CHẾT AN LẠC, TÁI SINH HOAN HỶ -Peaceful Death, Joyful Rebirth

CHẾT AN LẠC TÁI SINH HOAN HỶ
Nguyên tác Anh ngữ: Peaceful Death, Joyful Rebirth
của đại sư học giả Tulku Thondup
Việt dịch: HT. Thích Như Điển & TT. Thích Nguyên Tạng
Chùa Viên Giác Hannover, Đức Quốc
Tu Viện Quảng Đức, Melbourne, Úc Châu ấn hành 2011

Chương 04

CÕI TRUNG ẤM BARDO

Không còn một vật chất nào kiềm chế chúng ta.
Những thói xấu của chúng ta xuất hiện như cõi huyền ảo và đáng sợ.
Những tánh tốt của chúng ta xuất hiện như cõi phúc lạc
Vậy chúng ta phải nhớ gây dựng và gìn giữ những phẩm tính tâm linh.

Đối với người bình thường, cõi chuyển tiếp, cõi trung ấm (bardo) bắt đầu khi tâm thức người chết phục hồi. Cõi trung ấm chấm dứt vào lúc thọ thai của kiếp sau. Đối với những hành giả Mật giáo nhiều kinh nghiệm, cõi bardo bắt đầu với những linh thị quang minh tự hiện diện hoặc bắt đầu lúc những linh thị này chấm dứt.

Trong khi hấp hối, tâm chúng ta vẫn gắn liền với thể xác. Giai đoạn kế tiếp, tiến trình của chơn tánh tối thượng, thường quá ngắn nên người bình thường khó người thấy nó được. Vì vậy, cõi bardo, tức giai đoạn chứng nghiệm chơn tánh và kiếp sau, là sự kiện lớn sau khi chết, giai đoạn quan trọng nhất của cuộc sống chúng ta, và là khoảng thời gian dài nhất trong ba giai đoạn chuyển tiếp đầu tiên.

Nói chung, giai đoạn trung ấm thân kéo dài khoảng bảy tuần (bốn mươi chín ngày), nhưng cũng có thể ngắn hơn nhiều, hoặc trong một số trường hợp hiếm có, có thể kéo dài hơn. Trong phân nửa thời gian đầu của giai đoạn chuyển tiếp này, chúng ta có thể cảm thấy mình có thể xác và tình cảm của kiếp trước mà mình vừa mới trải qua. Trong phân nửa thời gian còn lại, chúng ta có thể cảm thấy mình có thân xác và kinh nghiệm của kiếp tái sanh sắp tới.

NHỮNG KINH NGHIỆM CỦA CÕI TRUNG ẤM BARDO

Trong cõi trung ấm, phần lớn chúng ta cảm thấy mình đang đi qua một con đường hay những đường hầm hẹp, băng qua một sa mạc, vượt qua những chiếc cầu trên những dòng sông chảy xiết, bị Thần Chết (Lords of Dead) phán xử, có thể bị những đao phủ hành hình và đẩy xuống địa ngục, được tới các cõi cao hơn hoặc những cõi trời thanh tịnh. Tất cả những chứng nghiệm này đều là phản ứng của những thói quen về thể chất, văn hóa, tâm trí và tình cảm mà chúng ta đã tích lũy trong quá khứ.

Chúng ta có thể cảm thấy như thể mình bị ép ra khỏi một đường hầm tối chật hẹp khi thần thức thoát ra khỏi thể xác đã chết. Ở cuối đường hầm, chúng ta có thể thấy một khung cửa hoặc cửa sổ với ánh sáng chiếu qua. Đây có thể là khe hở ở đỉnh đầu hay một trong chín lỗ hổng của cơ thể. Cho đến khi có thể loại bỏ những thói quen đã bắt rễ sâu mà mình dung dưỡng và tìm thấy lối giải thoát trọn vẹn, chúng ta sẽ trôi lăn trong vòng luân hồi sanh tử vô tận, giống như một con ong bị nhốt trong phòng kín.

Trong cõi trung ấm bardo, nhiều người cùng nhau kinh nghiệm những loại cõi giới giống nhau, vì họ đang thọ lãnh những quả báo giống nhau mà họ đã gieo trồng trong quá khứ. Nhưng trong một số trường hợp, kinh nghiệm sẽ là cảm nhận hoàn toàn chủ quan của người qua đời, không có sự tham gia thực sự nào của người khác, dù có thể người chết có thể cảm thấy có nhiều người đang cùng chia sẻ kinh nghiệm ở một cõi giới nào đó với mình. Ví dụ, chúng ta sẽ thấy ở chương 5, vị delog Do Khyentse cảm thấy em gái của mình và những người khác đi cùng với mình trong chuyến đi đến cõi tịnh độ, nhưng thực ra thì bà vẫn còn sống ở thế gian và đang bận học hành tại Tu viện Yarlung.

Như đã nói ở phần trước, nếu chúng ta là những hành giả có chứng ngộ cao đã đạt giác ngộ trong cuộc sống hoặc trong tiến trình chơn tánh tối thượng, chúng ta có thể không cần phải trải qua giai đoạn trung ấm bardo.

Nếu đã tích lũy rất nhiều công đức và có một số kinh nghiệm thiền quán, chúng ta sẽ đi qua cõi trung ấm bardo, nhưng với ít cảm giác sợ hãi và đau khổ. Do năng lực công đức và chứng nghiệm thiền quán, chúng ta sẽ có thể tái sanh vào một cõi tịnh độ hiển lộ tự nhiên, hoặc ít nhất cũng thác sanh vào một trong những quốc độ hạnh phúc của thế gian.

Nếu tâm ta dung chứa đầy những nghiệp bất thiện, chúng ta không thể chứng nghiệm chơn tánh tối thượng và sẽ bị hoảng sợ vì những âm thanh tự nhiên và những hình ảnh ánh sáng, tia sáng hay những vật khác. Có thể chúng ta còn không dám nhìn những linh thị đó, và cũng sẽ không thể hiểu rằng chúng chính là sự biểu lộ chơn tánh của bản thân mình, mà chúng ta sẽ vật lộn với chúng như những vật đối tượng trong hình thức những lực lượng tương tranh với nhau. Những cảm nhận xấu có tính cách tranh chấp đó có thể đưa chúng ta đọa vào cõi địa ngục.

Trong cõi trung ấm bardo, thần thức của chúng ta hoàn toàn lìa khỏi thể xác. Tâm thức của ta đã để lại phía sau hình hài mà mình đã yêu quý và giờ đây nó chỉ là một cái xác chết, không thở, và không cử động. Thần thức của chúng ta sẽ phiêu du khắp nơi mà không có bất cứ thân vật chất thô nặng nào để giữ nó đứng vững một chỗ. Chúng ta có thể có một thân thể do tâm mình tạo ra, rất có thể được tưởng tượng ra theo thói quen quá khứ. Có một số bản văn mô tả thân này là một thân tinh tế làm bằng một thứ ánh sáng nhẹ. Nhưng có thể chúng ta vẫn nghĩ rằng mình có thân thể trước đây và mình vẫn còn sống.

