thực trên đường phố, với dáng vẻ uy nghiêm khiêm tốn, nhưng biểu hiện tính cách quí phái sang trọng. Đức vua lấy làm cảm kích nên sai người đi thăm dò. Biết được nơi trú ngụ của đạo sĩ Gotama, nhà vua bèn khởi giá cùng đám tùy tùng tìm đến viếng đạo sĩ hỏi thăm Ngài là ai? sanh trưởng ở xứ nào? đạo sĩ Gotama trả lời nhà vua về quê hương và dòng dõi xuất thân của Ngài. Nhà vua càng nể trọng đạo sĩ và khẩn thỉnh Ngài sau khi thành chánh quả, trở lại viếng thăm vương quốc Magadha.

Đúng theo lời hứa, sau khi đắc quả Chánh Đẳng Giác, Đức Phật cùng đi với ngàn đệ tử A la hán từ Gāyā đến Rājagaha. Nơi đây, Ngài ngự tại điện Suppatittha, trong khu rừng kè (Laṭṭhivana).

Tin lành đến tai vua Bimbisāra và danh tiếng tốt đẹp của Đức Phật cũng đã được lan truyền cùng khắp vương quốc. Đức vua bèn dẫn theo đám đông quần thần đi đến viếng thăm Đức Phật.

Nhà vua đến nơi cung kính đảnh lễ Đức Phật và ngồi xuống một bên, các quần thần của vua, có người đảnh lễ, có người xá chào, có người thăm hỏi xã giao với Đức Phật, rồi tất cả đều ngồi xuống.

Đoàn Tăng sĩ một ngàn vị đi theo Đức Phật chính là nhóm đạo sĩ thờ lửa do Tôn giả Uruvelakassapa (Ca-Diếp) lãnh đạo, bây giờ đã trở thành đệ tử Phật.

Lúc ấy hội chúng tùy tùng của vua có sự suy nghĩ phân vân, giữa Đức Phật và Tôn giả Ca-Diếp, ai là thầy, ai là đệ tử. Đức Phật biết được ý nghĩa của họ nên Ngài đã hỏi Tôn giả Ca-Diếp tại sao không thờ lửa nữa, để giải tỏa tâm tư của hội chúng. Tôn giả Ca-Diếp hiểu ý Đức Phật, liền giải thích rằng vì mình đã thấy được con đường đưa đến an vui giải thoát nên đã bỏ sự thờ lửa vì việc đó không bổ ích. Nói xong Tôn giả Ca-Diếp khấu đầu đảnh lễ dưới chân Đức Phật và xác nhận:

“Bạch Đức Thế Tôn, Ngài là Đạo sư của con, con là đệ tử của Ngài”.

Nghe vậy tất cả mọi người đều hoan hỷ, dứt nghi nan. Đức Phật hiểu rõ tâm tư của hội chúng đã sẵn sàng lãnh hội pháp, Ngài giảng cho họ nghe tuần tự pháp thoại, làm cho họ được hân hoan.

Nghe Đức Phật thuyết pháp, ánh sáng chân lý đã rọi đến mọi người. Đức vua và hội chúng tùy tùng đắc được quả vị Tu đà huờn; tất cả đều xin qui y Tam bảo, thành những cận sự nam. Sau đó, vua Bimbisāra cung thỉnh Đức Phật và chư Tăng vào hoàng cung thọ trai ngày hôm sau.

Hôm sau, Đức Phật và chư Tăng ngự đến hoàng cung thọ thực. Khi các ngài đã dùng xong, đức vua đảnh lễ Phật và ngỏ lời xin hiến dâng một nơi làm chỗ trú ngụ của Đức Phật và Tăng chúng, đức vua lại muốn biết nơi nào là thích hợp cho ngôi tu viện. Đức Phật trả lời:

‘Một nơi vắng vẻ không xa cũng không gần thành thị, để những ai muốn, có thể đi đến dễ dàng, một nơi ban ngày không ồn ào, ban đêm yên tĩnh, khoảng khoát và kín đáo, nơi ấy sẽ thích hợp thiền tịnh”.

Đức vua Bimbisāra nghĩ đến khu Trúc Lâm (Veluvana) của mình hội đủ những điều kiện thích hợp cho ngôi tu viện nên đã tác bạch hiến cúng Trúc Lâm này đến Đức Phật và chư Tăng. Đức Phật nhận lời, và cũng chính do duyên khởi này mà Đức Phật đã cho phép Tăng chúng nhận chùa.

Khu Trúc Lâm từ đó có tên gọi là Veluvanārāma (Trúc Lâm Tự), và đây chính là ngôi tự viện đầu tiên trong Phật giáo do đức vua Bimbisāra hiến dâng.

Người cư sĩ hộ độ Tam bảo tích cực

Trưởng giả Anāthapiṇḍika (Cấp-cô-độc) – Tại kinh thành Sāvatthi (Xá-vệ) có một trưởng giả triệu phú tên Sudatta tính tình hào phóng, quảng đại. Ông có hạnh bố thí đặc biệt, thường xuyên phân phát giúp đỡ cho các kẻ nghèo không nơi nương tựa. Chính vì vậy mà người đời gọi tặng ông với mỹ danh Anāthapiṇḍika (Cấp-cô-độc) để nói lên công hạnh bố thí của ông.

Trưởng giả Anāthapiṇḍika gặp được Phật pháp do một nhân duyên kỳ ngộ.

Một ngày nọ, trưởng giả Anāthapiṇḍika có việc đi từ Sāvatthī đến Rājagaha viếng thăm người anh vợ, thấy người anh đang bận rộn chuẩn bị một cuộc lễ, ông nghĩ là người anh mình sẽ tổ chức tiệc mừng, hoặc là cung nghinh đức vua ngự giá đến nhà. Khi hỏi ra mới biết người anh thiết lễ trai đàn cúng dường Đức Phật và chư Tăng vào ngày mai. Thoạt nghe danh từ “Buddha” (vị giác ngộ, vị Phật), ông Anāthapiṇḍika rộn lên niềm hoan hỷ và thiết tha muốn được diện kiến Đức Phật.

Đêm đó, ông không thể chợp mắt, lòng cứ nao nao phấn khích; cuối cùng không chờ đến sáng nữa, ông đã ra đi trong đêm vắng hướng về Sītavana, khu rừng nơi Đức Phật đang trú ngụ. Một dạ xoa tên Sivakha đã dùng thần lực thu ngắn con đường cho ông, và những lúc ông toan thối chuyển cuộc hành trình vì sợ hãi đêm tối thì dạ xoa đã khuyến khích, trấn an ông lấy lại can đảm và tiếp tục bước đi.

Cuối cùng, ông Anāthapiṇḍika cũng đã đến khu rừng Sītavana, có Đức Phật đang đi kinh hành ngoài trời, Ngài biết ông sẽ đến. Đức Phật gọi tên tộc của ông, Sudatta, và bảo ông đến gần Ngài.

Ông Anāthapiṇḍika hết sức vui mừng được yết kiến Đức Phật. Kế đến Đức Phật thuyết pháp cho ông nghe. Sau khi nghe pháp, ông Anāthapiṇḍika đã chứng quả Dự lưu (Tu đà huờn), ông xin qui y Tam bảo. Ông đảnh lễ Phật và trở về nhà người anh.

Khi Đức Phật và chư Tăng đến nhà người anh của ông Cấp-cô-độc khẩn khoản thỉnh cầu Đức Phật ngự về kinh thành Sāvatthī. Quê hương của ông, và ông cũng thỉnh Ngài nhập hạ ở đây. Đức Phật đã nhận lời, nhưng Ngài gợi ý với ông rằng: chư Phật chỉ thích ở nơi vắng vẻ.

Ông Cấp-cô-độc thưa rằng mình đã hiểu ý Đức Phật. Ông từ giã gia đình người anh và trở về Sāvatthī vội vã.

Về đến Sāvatthī, ông Cấp-cô-độc tìm một nơi thích hợp để cất chùa. Ông đã tìm được khu vườn của thái tử Jeta, là nơi lý tưởng, thích hợp. Ông đã mua lại khu vườn ấy với giá “Lát nền bằng vàng”, nghĩa là trải vàng trên đất diện tích bao nhiêu thì lấy bấy nhiêu.

Để có được diện tích rộng xây cất ngôi chùa Kỳ Viên (Jetavana), ông Cấp-cô-độc đã bỏ ra 18 koṭi tiền vàng (1 koṭi là mười triệu) để mua đất. Và bỏ ra 18 koṭi tiền vàng nữa để xây cất ngôi đại tự danh tiếng Jetavanamahāvihāra. Chính nơi này Đức Phật đã an cư mười chín lần trong cuộc đời Ngài, và phần lớn các bài pháp cũng được Đức Phật thuyết tại đây.

Trong sớ giải Aṅguttaranikāya và Dhammapada ghi rằng: ông Cấp-cô-độc hộ độ vật thực đến chư Tỳ kheo, mỗi ngày 500 vị; trong nhà ông luôn luôn có 500 chỗ ngồi được sắp đặt sẵn cho bất cứ vị khách Tăng nào từ xa đến không kip thời gian đi khất thực, ghé qua nhà ông để thọ trai.

Đồng thời ông Cấp-cô-độc cũng dựng lên những ngôi phước xá ở bốn cổng thành Sāvatthī để bố thí đến những tân khách, những dân chúng nghèo khổ, tàn tật, cô độc không chỗ dung thân.

Gia đình của trưởng giả Cấp-cô-độc có bốn người con, ba gái là tiểu thư Mahāsubhaddā, Cūlasubhaddā, và Sumānā, cùng một trai là công tử Kāla. Ba nàng tiểu thư đã tích cực giúp cha trong việc hộ độ cúng dường Tăng chúng; cả ba đều đắc thánh quả hữu học như cha mình, riêng về nàng Sumānā thì đắc Tư đà hàm quả vị cao hơn ông Cấp-cô-độc.

Công tử Kāla thì thời gian đầu lêu lổng, chỉ biết tiêu xài ăn chơi, không có niềm tin Phật pháp. Về sau, lúc người cha cho tiền thuê cậu ta đi nghe Đức Phật thuyết pháp, duyên lành chín muồi công tử Kāla chứng quả Dự lưu, đạt được niềm tin bất thối nơi Tam bảo. Người con dâu của ông Cấp-cô-độc, vợ của công tử Kāla, buổi đầu cũng thế, kiêu ngạo và cư xử tệ bạc với người trong gia đình nhà chồng; nhưng về sau nhờ nghe Đức Phật thuyết bài pháp về bảy hạng vợ, nàng dâu ấy đã cải tà qui chánh và trở nên hiền thiện.

Trưởng giả Cấp-cô-độc là một người hào sảng hảo tâm, một người chủ gia đình gương mẫu, và là một đại thí chủ bậc nhất hộ độ Tăng chúng vào thời Đức Phật. Ông có vị trí quan trọng trong hàng cư sĩ Phật giáo với hạnh bố thí xả tài.

Đại tín nữ Visākhā – Một nữ cư sĩ cũng chỉ đắc quả Tu đà huờn như nhiều nữ cư sĩ khác vào thời Đức Phật, nhưng lại là một tấm gương sáng cho hàng cận sự nữ.

Nếu kể hàng thiện nam đại thí chủ là ông Anāthapiṇḍika (Cấp-cô-độc), thì trong hàng tín nữ đại thí chủ chính là bà Visākhā. Mặc dù vai vế và tuổi tác thì bà Visākhā nhỏ hơn ông Cấp-cô-độc, bởi em gái út của bà Visākhā là con dâu của ông Cấp-cô-độc.

Bà Visākhā là một nữ nhân đại phước, bà đứng đầu trong hàng tín nữ, được Đức Thế Tôn xác nhận địa vị tối thắng về hộ độ Tăng chúng, trong hàng cận sự nữ (Dāyikānaṃ aggā).

Bà là con gái của trưởng giả Dhanañjaya, và là cháu nội của nhà đại phú Meṇḍaka ở thành Bhaddiya xứ Aṅga. Thời thơ ấu bà Visākhā sống với gia đình tại thành Bhaddiya xứ Aṅga.

Vào năm bà được bảy tuổi, Đức Phật có lần ngự đến Bhaddiya cùng đoàn chư tăng. Bà được nhân duyên diện kiến Đức Phật và nghe Ngài thuyết pháp. Nghe pháp xong Visākhā chứng đắc thánh quả Dự Lưu.

Thế rồi bà đã theo cha di cư đến sống ở Sāketa một thị trấn thuộc Kosala.

Bà Visākhā lập gia đình vào năm mười sáu tuổi. Trong sớ giải nói rằng bà là một phụ nữ hội đủ năm vẻ đẹp thanh xuân dù đến khi luống tuổi. Ngoài ra năm vẻ đẹp ấy, bà Visākhā lại còn có trí tuệ hơn người, sáng suốt trong mọi việc nhất là trong phạm vi tinh thần đạo đức. Điều đặc biệt không ngờ được là một mỹ nhân dịu dàng tha thướt như vậy mà lại có sức mạnh phi thường hơn cả nam nhân.

Gia đình chồng của bà là một nơi môn đăng hộ đối trong thành Sāvatthī, thế nhưng họ theo đạo Ni- Kiền-Tử, không có niềm tin Phật pháp, một điều nghịch lại với truyền thống tín ngưỡng của gia đình bên ruột của bà, và bà cảm thấy rất khó chịu vì bà là một thánh cư sĩ đệ tử Phật. Cha chồng của bà Visā-khā, trưởng giả Migāra, một tín đồ của nhóm đạo sĩ lõa thể, ông thường buộc nàng dâu phải phục vụ các đạo sĩ ấy khi họ được mời đến cúng dường.

Một lần, bà Visākhā lúc trông thấy các đạo sĩ lõa thể, bà đã tỏ thái độ không bằng lòng và bỏ vào trong, khiến ông trưởng giả tức giận kết tội nàng dâu vô phép. Bà Visākhā bình tĩnh thẳng thắn ứng đối. Ông cha chồng đuối lý đành đổi giận làm vui. Nhân cơ hội ấy bà đã xin phép cha chồng cho bà được tự do sinh hoạt theo truyền thống tín ngưỡng của bà. Trưởng giả Migāra chấp thuận.

Bà đã thỉnh Đức Phật và chư Tăng về nhà cúng dường. Đức Phật đã thuyết pháp sau bữa ăn. Ông trưởng giả Migāra ngồi sau bức rèm nghe trộm, nghe xong thời pháp ông giác ngộ và chứng quả Tu đà huờn. Ông bước ra đảnh lễ Đức Phật, và bày tỏ lòng tri ân vô hạn đối với nàng dâu quí đã dẫn dắt ông vào con đường giải thoát, và thật cảm động, kể từ ngày ấy ông xem nàng dâu Visākhā như một người mẹ. Cũng chính vì vậy mà đứa cháu nội đầu lòng của ông chào đời, ông đặt tên là Migāra, tên của ông. Về sau người ta gọi Bà Visākhā là Migāramātu (mẹ của Migāra) được hiểu theo hai nghĩa.

Nhờ khôn khéo, có trí tuệ và nhẫn nại, bà dần dần cảm hóa mọi người, và biến đổi gia đình bên chồng trở thành một gia đình Phật tử có chánh tín, sống tràn ngập hạnh phúc.

Bà Visākhā hằng ngày cúng dường chư Tăng tại nhà, luôn luôn có 500 vị Tỳ kheo. Buổi chiều, bà thường đến chùa nghe pháp, sau đó đi quanh chùa để xem chư Tăng có cần dùng chi, luôn cả chư tỳ kheo ni.

Bà Visākhā là người hộ độ Tăng chúng tín cẩn và có tâm lo lắng an nguy của chư Tăng. Chính vì thế đã có nhiều sự kiện liên quan đến sự giới luật tăng già, bà được mời có mặt để can thiệp, đưa ý kiến hoặc thẩm xét, như vụ án tỳ kheo ni mẫu thân của đại đức Kumārakassapa chẳng hạn.