Chúng ta có thể trải qua những kinh nghiệm sau: chúng ta sẽ không cảm thấy ổn định, và những cảm giác của chúng ta, những hoàn cảnh xung quanh mình sẽ liên tiếp thay đổi, tùy theo sự thay đổi trong ý nghĩ và sự ảnh hưởng nghiệp lực của chúng ta. Chúng ta sẽ thấy mình cùng với một người nào đó hay đang ở một nơi nào đó mà mình đang nghĩ đến, trừ khi nơi đó ở bên ngoài phạm vi nghiệp quả của mình. Nếu chúng ta nghĩ đến Thành phố New York, chúng ta sẽ ở đó ngay tức khắc mà không cần phải tốn thời gian và nỗ lực di chuyển đến đó, vì thân xác của chúng ta là một thân tâm thức chứ không phải thân vật chất.

Việc di chuyển đối với chúng ta là chuyện dễ, nhưng sự ổn định tại vị trí là một vấn đề. Chúng ta sẽ khó trụ lại ở một chỗ và khó chú tâm vào một ý nghĩ nào đó, vì chúng ta luôn luôn di chuyển, phất phơ, trôi nổi và bị đẩy đi vòng vòng. Chúng ta liên tục chạy, bay, và di chuyển đây đó, giống như lông chim trong cơn bão, không có sức
chịu đựng.

Tâm chúng ta sẽ nhạy bén hơn nhiều so với khi còn sống trong nhơn gian. Chúng ta sẽ trông thấy và nghe nhiều người khác, cũng giống như chúng ta đang lang thang trong cõi trung ấm bardo. Chúng ta có khả năng thấu thị tiên tri ở một mức độ nào đó, đọc được ý nghĩ của người khác, nhưng chúng ta sẽ ít có năng lực để lý luận và phân tích hơn, vì thiếu sự tập trung tâm trí. Từ lúc này đến lúc khác, tâm chúng ta dao động qua nhiều thay đổi của sướng và khổ, hy vọng và lo sợ, an lạc và phiền não. Có khi chúng ta cảm thấy mình gặp nguy hiểm từ những lực của tự nhiên, như thể chúng ta bị chôn vùi dưới những ngôi nhà, hang động hay đất lỡ; bị té và chìm xuống nước; bị thiêu trong đống lửa củi hay trong một vụ cháy nhà, và bị cuốn đi trong một cơn gió bão. Có lẽ đó là những kinh nghiệm tương tự với những sự phân giải trong lộ trình hấp hối, chỉ có điều ở đây chúng rõ rệt hơn và trực tiếp hơn.

Nếu nhìn thấy thi hài của mình, chúng ta có thể thấy nó một cách rõ ràng và có ý định muốn bảo vệ nó. Hoặc có thể chúng ta ghét nó và không muốn nhìn nó. Cũng có thể chúng ta không nhìn hay nhận ra xác chết của mình. Có khi, một cách bí ẩn, chúng ta có thể thấy nó trong một hình dạng khác, như xác của một con chó hay một con rắn. Việc nhìn xác chết của mình có thể giúp chúng ta nhận ra trong một lúc là biết mình đã chết, nhưng ngay sau đó chúng ta có thể không nhớ gì về điều này, vì chúng ta có rất ít sức mạnh tập trung để nhớ lại.

Đó là lý do một thời gian dài sẽ trôi qua trước khi chúng ta biết rõ là mình đã chết. Chúng ta có ít năng lực lý trí trong cõi trung ấm bardo. Do vậy lúc này chúng ta nhận ra là mình đã chết, nhưng ngay sau đó chúng ta sẽ quên đi và sẽ trở lại thói quen nghĩ là vẫn đang sống.

Có thể lúc nào chúng ta cũng tìm kiếm đồ ăn, nhưng chúng ta không thể thưởng thức được bất cứ một món ăn nào trừ khi có người cúng hay hồi hướng cho tên của chúng ta. Phần lớn chúng ta sẽ chỉ có thể hưởng được mùi của món ăn hơn là hưởng chính món ăn đó. Đó là lý do nhiều sách nói những chúng sanh ở trong cõi trung ấm bardo như “những người ăn mùi”. Trong phong tục Tây Tạng, đây chính là lý do người ta thiêu đốt thực phẩm cúng cho người chết trong nhiều tuần sau khi người đó qua đời.

Chúng ta có thể cảm thấy cô độc và không an toàn, và luôn tìm chỗ trú ẩn và ổn định. Mệt mỏi vì phiêu bạt trong những cơn bão nghiệp quả, tâm trí và cảm xúc, chúng ta sẽ tuyệt vọng tìm sự ổn định của một thân thể đến mức ít quan tâm đến loại tình trạng tương lai mà mình đang đi tới.

Một số người hồi tưởng lại những kinh nghiệm chết của mình, đúng như những gì mình đã trải qua, vào mỗi ngày thứ bảy sau khi chết, hết lần này đến lần khác, đặc biệt nếu đó là một cái chết bi thảm. Đó là lý do thân nhân của họ cúng thất tuần vào mỗi bảy ngày.

Chúng ta có thể tiếp cận với người thân hay những bạn bè của mình, nhưng chúng ta sẽ ngạc nhiên vì thấy họ không nhận biết mình. Chúng ta có thể ngồi xuống ở bàn ăn, nhưng không có ai mời hay phục vụ món ăn cho chúng ta. Chúng ta có nói chuyện với họ nhưng họ không nói chuyện với chúng ta. Chúng ta sẽ buồn và nghĩ rằng mọi người giận mình và không ai quan tâm đến mình nữa. Có thể chúng ta sẽ thấy người khác lục lọi những đồ đạc của mình và tự ý lấy đi những gì họ muốn, và chúng ta có thể nổi giận nghĩ rằng họ đang ăn cắp của mình. Trong những trường hợp như vậy, điều xấu nhất là chúng ta có thể làm cho mình rơi vào những cảm xúc sân hận. Do vậy, chúng ta nên tìm hiểu về những dấu hiệu của sự chết trong khi mình còn sống và luôn luôn tự nhắc nhở mình rằng “vào lúc chết, mình sẽ không rơi vào những cảm xúc xấu”.

TÒA PHÁN XÉT VÀ TUYÊN ÁN

Sau một thời gian, nhiều người trong chúng ta sẽ chứng kiến sự xuất hiện của các Thần Chết đến đưa chúng ta đi. Họ là những quan viên của Pháp Vương Thần Chết (Dharma King of the Dead). Pháp vương là vị có quyền lực cao nhất trong Tòa Phán Xét những người chết. Những Thần Chết xuất hiện trong nhiều hình dạng và vai trò khác nhau. Bạn có thể thấy họ đến gọi mình ra tòa, giao bản phán xét cho bạn và thi hành những án lệnh của Pháp Vương.

Đến lúc này, chúng ta sẽ rời bỏ chỗ ở cũ của mình và đi xa trong một hành trình khổ nhọc. Chúng ta sẽ thấy dường như mình đi bộ vất vả qua những con đường đèo rất cao trên núi và những con đường mòn nhỏ hẹp. Sau đó là vượt qua một sa mạc nóng vô tận. Rồi chúng ta đi qua một chiếc cầu dài và nguy hiểm bên trên một con sông nước lũ. Cuối cùng chúng ta sẽ đến tòa án của Pháp Vương của các Thần Chết. Tất cả những “hành trình” này là hệ quả của những tác động tâm trí, cảm xúc và văn hóa vốn đã in sâu trong tâm thức của chúng ta. Giờ đây chúng hiển lộ thành hình ảnh và những âm thanh bên ngoài, những cảm giác và sự lo sợ, cũng như những kinh nghiệm về luật pháp và trật tự, thưởng và phạt.