Bà Visākhā đã xin Đức Phật chấp nhận cho bà tám đặc ân trong việc hộ độ chư Tăng tại Sāvatthī:

1- Dâng y tắm mưa đến chư tăng, suốt đời bà.
2- Cúng dường những khách Tăng vừa mới đến.
3- Cúng dường các vị Tăng sắp rời khỏi.
4- Dâng thực phẩm đến những vị Tăng đau bệnh.
5- Dâng thực phẩm đến những vị Tăng nuôi bệnh.
6- Dâng thuốc men đến vị Tăng bị bệnh.
7- Dâng cháo sáng đến chư tăng.
8- Dâng y đến chư tỳ kheo ni.

Đức Phật chấp nhận cho bà tám đặc ân này. Có một hôm bà Visākhā cùng người nữ tỳ đi đến chùa đảnh lễ Phật và nghe pháp. Khi đến cổng chùa bà cởi chiếc áo choàng đính ngọc quí giá, gói lại và giao cho người nữ tỳ cầm giữ vì bà nghĩ là mặc sang trọng trước mặc Đức Phật là không phải lẽ. Sau khi nghe pháp ra về, người nữ tỳ đã để quên lại áo choàng ấy ở chùa, Tôn giả Ānanda đã làm theo lời dạy của Đức Phật, nhặt cất giữ tạm để chờ trả lại cho chủ.

Khi bà Visākhā hay rằng người nữ tỳ đã bỏ quên gói đồ trong chùa thì bà sai trở lại lấy nếu chưa có ai chạm đến. Người nữ tỳ trở lại chùa, và về trình sự việc ngài Ānanda đã tạm cất giữ. Bà liền đến hầu Đức Phật và ngỏ ý muốn làm một thiện sự bằng số tiền bán chiếc áo choàng ấy, Đức Phật dạy xây cất một ngôi chùa ở cổng vào phía đông thành Sāvatthi. Bà rất hoan hỷ và tự thân mua lại chiếc áo choàng, rồi dùng số tiền ấy kiến tạo một ngôi chùa đặt tên là Pubbārāma (Đông Phương Tự) cúng dường đến Đức Phật.

Bà Visākhā sống thọ đến 120 tuổi. Bà có rất nhiều con cháu, tất cả đều hiếu thảo. Thật là một người có đầy đủ phúc lộc thọ.

Lương y Jīvaka – Một vị thầy thuốc tài giỏi, giàu tâm đạo, thường xuyên ở gần Đức Phật để chăm lo sức khỏe Ngài, và trị bệnh cho chư Tăng.

Ông Jīvaka còn được gọi bằng một tên nữa là Jīvakakomārabhacca.

Jīvaka là con trai của nàng Sālavatī, một kỹ nữ trong thành Rājagaha. Khi mới chào đời, bị bỏ rơi trên một đống rác bên đường, nằm trong cái thùng. Hoàng tử Abhaya con vua Bimbisāra, tình cờ đi ngang qua phát hiện được đứa bé còn sống nên mang về nuôi. Vì hài nhi “Còn sống” nên hoàng tử đặt tên là “Jīvaka”, vì được hoàng tử nuôi nấng nên được gọi là “Komārabhacca”.

Lớn lên ông theo học nghề y với vị danh y Takkasilā hết bảy năm, và thành tài. Ông trở thành vị thầy thuốc giỏi, đặc biệt là khoa phẫu thuật. Sách ghi rằng ông đã hai lần thành công mỹ mãn cuộc giải phẫu cho một nhà triệu phú mắc bệnh nhức đầu kinh niên. Ông cũng từng được vua Bimbisāra cử đi đến xứ Ujjeni để trị bệnh cho vua Candappajjota, thành công.

Lương y Jīvaka có duyên lành với Phật pháp, ông đã qui y Tam Bảo và chứng quả Tu đà huờn.

Sau khi vua Bimbisāra băng hà, Thái tử Ajātasattu lên ngôi, ông vẫn tiếp tục được lưu dụng, và ông đã có lần tiến dẫn vua Ajātasattu đến diện kiến Đức Phật ở tại khu rừng xoài Ambavana để nhà vua có dịp cải hối về tội ác giết cha soán ngôi, quay đầu hướng thiện trong Phật Pháp. Cũng nhờ vậy mà vua Ajātasattu bớt đi mặc cảm tội lỗi và trở thành một Phật tử thuần thành. Chính nhà vua đã bảo trợ chư thánh Tăng kết tập kinh điển lần thứ nhất sau khi Đức Phật viên tịch ba tháng.

Ông Jīvaka đã hiến khu rừng xoài của mình cho Đức Phật và chư Tăng, ông đã xây cất một tu viện nơi ấy vì thấy rằng Veḷuvana (Trúc Lâm) quá xa để ông đến chăm sóc sức khỏe của Tăng chúng.

Mỗi ngày ông đến viếng thăm Đức Phật hai lần và chăm sóc sức khỏe cho Ngài. Ông cũng nhiệt tâm lo chữa trị cho Tăng chúng bất cứ vị tỳ kheo bị bệnh đều được ông điều trị, không hề xao lãng với phận sự, mặc dù ông rất bận rộn với công việc xã hội.

Trong Luật tạng có ghi nhận một số vấn đề có liên quan đến danh y Jīvaka.

Như việc ông đề nghị Đức Phật ban hành luật thu nhận người xuất gia vào Tăng chúng phải hạn chế những người mắc các thứ bệnh lây nhiễm. Nguyên nhân là thời đó có những người mắc bệnh hiểm nghèo, họ đã xuất gia làm tỳ kheo để được lương y Jīvaka điều trị miễn phí và tận tình (Vin.I.71).

Cũng theo lời yêu cầu của ông, nên Đức Phật đã cho phép các tỳ kheo hoạt động thể dục như đi bộ, quét nhà v.v… để có sức khỏe (Vin.II.119).

Ông Jīvaka được Đức Phật xác nhận là một cận sự nam được dân chúng kính mến nhất (aggaṃ puggalappasannānaṃ) (A.I.26).

Vua Pasenadi Kosala (Ba-Tư-Nặc) – Một vị vua mà tên tuổi gắn bó với cuộc đời hoằng pháp của Đức Phật, hơn các vị vua khác, vì ở Sāvatthī (Xá vệ) có hai ngôi chùa mà Đức Phật đã hai mươi lăm lần nhập hạ tại đó, mười chín lần tại Jetavanavihāra, sáu lần tại Pubbārāma.

Vua Pasenadi là vị vua xứ Kosala (Kiều Tát La) kinh đô của vua là thành Sāvatthī (Xá Vệ), sống cùng thời Đức Phật.

Ngài là con trai của vua Mahākosala, từ thuở nhỏ được học các học nghệ tại trường Takkasilā, nơi đào tạo những nhân tài hoàng tộc đương đại từ các xứ sở như thân vương Licchavī Mahali và thái tử dòng Malla là Malla Bandhula – sau trở thành thống soái của vua Pasenadi.

Từ Takkasilā trở về Kosala, phụ vương ngài rất hài lòng về tài năng của ngài qua nhiều môn nghệ thuật nên đã nhường ngôi vua lại cho ngài.

Khi tước vị vương quyền, vua Pasenadi đem hết tài nghệ cùng với nhiệt tâm để điều hành vận nước được hùng cường, đồng thời nhà vua thực hiện chính sách bang giao tốt đẹp với các nước láng giềng, đức vua cũng làm phong phú đời sống nội tâm bằng cách tìm đến thân giao với các bậc hiền trí.

Vua Pasenadi đã trở thành tín đồ Phật giáo trong thời kỳ đầu hoằng hóa giáo pháp của Đức Phật. Ngài là người thân tín và phụng sự Đức Thế Tôn cho đến lúc mạng chung, mặc dù nhà vua không phải là vị thánh cư sĩ như vua Bimbisāra.

Vua Pasenadi cùng chạn tuổi với Đức Phật, nhưng nhà vua hết sức tôn kính Đức Phật. Trong kinh mô tả mỗi lần vua đến viếng thăm Đức Phật, đã đảnh lễ thủ phục sát dưới chân Ngài và úp mặt trên đôi bàn chân của Ngài.

Cũng có thể vì Đức Phật và vua Pasenadi cùng tuổi với nhau, do đó đã có những cuộc luận đàm diễn ra thân mật, và trung thực thẳng thắn. Trong Saṃ-yuttanikāya phẩm Tương Ưng Kosala, đã ghi lại gồm 25 giai thoại, mỗi giai thoại là một phương đạo đức do vua Pasenadi nêu lên vấn đề với Đức Phật hoặc Đức Phật đưa vấn đề giảng cho vua Pasenadi. Những đề tài bàn luận ấy có nhiều và khác biệt nhau.

Đức vua tận tụy trong việc bảo vệ thanh danh của Đức Phật vàTăng chúng, áp đảo mọi hành động của kẻ xấu cố tình bôi nhọ Phật giáo, như trong vụ án nàng Sundarīnandā là điển hình.

Đức vua cũng tích cực can thiệp những sự việc gút mắc có liên quan Tăng chúng nhằm để giữ vững sự trong sạch của Tăng đoàn giáo hội, như trường hợp của vị tỳ kheo ni mẫu thân ngài Kumārakassapa, hoặc như chuyện tỳ kheo Koṇḍadhāna.

Trong giới luật của tỳ kheo có điều luật Ưng Đối Trị như việc tắm giỡn nước, cũng nhờ sự gợi ý của vua Pasenadi với Đức Phật. Hoàng cung vua nhìn thẳng ra dòng sông Aciravatī, một lần vua đứng trên sân thượng thấy các vị tỳ kheo tắm giỡn nước dưới sông không đẹp mắt. Nhà vua đã khéo léo bạch trình lên Đức Phật việc ấy, và Đức Phật nhân đó chế định học giới về sự giỡn nước của Tỳ kheo.

Tuy đã trở thành đệ tử Phật nhưng vua Pase-nadi vẫn không bỏ được thói quen đảnh lễ những ngoại đạo sư khác. Nhà vua vẫn có sự ái mộ và khoan dung đối với các giáo chủ ngoại giáo hay các đệ tử của họ.

Vì chưa đạt được thánh tri kiến nên nhà vua có những tư tưởng lệch lạc với chánh pháp, đôi khi đã có những hành động sai lầm, suýt gây nên tội ác.

Có lần một cuộc lễ tế thần phải giết thật nhiều súc vật và đồng nhi, mà chính vua Pasenadi cho xúc tiến và đích thân chuẩn bị chu đáo. May nhờ có hoàng hậu Mallikā của vua can ngăn và thuyết phục đức vua hãy đình chỉ tế đàn ấy để đi đến gặp Đức Phật.

Một câu chuyện khác ghi lại rằng, đức vua vì luyến ái một phụ nữ khi ngài cưỡi ngựa dạo chơi trong kinh thành. Khi biết được nàng ấy đã có chồng, để chiếm đoạt người phụ nữ, nhà vua đã ra lệnh cho người chồng phải ra đi vào ban chiều để đem về cho được một loại hoa súng quí hiếm và đất sét trồng hoa súng ở một nơi cách xa kinh thành hàng trăm do tuần, thời hạn phải có mặt là ngày hôm sau. Nếu trễ thời hạn sẽ bị tội chết. Người đàn ông cố gắng trải qua cuộc hành trình, rạng sáng đã về đến thành nhưng cổng thành có lệnh vua phong tỏa không mở, người ấy sợ hãi lẩn trốn vào chùa Jetavana. Nhà vua suốt đêm cũng không an giấc được vì sự ái ố của mình. Sáng dậy, vua ra khỏi thành và đến Jetavana viếng thăm Đức Phật. Tình cờ gặp được người đàn ông ấy cũng đang ngồi hầu Đức Phật. Đức Phật nghe cả hai kể lại tâm trạng của mình, Ngài đã thuyết pháp giải tỏa sự phiền toái của đôi bên.

Vua Pasenadi vì ăn uống vô độ nên thường xuyên bị bệnh. Một lần vua đến thăm Đức Phật, Đức Phật khuyên nhà vua hãy tiết độ lại trong việc ăn uống, Ngài dạy cho vua một bài kệ làm điều răn về vấn đề ẩm thực. Vua Pasenadi đã thực hành theo và khỏe mạnh lại như xưa. Vua càng kính thương Đức Phật.

Vua Pasenadi may mắn hơn các vị vua khác được nghe Đức Phật thuyết cho nghe rất nhiều bài pháp. Trong Saṃyuttanikāya, phẩm Kosalavagga ghi lại đầy đủ các bài pháp như vậy.

Đức vua cũng là một bậc đại thí chủ vào thời Đức Phật. Nhờ sự cố vấn của hoàng hậu Mallikā, vua đã tổ chức lễ cúng dường Đức Phật và chư Tăng thật long trọng, với 500 con voi cầm lọng đứng hầu Tăng chúng; đức vua tranh đua với dân chúng, cuối cùng thì dân chúng phải nhượng bộ không theo kịp. Cuộc đại thí này còn gọi là “Đại lễ vô song thí”.

Đức vua đã tỏ ra hào phóng, khi biết được vị đại thần Juṇha là người có tâm hoan hỷ trong cuộc bố thí của mình, vua bèn ban thưởng trọng hậu, đồng thời cho đại thần Juṇha làm vua bảy ngày tùy thích làm việc bố thí. Về phía vị đại thần Kāḷa, là người tỏ ra bất mãn với việc bố thí này của nhà vua, nên vua đã truất phế chức vụ và trục xuất ra khỏi vương quốc Kosala.

Theo sớ giải Jātaka thì vua Pasenadi có xây dựng một ngôi tịnh xá ở trước chùa Jetavana để cúng dường đến Đức Phật, ngôi tịnh xá này có tên là Rāja-gahārāma.

Vua Pasenadi băng hà trước ngày Đức Phật viên tịch, thọ 80 tuổi. Nhà vua đã chết trong cảnh cô đơn, tại một ngôi nhà trọ ở ngoại thành.

Người cư sĩ hộ pháp quan trọng

Vua Asoka (A-Dục vương) – Một vị đại đế của Ấn Độ sau thời Đức Phật, một vị cư sĩ đại hộ pháp mà có lẽ chưa có vị vua nào sánh bằng, từ trước tới nay. Tên tuổi của vị vua này đã gắn liền với nền nghệ thuật, văn hóa Phật giáo.

Hoàng đế Asoka xuất hiện vào thế kỷ thứ ba trước Tây lịch, khoảng 200 năm sau khi Đức Phật níp bàn.

Ngài là con của vua Bimbisāra xứ Campala. Ngài có một người em ruột nữa là hoàng đệ Vitasoka. Về sau hoàng đệ Vitasoka xuất gia vào Phật giáo và đắc A la hán.

Thuở thiếu thời, hoàng đế Asoka không được vua cha yêu chuộng bởi ngài có thân hình xấu xí, tay chân thô kệch nhám nhúa, mặc dù tài năng vượt trội các vị hoàng tử khác – anh em một cha khác mẹ với ngài.

Thời ấy trong nước thường có loạn lạc do các xứ lân cận xâm lấn. Vua cha, vì không ưa hoàng tử Asoka nên luôn ban lệnh cho hoàng tử đi chinh phạt với một lực lượng quân đội yếu kém, binh mã và quân nhu tồi tệ. Thế nhưng do tài thao lược, hoàng tử Asoka lúc nào cũng đem chiến thắng trở về.

Vua cha của hoàng tử Asoka còn có nhiều người con khác, trong số đó có một hoàng tử mà vua cha rất yêu chuộng và đã chọn làm Đông cung Thái tử để nối ngôi, hoàng tử ấy tên là Susima. Nhưng hoàng tử Susima tính tình kiêu căng và hung dữ nên không được lòng của văn võ triều thần. Họ cùng nhau chờ dịp sẽ lập hoàng tử Asoka lên ngôi.

Thế rồi cơ hội cũng đến, ngày kia xứ Takkasilā nổi loạn, vua Bindusāra sai đông cung Susima mang đại quân dẹp loạn, nhưng thất bại. Hay tin chẳng lành, vua cha thọ bệnh và truyền lịnh hoàng tử Asoka đem binh tiếp ứng cho đông cung Susima.

Các vị đại thần đã xúi giục hoàng tử Asoka cáo bệnh không xuất chinh. Các đại thần thấy vua Bin-dusāra bệnh càng lúc càng trầm trọng, bèn vào triều tâu vua xin nhường ngôi lại cho hoàng tử Asoka, và họ đã tự an bày tôn hoàng tử Asoka lên ngôi, dù vua cha không chấp nhận. Vua Bindusāra quá tức giận thổ huyết mà băng hà.