Những sự kiện mà chúng ta sẽ kinh nghiệm như bị các đấng quyền năng xét xử, bị những người đối địch tố cáo và được những người thân biện hộ, tất cả đều là hững sự hiển lộ của những thói quen mà chúng ta đã tích lũy trong kiếp sống vừa qua. Đó là lý do tại sao nếu chúng ta có thể gây dựng nhận thức thanh tịnh xem tất cả mọi người đều là những vị Phật, thì tất cả sẽ đến với chúng ta như những sự thị hiện của chư Phật, vì trong chơn tánh của họ, tất cả mọi người thực sự đều là những vị Phật.

Đối với những người mộ đạo, một vị Thần Bảo Hộ ( Guardian Deity) của người chết cũng sẽ xuất hiện, để đi cùng với người chết trong suốt cuộc hành trình của họ. Những Thần Bảo Hộ là những Bậc giác ngộ, có hình dạng một vị Thần nam hay nữ hoặc một vị đạo sư.

Tòa án của Pháp Vương là nơi mà kiếp sau của chúng ta sẽ được quyết định sau khi hồ sơ về những thiện nghiệp và ác nghiệp của chúng ta đã được xem xét. Chúng ta sẽ được những người thân thiện biện hộ cho chúng ta bằng cách trưng bày những bằng chứng về những nghiệp tốt của chúng ta. Những người tố cáo chống lại chúng ta sẽ đưa ra những bằng chứng về những ác nghiệp của chúng ta đã tạo. Họ kiểm tra những thiện nghiệp và ác nghiệp của chúng ta bằng một tấm gương trong đó sẽ phản chiếu những hành vi tốt hay xấu. Họ cũng đọc những sổ sách ghi chép những hành vi của chúng ta và đếm những viên sỏi để đo lường những hành động tốt xấu trên hai đĩa cân. Cũng vậy, những điều này chỉ là sự phản chiếu của những thói quen văn hóa của chúng ta về phê phán, biện hộ và buộc tội vốn đã ăn sâu trong tâm thức của chúng ta.

Tòa án của Thần Chết không phải là nơi để cầu xin hay tỏ ra mình khôn ngoan, vì nó không phải là một phiên tòa dựa trên luật pháp chuyên nghiệp, mà chính là sự biểu lộ của con người thật của chúng ta là gì.

Trong lời kể của các delog được ghi lại ở chương kế tiếp, chúng ta sẽ thấy người chết đi qua những cõi địa ngục và những cõi giới hạnh phúc khác nhau. Nhưng các delog này không phải là những người bình thường mà họ có nhiệm vụ thu thập lại những thông tin để hướng dẫn cho người khác biết. Ngược lại, những người bình thường, chúng ta sẽ không cần phải đi qua các cõi khác nhau, vì Thần Chết sẽ đưa chúng ta đến thẳng cõi giới nào mà nghiệp báo của chúng ta đã quy định.

NHỮNG ĐIỀM CHO BIẾT TRƯỚC VỀ KIẾP SAU

Trong những giai đoạn cuối của cõi trung ấm bardo, chúng ta sẽ trông thấy những ánh sáng có nhiều màu sắc khác nhau. Những ánh sáng này phát sanh từ nghiệp và cảm xúc của chúng ta, và cho ta thấy cõi tái sanh đang chờ đợi chúng ta ở phía trước. Chúng ta sẽ trông thấy ánh sáng màu trắng, nếu đã tạo nghiệp tốt nhưng đã có cảm xúc chính yếu là ngạo mạn hay tham dục, và như vậy chúng ta sẽ tái sanh trong cõi trời hay cõi người theo thứ tự đã định sẵn. Chúng ta sẽ trông thấy ánh sáng vàng nhạt, nếu đã có cảm xúc ganh tị hay si mê, khiến ta tái sanh vào cõi bán thần hay vào loài cầm thú theo thứ tự đã có sẵn. Cũng có những người trông thấy ánh sáng như màu đỏ để rồi bị đẩy vào cõi súc sanh và trông thấy màu giống như bão tuyết hay mưa bão và tái sanh vào cõi bán thần. Chúng ta sẽ thấy ánh sáng màu khói, nếu đã tạo ác nghiệp và đã có cảm xúc tham muốn hay keo kiệt, sẽ đẩy chúng ta tái sanh vào loài quỷ đói. Sau cùng, chúng ta có thể trông thấy ánh sáng màu đen giống như một khúc gỗ hay một lông cừu đen trôi nổi, nếu cảm xúc thù hận thì chúng ta sẽ bị đọa vào địa ngục.

Tuy nhiên, những sách khác nhau mô tả những màu ánh sáng khác nhau như dấu hiệu tái sanh vào các cõi luân hồi. Đại Sư Tsele viết rằng những màu ánh sáng của các cõi có thể không giống nhau trong tất cả các trường hợp.

Cõi tái sanh của chúng ta cũng có thể hiển lộ trong những hình ảnh biểu tượng. Nếu tái sanh vào cõi trời, chúng ta có thể cảm thấy mình ở trên một tầng cao của một tòa nhà. Nếu sẽ tái sanh vào cõi bán thần, chúng ta cảm thấy mình đang ở trong một bánh xe có những ngọn lửa. Nếu tái sanh làm người, chúng ta sẽ cảm thấy mình đang ở giữa nhiều người. Hoặc có thể cảm thấy đang đến một hồ nước với những con thiên nga, ngựa hay bò, hay đi vô một căn nhà, thành phố, hoặc một đám đông. Nếu rơi vào loài súc sanh, chúng ta cảm thấy mình đang ở trong một cái hang hay một cái lều trống không. Nếu đọa vào loài quỷ đói, chúng ta sẽ thấy mình đang ở trong một hang động khô khan. Những người phải rớt xuống địa ngục có thể ngay tức khắc nếu họ đã phạm những trọng tội, như vậy họ không thể trông thấy .

Khi đến thời điểm thọ thai vào cõi người, chúng ta sẽ thấy cha mẹ mình đang giao hình ảnh đặc biệt nào trong cõi chuyển tiếp trung ấm bardohợp. Nếu tái sanh làm nam tử, chúng ta có thể cảm thấy ganh tị với người cha tương lai của mình và tham muốn người mẹ tương lai của mình. Nếu kiếp sau sanh làm nữ nhân, chúng ta sẽ tham muốn người cha và ganh tị với người mẹ. Cảm xúc đó sẽ là điểm kích hoạt đưa chúng ta đi vào trong thai bào. Sanh ra trong thai bào là một trong bốn cách sanh thành. Những cách khác là noãn sanh (sanh ra bằng trứng như gà vịt), thấp sinh (sanh nơi ẩm ướt như loài côn trùng) và hóa sanh (sanh ra bằng sự biến hóa như ở cõi trời và ở địa ngục).

Nếu tin vào cõi Cực Lạc và có thể trì niệm danh hiệu Đức Phật A Di Đà Vô Lượng Quang, chúng ta có thể thác sanh vào cõi tịnh độ ngay tức khắc, giống như chim đại bàng bay qua bầu trời ngay khi chúng ta rời khỏi thể xác. Lúc đó, chúng ta có thể trông thấy những người thân hay kẻ thù gọi mình trở lại. Họ không phải là những người thực sự, mà chính là những cảm xúc của chúng ta, đánh lừa chúng ta như những chướng ngại.Vì vậy, chúng ta phải hoàn toàn tập trung tâm trí vào cõi tịnh độ. Đại Sư Chagme Rinpoche khai thị:

Khi con ở trên đường đến cõi tịnh độ,
Con có thể nghe cha mẹ, thân nhân hay bạn bè gọi,
“Chúng tôi đây. Đừng rời bỏ tôi. Hãy trở lại”
Họ có thể gọi tên con, kêu khóc và than thở.
Nhưng thực ra họ là những thế lực xấu cản trở sự giải thoát của con.
Đừng nhìn lại hay trả lời họ gì cả.
Ngoài Đức Phật Vô Lượng Quang,
Đừng quán niệm ai cả
Ngoài cõi Tịnh Độ Cực Lạc.
Đừng bám giữ một cái gì cả
Như vậy chắc chắn con sẽ vãng sanh Tịnh Độ.

Chương 7 sẽ có những điều mô tả Đức Phật Vô Lượng Quang và cõi Cực Lạc của Ngài, dựa theo kinh sách vốn là những giáo lý của Đức Phật lịch sử, Thích Ca Mâu Ni.

Chúng ta nên làm gì trong cõi Trung Ấm Bardo?

Chúng ta nên hành xử ra sao trong cõi trung ấm bardo? Trước hết, việc quan trọng nhất là xét kỹ để biết mình đã chết thật hay chưa, bằng cách quan sát một số dấu hiệu sau đây:

– Nhìn vào một tấm gương hay nhìn xuống mặt nước, nếu không thấy hình ảnh phản chiếu của mình, như vậy bạn đã chết rồi.
– Đi trên cát hay trên tuyết. Nếu không có dấu chân, bạn đã chết.
– Đi trong ánh nắng mặt trời hay trong ánh sáng. Nếu không thấy có bóng bên cạnh, bạn đã chết.
– Nếu bạn nói chuyện với người khác, họ không ngó nhìn bạn, hoặc họ không dọn
 đồ ăn cho bạn, đó không phải lỗi của họ, cũng không phải họ giận bạn. Đó là vì bạn đã chết rồi.

Sau khi biết là mình đã chết rồi, hãy cố gắng đừng buồn hay xúc động, vì như vậy sẽ không ích lợi gì mà chỉ có hại thêm mà thôi. Cố gắng phản ứng với cái chết theo ba cách sau đây:

1. Biết rằng mình đang ở trong một khúc quanh quan trọng nhất của cuộc đời bạn. Vì tương lai của mình, bạn không thể bỏ phí một khoảnh khắc nào cả. Đây là cơ hội thăng tiến lớn nhất của mình.

2. Nhớ đến và cảm thấy an vui về bất cứ con đường tâm linh nào mà mình đã theo đuổi trong cuộc đời. Đó sẽ là sức mạnh, hoan hỷ và an lạc lớn nhất của bạn.

3. Nhớ đến một pháp trong ba pháp tu tập sau đây, tùy theo khả năng và kinh nghiệm của mình. Rồi cố gắng an trụ trong pháp đó mà tu tập không xao lãng.

(a) Khi trông thấy những hình ảnh người nam hay người nữ, như được nói đến trong “Sự giải thoát bằng việc nghe” (Liberation by Hearing), hãy nhận ra các vị này là các bộ phái Phật nam, nữ và các cõi tịnh độ. Biết rằng các vị là sự phản chiếu của Phật tâm của chính mình. Nếu cố gắng có cảm nhận tốt về các Ngài, bạn sẽ thấy các Ngài là nguồn gia hộ, vì tất cả các vị này chỉ là những ấn tượng của tâm trong cõi trung ấm bardo.

Hãy nhớ đến niềm tôn kính đối với chư Phật, các vị Thầy tâm linh, và các pháp tu tập của mình. Nếu bạn có một kinh nghiệm nào đó về pháp tu Mật giáo, cố gắng chứng ngộ tánh nhất như của mọi sự vật diễn ra, vì theo giáo lý của Mật tông, tất cả những sự kiện đều là một trong chơn tánh của chúng. Bạn phải cố gắng thấy và cảm nhận rằng tất cả hình dạng hiền hòa hay phẫn nộ, mọi âm thanh và cảm giác mà mình có thể gặp phải chỉ là năng lực biểu lộ của tánh nhất như đó. Thấy những ánh sáng như ánh sáng-trí tuệ, hay chuyển chúng thành ánh sáng trí tuệ bằng những kỹ thuật tham thiền nào mà mình quen thuộc. Đừng bám giữ hay chống lại chúng với thái độ của chủ thể phản ứng với vật đối tượng, mà hãy rộng mở và hợp nhất với chúng. Hãy an tĩnh trong trạng thái nhất như đó. An trụ trong trạng thái đó nhiều lần.

(b) Nếu không phải là một hành giả có kinh nghiệm hay chứng ngộ, mà chỉ là một người có đạo tâm, trước hết bạn nên cố gắng cho tâm được an tĩnh và ổn định. Rồi cố gắng nhớ lại sự hỗ trợ tâm linh của mình, dù đó là một sự hiện diện thiêng liêng, một vị Thầy, hay một kinh nghiệm tốt hiện diện với mình và ở trong tâm mình. Hãy cố gắng giữ sự tập trung tâm trí vào đó liên tiếp, thay vì bị xao lãng đến chỗ khác. Cố gắng trải lòng từ bi đến với người khác thay vì chống lại họ. Cố gắng nhìn thấy tất cả là những sự biểu hiện thiêng liêng thay vì những nguồn gây sợ hãi và khổ đau. Cố gắng cầu nguyện, trì chú và nghe mọi âm thanh như những lời tôn kính và từ bi thay vì những lời than khóc. Chúng ta phải cố gắng an trụ trong bầu không khí tâm linh như vậy trong suốt cuộc hành trình trong cõi chuyển tiếp vào trung ấm bardo này. Những ký ức tốt, những cầu nguyện thành tâm, và lòng từ bi rộng mở sẽ trở thành một nguồn bảo hộ mạnh mẽ, kinh nghiệm êm dịu, và trí tuệ ánh sáng làm cho chuyến hành trình chuyển tiếp trở thành một chuyến đi đầy hoan hỷ.

Người có đạo tâm và có kinh nghiệm tâm linh có thể làm công việc hộ niệm cho người khác. Qua oai lực của những lời cầu nguyện, tạo công đức, thờ cúng, hoặc tham thiền, có thể gợi lên trong tâm của chúng ta một hình ảnh và làm cho tâm ta an tĩnh. Rồi các Ngài có thể ban giáo lý cho chúng ta, khẩn cầu sự gia hộ từ bi của các vị Thần, và gia trì lực để hướng dẫn tâm chúng ta đến Phật quả hay ít nhất cũng dẫn dắt thần thức của chúng ta tái sanh vào các cõi an lành. Nếu chúng ta đã tạo một số thiện nghiệp nào đó thì sự hộ niệm này sẽ là những điều kiện đưa tới kết quả cho chúng ta và như vậy việc hộ niệm sẽ có lợi ích lớn cho cuộc hành trình chuyển tiếp trong cõi giới trung ấm bardo của chúng ta.