Hay tin ấy, đông cung Susima tức tốc kéo binh về thành Pātaliputta để dành lại ngôi vua. Vua Asoka lập kế đã tiêu diệt được đông cung Susina.

Sau khi diệt được cái gai Susima, vua Asoka bèn bắt giết những quan thần mà trước đây đã khinh thường mình vì thân hình xấu xí.

Nhà vua lại cho lập ra cảnh Địa Ngục Bồng Lai để hành hình tội nhân, bên ngoài chốn ấy thật hữu tình ngoạn mục chẳng khác Bồng lai tiên cảnh, nhưng bên trong thì cảnh tượng rùng rợn như chốn địa ngục, có rất nhiều cách hành hình thật dã man.

Mặt khác, vua Asoka lại là vị vua hiếu sát. Nhà vua đã cất binh chinh phạt các nước chư hầu, đã gây nên cảnh tang thương chết chóc kinh hoàng. Trong cuộc chinh phạt ấy, thê thảm nhất là xứ Kaliṅga, mười muôn quân sĩ bị tử trận, mười lăm muôn quân khác bị bắt làm tù binh đem lưu đày, và vô số dân chúng đã bị sát hại, thây chất thành núi, máu chảy thành sông.

Sự hiếu sát và tính hung bạo của nhà vua làm cho dân chúng ta thán sợ hãi, họ đặt tên nhà vua là Caṇḍāsoka (ác vương Asoka).

Thế rồi một ngày kia, có vị tỳ kheo trẻ tuổi tên là Samudda vào thành Pātaliputta để khất thực, vô tình đi ngang qua chốn địa ngục bồng lai, vì mỏi mệt và thấy cảnh mát mẻ hữu tình nên vị ấy dừng chân ngồi nghỉ mát. Bọn cai ngục bắt giữ tỳ kheo Samudda và giam vào đại lao.

Tỳ kheo Samudda đã tranh thủ thời gian ấy, tinh tấn thiền định, lấy cảnh khổ luân hồi làm đề tài quán niệm, nỗ lực ngày đêm bất thối chuyển, vài ngày sau vị ấy chứng đắc A la hán quả với thần thông.

Vào ngày thứ tám, bọn cai ngục dẫn Ngài ra hành hình, bỏ vào chảo dầu và đốt lửa. Ngài Samud-da ngồi nhập định thản nhiên trong chảo dầu không hề hấn gì. Đức vua Asoka được báo tin lạ lùng ấy, vội vã ngự đến ngục thất để xem sự tình. Lúc ấy, Ngài Samudda bay lên ngồi kiết già trên không trung. Đức vua sanh tâm kinh sợ liền chắp tay đảnh lễ đại đức Samudda và yêu cầu đại đức Samudda giải thích điều kỳ diệu này.

Đại Đức Samudda bèn thuyết pháp cho nhà vua nghe, và khuyên nhà vua hãy bỏ dữ về lành, mở lòng từ bi bác ái, thương xót thần dân, đem lại an vui hạnh phúc cho muôn loài; đồng thời Ngài cũng nhắc cho nhà vua biết lời tiên tri của Đức Phật cách đây 200 năm, về nhà vua sẽ là bậc thánh vương hộ pháp có nhiều công đức trong việc phụng thờ xá lợi và truyền bá chánh pháp trong thế gian.

Nghe được lời giảng dạy cao quý, đức vua Asoka xúc động mãnh liệt và khởi lên niềm tịnh tín nơi Tam Bảo, bèn quì xuống tác bạch rằng:

“Bạch Đại Đức, từ trước đến nay trẫm đã gây nhiều ác nghiệp. Nay trẫm xin thành tâm sám hối các tội để phục thiện. Trẫm xin qui y Phật – Pháp – Tăng để tạo những việc lành kể từ ngày nay đến trọn đời”.

Đại Đức Samudda phán rằng: “Sādhu! Sādhu! Lành thay! Lành thay! rồi Ngài biến đi mất.

Vua Asoka liền hạ lịnh phá hủy chốn địa ngục bồng lai ấy, và bắt đầu từ đấy, nhà vua tận tâm hộ pháp và dạy bảo dân chúng sống đạo đức theo tinh thần Phật giáo. Thần dân trong nước thấy vua thay đổi tâm tính và trở nên độ lượng khoan hồng, bèn tặng cho vua mỹ danh là Dhammāsoka (Pháp Vương Asoka hay Minh Vương Asoka).

Nhờ dựa trên tinh thần Phật giáo, đem chánh pháp áp dụng vào chính sách cai trị của vua Asoka nên đất nước Ấn Độ bấy giờ được thái bình thạnh trị, hùng cường vào bậc nhất.

Đức vua Asoka vì đã thống nhất toàn lãnh thổ Ấn Độ, thành vị đại đế, quyền hành rộng lớn bao gồm các nước chư hầu. Nên sau khi qui y theo Phật giáo rồi, đức vua tự thân đến thành Rājagaha thỉnh trọn phần Xá Lợi Phật được an vị trong thánh tháp mà vua Ajātasattu kiến tạo, để mang về Pātaliputta; đức vua cũng ra lịnh cho sáu vị vua xứ chư hầu mang nạp tất cả Xá Lợi Đức Phật trong xứ của họ đã được chia sớt tại Kusinārā sau lễ trà tỳ kim thân Đức Phật. Sau đó đức vua Asoka đã khiến thợ làm 84.000 hộp nhỏ bằng vàng chạm trổ khéo léo và 84.000 cái bình lớn hơn cũng bằng vàng, rồi phân chia Xá Lợi làm 84.000 phần đều nhau và an trí vào 84.000 cái hộp nhỏ, đặt vào 84.000 cái bình lớn. Xong việc, đức vua cho phân phát khắp nơi xứ Ấn Độ. Chỗ nào cũng xây ngôi tháp để tôn trí Xá Lợi.

Cách thức qui định là chỗ có dân cư từ 10 triệu, xây tháp Xá Lợi, bốn chỗ động tâm, xây tháp Xá Lợi, mỗi nơi nào có sự tích liên quan đến Đức Phật khi Ngài còn tại thế, xây tháp Xá Lợi.

Đức vua Asoka khuyến khích hoàng đệ Vitasoka xuất gia theo Phật pháp, đồng thời cũng cho hoàng tử Mahinda và công chúa Saṅghamittā gia nhập giáo hội tỳ kheo, tỳ kheo ni, cả ba vị này đều chứng quả A la hán.

Đức vua Asoka đã xây dựng vô số kiến trúc đền thờ có chạm trổ những sự tích Đức Phật và khắc chỉ dụ của vua trên những bia đá khuyên bảo dân chúng sống theo Phật pháp, lại dựng cột trụ nơi bốn thánh địa động tâm để lưu dấu tích: Đản Sanh, Thành Đạo, Chuyển Pháp Luân, Níp Bàn của Đức Phật.

Đức vua Asoka sau khi cho hai người con xuất gia, đã trở thành quyến thuộc thừa kế Phật giáo nên càng tịnh tín Tam Bảo. Mỗi ngày đức vua xuất ra 500.000 đồng Kahāpana cúng dường tứ sự đến Tăng chúng đầy đủ dồi dào. Cũng vì thế mà các nhóm tu sĩ ngoại đạo đã xâm nhập vào Tăng đoàn Phật giáo sống lẫn lộn với các vị tỳ kheo chân chánh để thọ hưởng lợi lộc vì ở ngoài họ bị thiếu thốn. Họ gia nhập hàng Tăng chúng nhưng vẫn có sở hành phi pháp tà kiến. Do đó, nội bộ chư Tăng bị xáo trộn không thể hành Tăng sự với nhau được, tình trạng kéo dài suốt bảy năm. Sau đó, chư tỳ kheo trình sự kiện này cho đức vua biết.

Đức vua Asoka có đức tin Phật pháp, thấy mình phải có trách nhiệm chấn hưng Phật giáo, nên đức vua đã học hỏi chánh pháp từ vị Thánh Tăng Mog-galliputtatissa. Thế rồi đức vua thỉnh mời tất cả chư tỳ kheo trong thành họp hội tại chùa Asakārāma tổ chức một cuộc vấn đạo. Đức vua làm giám khảo sát hạch pháp luật từng vị tỳ kheo do chư Trưởng lão làm hội đồng chứng minh. Cuối cùng qua cuộc thanh lọc, đức vua đã loại ra được 60.000 vị tỳ kheo giả mạo, cho hoàn tục thành người cư sĩ.