Tất cả những ký ức tốt hay những kinh nghiệm tốt mà chúng ta có thể tập hợp lại được sẽ phát sanh và tăng cường nguồn năng lực an lạc, tôn kính, từ bi, nhận thức thanh tịnh và trí tuệ. Nguồn năng lực đó sẽ đưa đến giác ngộ hay sự tái sanh tốt, cũng giống như lực của cảm xúc tiêu cực khiến chúng ta đọa vào cõi địa ngục. Một lực tốt như vậy có thể giúp chúng ta tránh được sự tái sanh vào địa ngục, ngay cả khi chúng ta đã tạo nghiệp xấu. Những kinh nghiệm và sức mạnh tâm linh nào mà chúng ta đã có được trong cuộc đời chắc chắn sẽ mang lại kết quả đúng lúc. Vì lẽ đó chúng ta hãy nên cẩn thận vận động lực thiện nghiệp thay vì những ác nghiệp, chính năng lực của thiện nghiệp này mà chúng ta có cơ hội quyết định vận mạng tương lai của mình. Ngài Longchen Rabjam khai thị:

“Dù chơn tánh đã xuất hiện như vậy (đã nói ở chương 3)nếu con không nhận ra nó
Cõi chuyển tiếp bardo giống như ảo mộng sẽ xuất hiện
Rồi do nhớ lại những cõi tịnh độ của chư Phật, và
Nương tựa nơi vị Thầy tâm linh và các vị Thần giáo hóa,
Con có thể tái sanh vào cõi tịnh độ và đạt đến giải thoát.
Cũng có nhiều người tái sanh làm người với bảy đức tính, và
Trong kiếp sau sẽ chắc chắn đạt đến giải thoát”.

(c) Nếu bạn không có kinh nghiệm tâm linh và kinh nghiệm thiền quán, khi trải qua những ảo giác trong cõi bardo, bạn phải nhớ không nên tức giận, bối rối hay sợ hãi, mà hãy cố gắng xem tất cả những gì xuất hiện với mình đều là huyền ảo, giống như những sắc tướng trong một giấc mộng. Chúng chỉ là những hình ảnh tưởng tượng có nguồn gốc là những thói quen tinh thần hay tính xấu và thêm vào là những cảm xúc phiền não của chính mình. Cố gắng làm tâm của mình rộng mở, tích cực, và an tĩnh, thay vì có thái độ bám giữ, hay cảm nhận xấu với những cảm xúc của tham, sân, và si. Cố gắng khởi lòng từ bi đối với người khác, những người cũng bị đầy đọa trong cuộc hành trình chuyển tiếp đáng sợ này. Nếu có thể gây dựng và duy trì một trạng thái tâm thức tích cực như vậy, được tịnh hóa bằng năng lực tôn kính, từ bi, tâm của bạn sẽ đạt đến nguồn đại an lạc, giống như bầu trời trong sáng không mây. Những lực nghiệp xấu nào đến gây mê loạn hay đau khổ sẽ bị xua tan. Niềm an lạc sẽ ngự trị trên tất cả những gì bạn trải qua trong cõi giới trung ấm này, bảo đảm một hành trình đầy hoan hỷ.

Ngoài ba pháp thực hành nói trên, chúng ta cũng có thể nhớ đến cách “đảo ngược” tiến trình tái sanh vào những cõi thấp, nếu phải gặp một tiến trình tái sanh như vậy. Nếu bạn thấy những điềm báo của một nơi tái sanh thấp, như những ánh sáng nhẹ và những dấu hiệu, nơi sinh hay Cha Mẹ trong tương lai, điều quan trọng nhất là không rơi vào ý nghĩ hay cảm xúc tiêu cực, ví dụ như bám giữ, thèm muốn, sân hận, ganh tị, lo sợ hay mê muội. Hãy cố gắng nhìn thấy chúng với một tâm an tĩnh bằng cách nhận biết chúng chỉ là những sắc tướng tạo ra từ tâm của chúng ta. Hoặc bạn có thể xem những hình ảnh những vị đó là các vị Thần nam nữ và cõi tịnh độ của các Ngài. Hãy cầu nguyện các vị Thần và vị Thầy tâm linh để được gia hộ và hướng dẫn.

SỬA SOẠN CHO HÀNH TRÌNH TƯƠNG LAI CỦA MÌNH

Trong cuộc đời này, tâm của chúng ta tương đối ổn định, vì nó trụ ở trong cấu trúc vật chất thô kệch và phàm tục tức là thể xác này. Điều làm cho chúng ta dễ đạt được tri kiến và thói quen tâm linh qua thiền quán. Nhưng cũng khó để làm những thay đổi hay cải thiện lớn lao, vì tâm bị kẹt và bị điều kiện hóa thân xác trần tục này.

Nhưng trong hành trình chuyển tiếp trong cõi trung ấm bardo, tâm biến đổi nhanh chóng vì không có những chướng ngại của thân xác. Vì vậy, hành trình tương lai của chúng ta sẽ dễ dàng thay đổi và cải thiện. Nhưng chúng ta cũng sẽ khó tìm được đường đạo và tập trung tâm trí vào đó, vì không có một thân vật chất để an trụ vào. Trong cõi trung ấm, thần thức của chúng ta tiếp tục sống với những thói quen đã có từ trước và trôi nổi nhanh đến vận mạng tương lai của mình.

May mắn thay, hiện tại chúng ta đang sống và có một thân vật chất để trụ vào và như vậy có thể sửa soạn cho cõi trung ấm bardo và kiếp kế tiếp của mình. Nếu có thể thọ hưởng an lạc, sức mạnh và trí tuệ trong lúc còn sống, thì khi qua đời, chúng ta sẽ thực sự vui mừng nghĩ rằng, “Mình thật là hạnh phúc, vì mình đã chuẩn bị tất cả cho lúc này. Mình đã không bỏ phí một cơ hội tốt nào”.

Trong cõi trung ấm bardo tâm của chúng ta sẽ trong sáng và mạnh mẽ hơn hiện tại. Những kinh nghiệm của tâm sẽ rõ rệt và nhạy bén hơn. Nếu chúng ta đã có những kinh nghiệm tốt khi còn sống, chúng ta sẽ thọ hưởng kết quả của chúng ta trong giai đoạn chuyển tiếp này một cách dễ dàng, rõ rệt và hiệu quả. Nhưng sẽ rất khó để gây dựng tinh thần mới và kinh nghiệm mới, vì chúng ta cần phải có sự ổn định để tạo những thói quen mới cho tâm trí ta.

Nếu ý thức về sự an tĩnh, hoan hỷ, và rộng mở đã trở thành một phần trong tâm thức của chúng ta khi còn sống, thì ở trong cõi trung ấm, tất cả những trạng thái tâm và những hiện tượng xung quanh chúng ta sẽ xuất hiện như những sắc tướng và kinh nghiệm tốt. Ngay cả năm cảm xúc phiền não của tâm cũng sẽ xuất hiện như năm trí tuệ, và năm nguyên tố vật chất xuất hiện như năm ánh sáng nguyên thủy, vốn là năng lượng ánh sáng trí tuệ hiện diện tự nhiên.

Nhiều vị Thần nam nữ sẽ hướng dẫn chúng ta đi trên con đường của mình. Thân tâm trí của chúng ta sẽ bay đi như một chim ưng qua bầu trời xanh trong không mây vô tận với nhiều lễ vật kỳ diệu xuất hiện, tiếng nhạc và vũ điệu hoan hỷ khắp trong không gian. Chúng ta sẽ được chào đón đến những cõi tịnh độ hay cõi trời an lạc, đẹp đẽ và hỷ lạc nhất. Chúng ta cũng sẽ có năng lực tiếp dẫn nhiều người khác đến những cõi tịnh độ này với những nghi thức huy hoàng như vậy. Nếu tất cả chúng ta có sự sửa soạn tâm linh khi còn sống ở thế gian thì tất cả những sự nói trên sẽ diễn ra đối với chúng ta.

CHẾT AN LẠC TÁI SINH HOAN HỶ
Nguyên tác Anh ngữ: Peaceful Death, Joyful Rebirth
của đại sư học giả Tulku Thondup
Việt dịch: HT. Thích Như Điển & TT. Thích Nguyên Tạng
Chùa Viên Giác Hannover, Đức Quốc
Tu Viện Quảng Đức, Melbourne, Úc Châu ấn hành 2011

Chương 05

CHUYỆN KỂ VỀ CÕI TRUNG ẤM BARDO

Kinh nghiệm sau khi chết
của các vị Delog người Tây Tạng

Vì phần lớn những lời kể của các vị delog là về cõi trung ấm bardo, nên tôi dành trọn vẹn chương này cho những chuyện được tuyển chọn của họ. Mục đích của chương này là trình bày những nghiệp báo không thể tránh được mà mọi người sẽ phải đối diện. Tôi hy vọng chương này sẽ giúp mọi người cư xử đúng cách và cải thiện tương lai của mình.

Người ta thường hỏi tại sao những delog chỉ nói về những lời cầu nguyện, pháp tu thiền quán, các vị Thần, các vị Thầy tâm linh. Tôi nghĩ rằng điều này là một vấn đề. Theo ý tôi thì những ý nghĩ, những cảm giác an lạc và sự biểu hiện của họ trong những lời nói và hành động đều trở thành những nguồn tạo lợi ích và giải thoát, dù chúng được trình bày qua Phật Giáo hay một tín ngưỡng nào khác. Bất cứ ai đã đạt được trí tuệ an lạc vô thượng thì đều có năng lực giải thoát cho người khác, dù vị ấy mang hình dạng thuộc Phật Giáo hay không. Tuy nhiên, các delog Tây Tạng đã chứng kiến năng lực của những vị Thần và giáo lý Phật Giáo vì chính họ là những tín đồ Phật Giáo, thói quen tinh thần và nhân duyên của họ liên quan đến các vị Thần và giáo lý của Phật Giáo. Như đã nói ở phần trước, người Phật tử tin rằng mọi sắc tướng chúng ta và mọi kinh nghiệm mà chúng ta trải qua chỉ là những hình ảnh phản chiếu của những thói quen tinh thần của chúng ta. Vậy dù chúng ta có tin theo bất cứ tôn giáo nào, nếu có trí tuệ về an lạc vô thượng, thì nó sẽ là nguồn lợi ích thực trong cuộc sống và trong lúc chết. Chúng ta sẽ xem và thấy tín ngưỡng của mình là nguồn giải thoát. Danh hiệu và hình tướng bên ngoài không thực sự là vấn đề, vì chúng chỉ là những phương tiện để đạt đến cứu cánh. Chỉ có phẩm chất bên trong mới là đáng kể.

Khi đọc những chuyện kể này, nên nhớ rằng các nhân chứng khác nhau có kinh nghiệm về âm thanh, hình ảnh và những hoạt động của cõi trung ấm một cách khác nhau, vì những hiện tượng này là những ảo giác hay những phản chiếu tinh thần của riêng họ. Ví dụ, một người có thể thấy vị Pháp Vương trong hình dạng phẫn nộ, trong khi một người khác thấy các vị này trong hình dạng hiền hòa. Một số có thể trông thấy vị Thần Mặt Khỉ (Monkey-Face One) đang ghi chép, trong khi người khác thấy vị này đang xét những hành vi tốt và xấu của một người được phản chiếu trong tấm gương ở Tòa Phán Xét. Dù có những khác biệt giữa những cá nhân, nhưng điều đáng chú ý là vẫn có rất nhiều điểm tương đồng trong những lời kể của các vị delog.

NHỚ LẠI TẤT CẢ NHỮNG GÌ MÌNH TRÔNG THẤY: KINH NGHIỆM CỦA BÀ LINGZA CHOKYI

Mỗi câu chuyện của delog đều có một loại trí tuệ hay minh triết khác nhau. Chuyện kể của bà Lingza Chokyi có thể giống những kinh nghiệm mà phần lớn người bình thường có thể có vào lúc chết và sau khi chết.

Bà Chokyi thấy chính bà nhìn vào giường mình và trông thấy xác chết của một con rắn lớn mặc y phục của bà, bốc mùi hôi thối kinh khiếp. Con rắn chết đang mục rữa là thể xác của bà, nhưng bà không nhận ra nó. Người chết thường không nhận biết xác chết của chính mình trong hình dạng thật, ngay cả khi họ nhìn thấy nó.

Khi những người con của bà Chokyi bắt đầu khóc, ôm và hôn con rắn, thì tất cả những nhận thức của bà đột ngột biến đổi. Bà bắt đầu nghe thấy những âm thanh rền vang như sấm sét cùng lúc. Bà trông thấy một cơn mưa máu và những cục mủ lớn cở quả trứng rơi xuống mình. Bà không thể chịu đựng nổi! Nhưng ngay khi các con của bà ngừng khóc, tiếng sấm sét và âm thanh của cơn mưa ngừng lại tức khắc. Không gian trở nên yên tĩnh, và tất cả mọi sự đau đớn và sợ hãi chấm dứt. Những nhận thức của bà đã trở lại bình thường trong một lúc.

Người Phật tử Tây Tạng thường tin rằng sự khóc lóc kể lể sẽ làm tổn hại cho người chết. Đó là lý do mà đại hành giả Milarepa đã nói lên những ý nguyện sau đây:

“Không có ai hỏi về bệnh tật của tôi
Không có ai khóc cho tôi khi tôi chết
Nếu tôi có thể chết trong sự cô đơn như vậy.
Thì ý nguyện của hành giả này sẽ trở thành sự thật.

Không có dấu chân của người thân ở cửa hang
Không có vết máu ở bên trong do tranh chấp quyền thừa kế
Nếu tôi có thể chết trong sự cô đơn như vậy
Thì ý nguyện của hành giả này đã được thực hiện”.

Chokyi nghe thấy em trai của mình nói với những người thân trong gia đình: “than khóc không ích lợi gì cả. Tốt hơn nên tổ chức tang lễ. Chúng ta phải cung thỉnh một vị lạt ma để làm pháp chuyển di thần thức phowa, Chúng ta phải thỉnh Đại Sư Thugje Rinpoche và hai mươi hoặc ba mươi vị Tăng sĩ để làm lễ cầu siêu.” (Một tang lễ có thể kéo dài nhiều tuần hoặc suốt bốn mươi chín ngày tùy theo khả năng của gia đình người quá cố). Chúng ta cũng phải thỉnh Đại Sư Gomchen, một Lạt Ma Đại Hành Giả chủ trì cho lễ tang, vì bà ấy tin tưởng nơi vị Tăng này ” .