Khi Tăng chúng đã được thanh lọc, Trưởng lão Moggalliputtatissa họp Tăng 6 triệu tỳ kheo để hành Tăng sự Uposatha. Ngài đã chọn ra 1000 vị tỳ kheo A la hán tuệ phân tích, thông thuộc tam tạng và chú giải để kết tập kinh điển. Đức vua Asoka bảo trợ cho kỳ kết tập này. Đây là kỳ kết tập tam tạng lần thứ ba, vào năm Phật lịch 235.

Đức vua Asoka không những đã hộ độ chư Tăng phát triển Phật giáo trong nước, mà còn hỗ trợ Tăng truyền bá Phật giáo sang các nước lân cận. Vào năm Phật lịch 236, sau khi kết tập kinh điển, Ngài Moggalliputtatissa biết được Phật giáo sẽ được hưng thịnh ở ngoại quốc chớ không tại Ấn Độ, nên Ngài đã cử chư trưởng lão đi truyền bá Phật giáo sang các xứ lân bang, gồm có chín đoàn. Đức vua Asoka rất quan tâm và giúp đỡ chín đoàn sứ giả được thuận lợi đi đến các xứ để truyền đạo.

Đức vua Asoka là bậc cư sĩ đại hộ pháp với những công trình như vậy, và cho đến cuối cuộc đời, nhà vua vẫn còn nghĩ đến việc cúng dường Tam bảo bằng cách để lại di ngôn cho các quan thừa hành dâng hết cõi đất Diêm Phù (Ấn Độ) đến Tam bảo. Các quan phải xuất quốc khố mua lại giang sơn cho vị tân vương.

Xét về lòng tịnh tín bất động đối với Tam Bảo thì vua Asola không bằng trưởng giả Anāthapiṇḍika và đại tín nữ Visākhā, vì hai vị này là bậc thánh Tu đàhuờn. Nhưng nói về công trình chấn hưng và truyền bá Phật giáo thì đức vua Asoka vẫn chiếm ưu thế hơn.

I.5. QUẢ VỊ TU HÀNH CỦA NGƯỜI CƯ SĨ

Có bốn quả vị (phala) tu hành của đời sống phạm hạnh:

1- Quả vị Nhập Lưu (Sotāpattiphala) cũng gọi là Dự lưu, Sơ quả, Tu đà huờn.

Gọi là Nhập lưu hay Dự lưu, nghĩa là dự vào dòng thánh vức; khi đắc quả vị này rồi thì không còn là phàm phu tánh, mà là bậc thánh, nhưng là thánh Hữu học.

Gọi là sơ quả vì đây là thánh quả thứ nhất trong bốn thánh quả.

Gọi là Tu đà huờn, tức là đọc âm của tiếng Sotāpatti.

Vị thánh nhập lưu đã đoạn trừ ba kiết sử là: thân kiến, hoài nghi và giới cấm thủ. Vị thánh nhập lưu có thể còn tái sanh nhưng không quá bảy lần (vì vậy cũng gọi là Thất lai), và nếu có tái sanh cũng chỉ sanh ở cõi vui, nhất định không sanh đọa vào 4 khổ cảnh.

2- Quả vị Nhất lai (Sakadāgāmiphala), cũng gọi là Nhị quả, Tư đà hàm.

Gọi là Nhất lai, vì bậc này nếu có tái sanh nữa thì chỉ một lần sanh lại cõi dục rồi đắc vô dư y Níp bàn.

Gọi là nhị quả, vì đây là thánh quả thứ hai trong bốn thánh quả, quả vị cao hơn nhập lưu, nhưng cũng là thánh hữu học.

Gọi là Tư đà hàm, tức là đọc âm của tiếng Sakadāgāmi.

Vị thánh Nhất lai tiếp tục giảm trừ hai kiết sử là: dục ái và sân.

3- Quả vị Bất lai (Anāgāmiphala), cũng gọi là Tam quả, A na hàm.

Gọi là Bất lai, vì bậc này sẽ không còn tái sanh lại cõi dục nữa, vị ấy sẽ hóa sanh vào cõi Tịnh cư sắc giới và vô dư y Níp bàn ở đó.

Gọi là tam quả, vì đây là thánh quả thứ ba trong bốn thánh quả, là quả hữu học cao hơn Tu đà huờn và Tư đà hàm.

Gọi là A na hàm, tức là đọc âm của tiếng Anāgāmi.

Vị thánh Bất lai đã hoàn toàn đoạn diệt năm hạ phần kiết sử là: thân kiến, hoài nghi, giới cấm thủ, dục ái và sân.

4- Quả vị Ưng Cúng (Arahattaphala), cũng gọi là tứ quả, A la hán.

Gọi là Ưng Cúng, vì là bậc xứng đáng cúng dường bởi người đời.

Gọi là tứ quả vì đây là quả vị thứ tư, quả vị cao tột trong bốn thánh quả.

Gọi là A la hán, tức đọc âm của tiếng Arahatta hay Arahaṃ.

Vị thánh A la hán đã hoàn toàn thanh tịnh phiền não, cắt đứt năm thượng phần kiết sử còn dư sót, là Ái sắc, Ái vô sắc, ngã mạn, phóng dật, và vô minh.

Vị A la hán không còn sự tái sanh, nên gọi là bậc vô sanh, vị ấy phạm hạnh đã thành, việc nên làm đã làm, gánh nặng đã đặt xuống, nên gọi là bậc vô học.

Đối với bốn quả vị phạm hạnh này, người tại gia cư sĩ đều có thể đạt được cả.

Tuy vậy, với phẩm mạo cư sĩ khó có người đắc quả A la hán, nếu có thì không giữ được thọ mạng lâu dài. Một ngươi cư sĩ nếu đắc A la hán, có hai sự kiện xảy ra, một là phải lập tức thay đổi phẩm mạo thành bậc xuất gia, hai là phải viên tịch Níp bàn ngay trong ngày hôm ấy.

Trong kinh Milindapañhā, đức vua Milinda bạch hỏi ngài Nāgasena tại sao người cư sĩ không duy trì được mạng khi đắc quả vị A la hán?

Ngài Nāgasena giải thích rằng, vì phẩm mạo của cư sĩ quá thấp thỏi yếu kém, không kham nổi với quả vị cao thượng A la hán. Ngài có thí dụ: người bụng yếu không ăn được vật thực khó tiêu hóa, hoặc như bụi cỏ lau không nâng đỡ nổi tảng đá đặt lên, hoặc như người bần tiện dốt nát không kham nổi địa vị đế vương v.v…

Những cư sĩ đắc A la hán vẫn có, như là vua Tịnh Phạn (Suddhodana), Đại thần Santati, du sĩ Bāhiya-dārucariya v.v…

Phẩm mạo cư sĩ chỉ có thể kham nổi và tương xứng với quả vị thánh hữu học Tu đà huờn, Tư đà hàm, và A na hàm. Nhưng vị cư sĩ A na hàm thì sống ly thân với gia đình vì pháp tánh của vị thánh này đã diệt dục. Vị cư sĩ Tư đà hàm thì cũng không mấy thiết tha với đời sống gia đình vì bậc ấy đã hạn chế dục vọng. Đa phần cư sĩ vào thời Đức Phật chứng đạt quả vị Tu đà huờn, một quả vị bất thối niềm tin Tam bảo và chắc chắn đang hành trình đạo lộ đến Níp-bàn.

Những cư sĩ đắc Tu đà huờn, như ông Anāthapiṇḍika, ông Jīvika, vua Bimbisāra, bà Visākhā v.v…

Những cư sĩ đắc Tư đà hàm, như Sumanā con gái ông Cấp-cô-độc, Mahānāma ông hoàng Thích ca v.v…

Những cư sĩ đắc A na hàm, như thiện nam Chattapāni ở Sāvatthī, gia chủ Citta ở Macchikāsaṇda, gia chủ Ugga ở Vesāli, Mẹ của thôn trưởng Mātikāgāma, cha và mẹ của nàng Māgandiya v.v…

Các vị chư thiên phạm thiên cũng gọi là cư sĩ vì các chúng sanh này không có phẩm mạo xuất gia. Họ cũng đắc quả vị thánh nhân vô số kể mỗi khi Đức Phật thuyết pháp.