Bà Chokyi có thể trông thấy và nghe thấy gia đình đang sửa soạn tang lễ cho mình, nhưng bà lại nghĩ rằng họ đang làm một buổi lễ gì đó khác.

Khi một vị Lạt ma bắt đầu tụng kinh Kim Cương (Vajracchedika Sutra/ Diamond Sutra), bà Chokyi chỉ nghe thôi cũng cảm thấy hoan hỷ. Buổi chiều hôm đó, Đại Sư Gomchen và khoảng hai mươi vị Tăng đến nhà. Bà đảnh lễ đến Ngài Gomchen cùng những vị khác và đến gần để nhận sự gia hộ từ các Ngài. Nhưng các vị này không đáp ứng gì cả, bà nghĩ có lẽ họ giận mình chăng. Bà hỏi: “Nếu quý Thầy giận con thì quý Ngài đến đây làm gì ?” Không ai trả lời gì cả. Bà Chokyi không thể hiểu tại sao họ cũng không nhìn thấy mình.

Bà Chokyi thấy Đại Sư Gomchen đặt tay lên đầu của “con rắn” và nói, “Chokyi, cái chết đã đến với con. Đừng luyến ái đến con cái, tài sản, hay đồ ăn. Hãy hòa nhập thần thức của con vào tâm thức của ta. Rồi chúng ta sẽ cùng lên đường về cõi Cực Lạc của Phật Vô Lượng Quang. Chúng ta sẽ đi đến đó!”

Bà Chokyi nghĩ, “Mình đâu có chết. Mình vẫn còn thể xác đây mà.” Cùng lúc đó, bà muốn hòa nhập như lời khai thị của vị lama. Nhưng vì sợ con rắn nên bà lui lại.

Lúc đó, bà nghe Đại Sư Gomchen hô lớn PHAT, bà cảm thấy vui mừng và an lạc. Rồi Ngài Gomchen nói với gia đình của bà. “Việc làm pháp chuyển di thần thức bây giờ là đã quá trễ, vì Chokyi đã rời khỏi thể xác rồi.”

Sau đó mọi người ăn tối, nhưng không có dọn thức ăn cho Chokyi. Đại Sư Gomchen nói với con gái của Chokyi, “Hãy dọn thức ăn cho Mẹ của con”. Con gái của bà liền làm một đĩa thức ăn với một miếng thịt và một tách trà. Đặt những món này gần con rắn, cô bé nói, “Mẹ ơi, con mời Mẹ ăn.” Dù đang đói và khát, bà Chokyi không thể ăn được, vì con rắn làm cho bà cảm thấy gớm ghiếc. Chokyi giận con gái của mình vì cô bé đặt đĩa thức ăn ở gần con rắn.

Sau bữa ăn chiều, Đại Sư Gomchen vừa cầu nguyện vừa đốt các món ăn của bà trong lửa để làm lễ cúng hiến phạn cho người chết. Chỉ đến lúc đó bà Chokyi mới cảm thấy thỏa mãn cứ như thể bà mới ăn uống xong. Sur là một nghi thức truyền thống của Phật giáo Tây Tạng, cúng dường thức ăn, nước uống, và của cải cho người chết hay những vong linh khác. Những lễ vật “sur” được gia hộ bằng những lời cầu nguyện và thiền quán, rồi sau đó hiến cúng cho những vong linh đó. Đồ cúng được thiêu đốt để tỏa ra mùi, vì sinh linh trong cõi trung ấm chỉ có thể hưởng những mùi hương. Sau nghi lễ này, bà Chokyi không còn cảm thấy đói khát nữa.

Ngay sau khi vị lama thiết trí xong bàn thờ, các vị bắt đầu cử hành tang lễ. Đại Sư Gomchen tham thiền một mình. Bà Chokyi tiếp tục cảm thấy buồn vì bà nghĩ mọi người bất mãn với mình; Vì họ không tiếp món ăn cho bà; Và vì bà không còn thân xác vật chất nên bà không thể ở yên một chỗ và duy trì một cảm xúc.

Rồi bà nảy ra một ý tưởng “Mình sẽ lấy những món nữ trang của mình và bỏ đi.” Đúng lúc đó, các con của bà lại òa lên khóc và một cơn mưa máu và mủ bắt đầu dội lên người của bà Chokyi. Bà không thể nhìn thấy gì cả, và thần thức của bà bắt đầu nhảy quanh quẩn nhiều hơn nữa.

Bà Chokyi muốn chạy đến chỗ Đại Sư Bangar Rinpoche đang làm chủ lễ, nhưng bà nghĩ, “Ngài là một vị Tăng, có lẽ không thích hợp cho một phụ nữ đến gần.” Vì vậy bà đứng nấp ở phía sau lưng Ngài. Buổi lễ mang lại sự an ủi êm dịu cho bà nhưng bà vẫn cảm thấy sợ.

Sau đó bà chạy đến chỗ Đại Sư Gomchen. Bà thấy Ngài có hình dạng trong suốt như Bồ Tát Quán Thế Âm (Avalokiteshvara). Ngài đang nói, “tội nghiệp! tội nghiệp! (Nyingje! Nyingje!). Bà Chokyi hiểu rằng Đại Sư Gomchen đang hợp nhất thần thức của bà với tâm Ngài, vốn an trụ trong trạng thái thiền quán định tĩnh. Bấy giờ bà cảm thấy bớt sợ và tâm trí xao động của bà nhập vào một an lạc kỳ lạ.

Một lúc sau, bà trở lại với những suy nghĩ trôi nổi thông thường. Bà thấy người ta có bữa ăn. Ngài Gomchen lại làm lễ sur, bà hưởng thức ăn đã được hồi hướng cho bà trong dạng mùi.

Sau một lúc, bà nghe một giọng nói từ bên ngoài, “Chokyi, lại đây!” bà đi ra. Một người nào đó đang ở bên ngoài mà bà nghĩ là Cha mình. Ông nói, “Hãy ra ngoài, ta có cái này muốn cho con thấy. Ta sẽ để cho con trở về sớm thôi.” Nghe thấy vậy, bà lại nghĩ, “Nhà mình có đầy những vị lama. Nhưng tất cả các vị này đều giận mình. chồng và con không dọn đồ ăn cho mình. Vậy mình sẽ đi theo Cha.”

Ngay sau khi nghĩ như vậy, bà thấy mình ở trên một con đường khô cằn xám xịt, không có một cọng cỏ hay một cái cây nào. Từ chỗ đó bà có thể thấy những vật ở rất xa, và bà thấy một cánh đồng cát bằng phẳng, rộng lớn. Ở giữa cánh đồng có một con sông lớn đang chảy, nhưng khó có thể nói là nó chảy theo hướng nào. Bà thấy một chiếc cầu rộng. Bên này của chiếc cầu, ở chân núi là một thành phố lớn.

Người đã gọi Chokyi ra, bây giờ đưa bà đến thành phố đó và nói với bà, “Hãy nhìn quanh đây xem có người nào mà con quen biết hay không. Ta sẽ đi qua bên kia sông. Con cũng nên qua bên đó.”