I.6. VAI TRÒ CƯ SĨ TRONG PHẬT GIÁO

Đức Phật có tâm đại bi với chúng sanh, Ngài thuyết pháp vừa theo trình độ và hoàn cảnh của mỗi người, để họ có thể thực hành theo giáo pháp hầu được an vui hạnh phúc và giải thoát khỏi khổ luân hồi như Ngài.

Giáo pháp của Đức Phật ứng dụng cho cả hai giới xuất gia và tại gia.

Người cư sĩ trong Phật giáo cũng có trách nhiệm nặng nề đối với việc tồn vong của chánh pháp.

Đức Phật có thuyết rằng:

“Ở đây, sau khi Như Lai nhập diệt, các tỳ kheo, các tỳ kheo ni, nam cư sĩ, nữ cư sĩ sống tôn trọng và qui thuận bậc Đạo Sư, sống tôn trọng và qui thuận giáo pháp, sống tôn trọng và qui thuận Tăng chúng, sống tôn trọng và qui thuận học giới, sống tôn trọng và qui thuận lẫn nhau. Đây là nguyên nhân chánh pháp được tồn tại lâu dài sau khi Như Lai viên tịch” (A.III.247).

Người cư sĩ Phật giáo, đúng nghĩa là cận sự nam và cận sự nữ không phải là người chi đến với Phật giáo như một học giả nghiên cứu triết học Đông phương. Mà phải nhận thức rõ vai trò của mình đối với Phật pháp, phải thiết tha sống theo tinh thần lời dạy của Đức Phật để hướng tìm mục đích giải thoát, thành tựu hạnh phúc thật sự.

Người cư sĩ chân chánh trong Phật giáo có hai vai trò:

1. Vai trò người hộ pháp (Dhammarakkhaka).
2. Vai trò người thừa tự pháp (Dhammadāyadaka).

Vai trò hộ pháp

Hộ pháp tức là hộ trì Tam bảo: hộ trì Phật bảo, hộ trì Pháp bảo, hộ trì Tăng bảo.

Hộ trì Phật bảo, gọi là hộ pháp. Vì rằng Đức Phật là bậc giác ngộ chân lý, bậc đã tìm ra pháp giải thoát, bậc kính trọng chánh pháp. Do vậy, sự hộ trì Phật bảo cũng gọi là hộ pháp.

Hộ trì Pháp bảo, gọi là hộ pháp. Vì rằng giáo lý của Đức Phật là pháp đem đến sự an vui cho chúng sanh thiết thực hiện tại, lợi ích tương lai, và thoát khỏi luân hồi. Giữ vững giáo pháp cho đúng tinh thần chánh pháp, không để bị mai một, bị sai lệch văn cú ý nghĩa lời dạy của Đức Phật. Đó gọi là hộ pháp.

Hộ trì Tăng bảo, gọi là hộ pháp. Vì rằng Tăng chúng là những vị đệ tử thừa hành giáo lý của Đức Phật, truyền thừa Phật pháp tồn tại trong thế gian ngay khi Đức Phật còn tại thế và sau khi Đức Phật níp bàn. Tăng chúng còn là Giáo pháp còn, do đó sự hộ trì Tăng bảo cũng là hộ pháp.

a) Hộ trì Phật Bảo

Người cư sĩ hộ trì Phật bảo bằng bốn hình thức sau đây:

1- Giữ vững niềm tin đối với Đức Phật, không có hoài nghi sự giác ngộ của Ngài.
2- Hằng tán dương Đức Phật và hoan hỷ người khác tán dương Đức Phật.
3- Thường xuyên lễ bái Đức Phật qua hình, tượng, xá lợi.
4- Xây dựng đền tháp, tôn thờ Phật cảnh trang nghiêm để tôn vinh Đức Phật. Nếu không có khả năng tự mình làm thì ủng hộ người khác cùng làm.

Việc thờ phụng Đức Phật, người cư sĩ làm vai trò ấy là hợp lý hơn các vị xuất gia. Khi Đức Thế Tôn sắp viên tịch, tôn giả Ānanda đã bạch hỏi Ngài về việc xử sự đối với thân Xá Lợi của Thế Tôn phải như thế nào? Đức Phật bảo rằng:

“Này Ānanda, các ngươi chớ bận lo việc thờ phượng Xá Lợi của Như Lai; hãy tinh tấn tự lợi, hãy chuyên cần tự lợi, hãy sống nỗ lực nhiệt tâm, không dể duôi. Này Ānanda, có các hiền trí Sát đế lỵ, các hiền trí Bà la môn, các hiền trí gia chủ tín ngưỡng Như Lai, những người ấy sẽ thờ phượng thân xá lợi của Như Lai” (D.II.141).

b) Hộ trì Pháp bảo

Người cư sĩ hộ trì Pháp bảo bằng năm hình thức sau đây:

1- Giữ vững niềm tin đối với giáo pháp, không có hoài nghi về hiệu năng hướng thượng của Giáo pháp.
2- Siêng năng học hỏi giáo pháp, thọ trì đúng chánh pháp, không mê tín dị đoan, không xu hướng ngoại đạo.
3- Hoan hỷ cúng dường đến các vị tỳ kheo, sa di là bậc đa văn, những vị học pháp, hành pháp và duy trì giáo pháp.
4- Có sự ưu tư trong việc chấn hưng Phật pháp khi thấy có dấu hiệu bi suy thoái, bị phá hoại.
5- Tùy khả năng của mình, hỗ trợ chư Tăng kết tập kinh điển, in ấn sách kinh, mở trường lớp Phật học v.v…

Từ thời Đức Phật đã có những tấm gương cư sĩ hộ pháp như ông Anāthapiṇḍika, bà Visākhā, vua Pasenadi, sau này có vua Asoka … chẳng những họ cúng dường vật chất hộ độ Đức Phật và Tăng chúng mà họ còn rất quan tâm để hộ trì chánh pháp, cũng cố Phật pháp, làm sao cho giáo pháp hưng thịnh.

Người cư sĩ hộ trì chánh pháp nổi bậc nhất là đức vua Asoka (A Dục vương). Với quyền hành của mình, nhà vua đã cố gắng học Phật pháp cho thông suốt để sàng lọc ra những vị tu sĩ giả danh gây xáo trộn trong Phật giáo, nhà vua cũng đã nhiệt tâm hộ độ chư Tăng kết tập kinh điển lần thứ ba, nhà vua cũng tận tâm giúp đỡ chư Tăng đi hoằng pháp mở mang Phật giáo đến các nước lân bang …

c) Hộ trì Tăng bảo

Người cư sĩ hộ trì Tăng bảo bằng năm hình thức sau đây:

1- Có niềm tin vững chắc nơi Tăng chúng, không vì lý do một vài phần tử cá nhân xấu mà mất niềm tin với Tăng chúng.
2- Thường xuyên hộ độ cúng dường các nhu cầu vật chất đến chư tăng.
3- Luôn luôn bảo vệ uy tín và thanh danh cho Tăng chúng.
4- Quan tâm đến sự an nguy thịnh suy của Tăng chúng, đồng vui cộng khổ với chư tăng.
5- Đối xử với Tăng chúng bằng sự kính trọng và nhu thuận.

Các cư sĩ thời Đức Phật như ông Jīvakakomārabhacca, bà Visākhā, vua Pasenadi … là những người hộ Tăng tiêu biểu, vừa hộ độ thực phẩm, vừa bảo vệ thanh danh chư tăng, vừa khéo góp ý nhắc nhở những vị có hành vi sai trái để chấn chỉnh giáo hội tốt đẹp.

Vai trò thừa tự pháp

Thừa tự (dāyada) là sự kế thừa, thừa hưởng, như là thừa tự tài sản, thừa hưởng gia sản v.v… thừa tự pháp là kế thừa Giáo pháp của Đức Phật.

Trong kinh Trung Bộ, Đức Thế Tôn có dạy rằng: “Này các tỳ kheo, các ngươi hãy là người thừa tự pháp của ta, đừng là người thừa tự tài vật – Dhamma-dāyādā me bhikkhave bhavatha mā āmisadāyādā” — (M.I.12).

Ở vai trò thừa tự pháp, người cư sĩ có ba phận sự:

– Học hỏi giáo lý
– Thực hành giáo pháp
– Duy trì Phật giáo

a) Học hỏi giáo lý

Để lãnh hội những tinh hoa Phật pháp và có được chánh kiến, người cư sĩ phải siêng năng học hỏi giáo lý, ưa thích tìm hiểu Phật pháp. Sự học hỏi giáo lý cho thông suốt, gọi là thừa tự pháp. Ví như một người con kế thừa sự nghiệp của ông cha, là phải biết được giá trị những gì mà ông cha đã để lại, cũng vậy, giáo pháp mà đấng từ phụ đã để lại, đệ tử xuất gia hay tại gia phải chuyên cần học tập để biết được giá trị của giáo pháp ấy, như thế mới đáng gọi là đệ tử thừa tự pháp.

Người cư sĩ học hỏi giáo lý bằng nhiều phương tiện, có thể bằng cách nghe chư Tăng thuyết Phật pháp.

Hoặc có thể học hỏi bằng cách nghiên cứu tham khảo kinh sách Phật giáo.

Hoặc có thể học hỏi bằng cách tìm gặp nhau để đàm luận Phật pháp.

Các cư sĩ thời xưa khi đến viếng thăm Đức Phật hay các vị Tỳ kheo, bao giờ họ cũng hoan hỷ nghe pháp, thiết tha học giáo pháp, như vua Pasenadi, ông Anāthapiṇḍika, bà Visākhā v.v… Có vậy mới xứng đáng gọi là cư sĩ thừa tự pháp.

b) Thực hành giáo pháp

Người cư sĩ không phải chỉ đơn thuần là người có tín ngưỡng tôn giáo, là người theo đạo Phật. Người cư sĩ phải sống theo pháp, thực hành giáo pháp, chấp nhận giáo pháp ứng dụng vào đời sống như là một nhu cầu không thể thiếu. Người cư sĩ có thực hành như vậy mới hưởng được hương vị tuyệt vời của giáo pháp, như khi có nếm qua món ăn rồi mới thưởng thức được hương vị của món ăn đó. Gọi là người cư sĩ thừa tự pháp, phải thật sự cảm nhận được sự đặc thù của chánh pháp qua kinh nghiệm tu tập.

Người cư sĩ ngoài việc học hỏi giáo lý thông suốt, còn phải thực hành nữa. Khi nào còn người thực hành theo giáo pháp thì khi đó Phật pháp còn tồn tại, bởi thế vai trò thừa tự pháp của người cư sĩ cũng rất quan trọng.

Sự thực hành giáo pháp, tức là hành theo ba điều căn bản:

“Không làm các điều ác” (Sabbapāpassa akaraṇaṃ). Nghĩa là người cư sĩ sống né tránh không làm điều tội lỗi như sát sanh, trộm cắp, tà dâm, nói dối, nói chia rẽ, nói độc ác, nói vô ích, tham lam, sân hận và tà kiến.

“Thực hiện các việc lành” (Kusalassa upasampadā). Nghĩa là người cư sĩ thiết tha làm những điều thiện như bố thí, trì giới, tu tiến, cung kính, phục vụ, thính pháp, nói pháp, hồi hướng phước, tùy hỷ phước và cải chánh tri kiến.

“Thanh lọc nội tâm” (Sacittapariyodapanaṃ). Nghĩa là người cư sĩ tinh tấn thiền định để rèn luyện nội tâm, làm cho tâm trong sạch không bị ô nhiễm bởi phiền não tham, sân, si.

Sự tu tập của người cư sĩ theo ba điều trên, gọi là người cư sĩ thực hành giáo pháp.

c) Duy trì Phật giáo

Người cư sĩ thừa tự pháp, ngoài hai phận sự là học hỏi giáo lý và thực hành giáo pháp, còn có một phận sự nữa cũng rất quan trọng, đó là duy trì Phật giáo.

Phật giáo được tồn tại lâu dài là nhờ vào tứ chúng: tỳ kheo, tỳ kheo ni, cận sự nam và cận sự nữ hết lòng phụng sự duy trì chánh pháp. Trong tứ chúng ấy, tỳ kheo và tỳ kheo ni là hàng xuất gia; cận sự nam và cận sự nữ thuộc hàng tại gia cư sĩ. Bậc xuất gia đóng vai trò chính trong phận sự duy trì Phật pháp vững bền; còn đối với hàng cư sĩ chỉ là vai trò phụ.

Tuy người cư sĩ đối với phận sự duy trì Phật pháp là vai trò phụ nhưng không phải là không quan trọng. Vì nếu người cư sĩ không xuất gia hoặc cư sĩ cha mẹ không hoan hỷ cho con cháu xuất gia thì làm sao có tỳ kheo, tỳ kheo ni để duy trì Phật pháp? Lại nữa, nếu người cư sĩ không ủng hộ cúng dường hoặc bảo vệ Tăng chúng Phật giáo thì làm sao các vị tỳ kheo, tỳ kheo ni có điều kiện thuận lợi làm phận sự duy trì Phật pháp?

Bởi thế, người cư sĩ cũng có phận sự duy trì Phật giáo là gián tiếp. Và người cư sĩ duy trì Phật giáo được gọi là người thừa tự giáo pháp.

Một thời, khi đức vua Asoka (A Dục vương) trở thành Phật tử, đức vua đã ra sức xây cất 84.000 chùa tháp để tôn thờ Xá lợi Đức Phật. Đức vua bạch hỏi chư Thánh Tăng: Sự đại thí như vầy, không biết có ai đã từng làm chưa?

Trưởng lão Moggalliputtatissa thay mặt chư Tăng đã trả lời rằng:

“Thưa Đại vương, dù khi Đức Thế Tôn còn hiện tiền và cho đến nay cũng chưa có một ai làm được việc đại thí như thế này. Chỉ có Đại vương là nguời duy nhất làm được việc đại thí này thôi”.

Đức vua Asoka lắng nghe trưởng lão Moggalli-puttatissa trả lời, lòng tràn ngập phỉ lạc. Vua đã suy nghĩ, nếu ta là người đã làm được đại thí này chắc hẳn ta là người thừa kế Phật giáo (Dāyādo sāsanassa) chăng? Nghĩ vậy, Đức vua bèn bạch hỏi vị trưởng lão nữa.

“Kính bạch Tôn giả, trẫm đã làm được đại thí như thế, vậy trẫm có phải là người kế thừa của Phật giáo chăng?”

Trưởng lão đáp:

“Thưa đại vương, người chỉ bố thí bốn món vật dụng, dù có là đại thí chăng nữa cũng chỉ gọi là thí chủ vật dụng (paccayadāyaka), chứ chưa phải là người kế thừa Phật giáo (sāsanadāyada).

Đức vua liền hỏi vị trưởng lão, người thế nào mới gọi là kế thừa Phật giáo. Trưởng lão đáp:

“Những người cha mẹ nào hoan hỷ cho phép con của mình xuất gia trở thành tỳ kheo trong Phật giáo, như vậy, người cha mẹ ấy mới được gọi là người kế thừa Phật giáo.”

Đức vua Asoka nghe vậy khởi tâm tịnh tín bèn cho phép hai người con là hoàng tử Mahinda và công chúa Saṅghamittā xuất gia làm tỳ kheo và tỳ kheo ni trong Phật giáo. Sau khi xuất gia, cả hai vị đều đắc quả A la hán, và chính Đại Đức Mahinda đã mở đầu công cuộc hoằng hóa giáo pháp tại xứ Tích Lan.

Các bậc xuất gia duy trì Phật pháp bằng cách hoằng pháp, còn đối với người cư sĩ thì duy trì Phật pháp bằng cách hộ độ chư Tăng hoằng pháp, và tạo người nối truyền hoằng pháp, tức là nếu con em có ý muốn xuất gia thì mình khích lệ, động viên, và hoan hỷ cho phép.

DỨT CHƯƠNG I

-ooOoo-

Hits: 596

Trang: 1 2 3 4 5

Trả lời