Thành phố này có nhiều người đến mức bà thấy giống như một tổ kiến. Một số người mặc y phục nhiều màu và có diện mạo đẹp đẽ. Số khác mặc quần áo xấu xí và dơ bẩn. Nhưng tất cả đều buồn bã, khóc lóc và có nét mặt u ám. Chokya nghĩ “Có lẽ mình cũng ở trong tình trạng giống như những người này,” Chokyi bắt đầu run sợ.

Trong đám người đó, Chokyi nhận ra Chogon, là người trước kia thường trông coi đàn gia súc cho bà. Anh ta nhìn Chokyi và nói với vẻ quan tâm, “Ủa, chị đã đến đây rồi sao?” bà đáp “phải, tôi vừa đến.” Sau đó Chokyi hỏi dồn dập, “Anh sống ở đây à? Những người này là ai? Tại sao họ có vẻ không vui? Có người bảo tôi qua bên kia cầu, tôi nghĩ phải đi đến đó. Vậy có ai ở bên đó không ?”.

Chogon nói, “Đây là thành phố chuyển tiếp, vùng biên cương giữa người sống và người chết. Mọi người đang đợi ở đây vì tuổi thọ trên trần gian này chưa hết. Những người mặc quần áo đẹp và có khuôn mặt đẹp là những người đã tích lũy công đức trong quá khứ. Họ đang đợi để có thêm công đức mà gia đình của họ ở cõi người tạo lập và hồi hướng cho họ. Những người mặc quần áo dơ bẩn và nước da xấu là những người không có công đức nào cả, cũng không có ai tạo công đức cho họ. Ngay sau khi tuổi thọ chấm dứt, mỗi người trong chúng ta sẽ đi qua bờ sông bên kia. Ở bên đó có vị Pháp Vương của Tử Thần và các đao phủ của Ngài. các vị này sẽ xét bản công và tội của mọi người. Những người có công đức sẽ được các Ngài cho đi lên các cõi cao hơn hoặc được giải thoát. Những người đã tạo ác nghiệp sẽ bị đọa xuống địa ngục. Ở trong địa ngục họ sẽ bị thiêu đốt và bị luộc trong nước sôi không thể tưởng tượng được. Ngày đêm tôi lo nghĩ về số phận đang đợi chờ mình. Tôi đã đến bên kia mấy lần rồi, nhưng họ bảo tôi cứ đợi ở đây, vì tuổi thọ của tôi chưa hết. Chị có thể đi qua bên kia để xem mấy vị Thần Chết nói gì. Nếu phải đợi ở đây, thì chị cứ trở lại.”

Sự Phán Xét của các Thần Chết

Không bao lâu sau đó, bà Chokyi được gọi đến bên kia sông. Ở đó bà thấy một bức tường lớn. Phía bên kia của bức tường là một ngai lớn bằng vàng. Ngồi trên ngai là vị Pháp Vương của những Thần Chết. Diện mạo của Ngài màu vàng, và mặc áo tu sĩ thêu chỉ vàng. Hai tay Ngài đặt trong tư thế thiền quán. Trên đỉnh đầu Ngài có một chỗ lồi lên. Có những tấm màn lụa bao quanh và những lọng thêu kim tuyến che trên đầu Ngài. Đủ loại trang trí và lễ vật dâng cúng được thiết bày chung quanh Ngài. Vì vậy bà Chokyi thấy vị Pháp Vương trong hình dạng của Đức Phật.

Ở bên phải của Pháp Vương là một vị Thần Chết có thân người và đầu bò, tay đang cầm một tấm gương. Ở bên trái là một Thần Chết đầu khỉ trong tay cầm một cái cân. Ở phía trước Pháp Vương là Thần Chết đầu hươu, đang viết và đọc một cuốn sổ. Ngoài họ ra còn có nhiều vị Thần Chết với những đầu thú khác nhau. Mặc những loại trang phục đáng sợ, họ nhe nanh, trợn mắt, vung đủ loại khí cụ và la lớn “Giết! Giết! Đánh! Đánh! Ha! Ha! Hung! Hung!”. Họ chạy, nhảy khắp nơi. Thật là một cảnh tượng đáng sợ. Tòa Phán Xét đang định đoạt số phận của khoảng ba trăm người.

Trong số những người này có một vị tu sĩ tay cầm chuỗi hạt. Pháp Vương đang hỏi vị Tăng này chi tiết về những gì đã làm trong lúc còn sống trên thế gian. Vị này kể ra nhiều việc tốt. Về việc xấu thì vị này chỉ nói đến một điều là ăn thịt.

Pháp Vương ra lệnh cho Thần Đầu Bò Awa và Thần Đầu Khỉ kiểm tra lại trong sổ. Họ tường trình với Pháp Vương rằng, ngoài những điểm khác biệt không quan trọng, vị tu sĩ đã nói đúng sự thật.

Lúc đó, Vị Thần Bảo Hộ Trắng xuất hiện và biện hộ cho vị tu sĩ, “Người này đã tạo lập công đức lớn và đã không làm điều gì xấu. Vị này không đáng bị đưa vào cõi người hay cõi trời, mà xứng đáng đưa về một cõi tịnh độ của đức Phật.” Rồi Ngài trình ra một túi đựng những hòn sỏi trắng, tượng trưng cho những công đức của vị tu sĩ.

Sau đó, Quỷ Đen hiện ra và chống lại “ người này đã tạo nhiều nghiệp xấu trong nhiều kiếp trước, vì vậy phải đầy y xuống địa ngục “. Quỷ Đen trình lên một cái chén đầy những viên sỏi đen biểu trưng cho những bất thiện nghiệp của vị tu sĩ.

Sau khi so sánh hai bên, các vị này thấy thiện nghiệp nặng hơn nhiều so với bất thiện nghiệp. Vị Pháp Vương tuyên bố “tất cả những nghiệp xấu của người này đã được những nghiệp tốt giải trừ rồi

Sau đó Pháp Vương phán quyết: “Ngươi đã thành tựu bổn phận làm người. Được sanh ra làm người tốt hơn sanh vào cõi trời. Vậy Ta gởi ngươi đến làm con của một gia đình giàu có. Ở đó ngươi sẽ tiếp tục theo đuổi con đường đạo và tu tập tinh tấn.”. Ngay sau đó,vị tu sĩ biến mất theo một con đường màu vàng lốm đốm.

Tiếp đó, Thần Chết tra hỏi một người khác. Người này nói, “Tôi không có chi tiết gì để kể về những việc làm tốt cho các Ngài. Tôi là một người nghèo khổ, thiếu ăn. Vợ tôi cũng không có đạo tâm. Vậy, ngoài việc đóng thuế, tôi đã không bố thí nhiều, tôi cũng không tu tập gì về thân và tâm. Tôi đã sát sanh một số cá, gà, dê, và cừu. Do ảnh hưởng những người xấu, tôi đã ăn trộm đồ vật của những vị ẩn tu, tôi rất hối hận!”. Người này run rẩy và tự đánh mình. Những Thần Chết cầm khí cụ lên và cười vui vẻ. Còn bà Chokyi thì sợ hãi.

Sau khi kiểm tra lại, những Thần Chết trình tâu với Pháp Vương, “Làm sao có thể đếm số cá mà người này đã bắt giết? y cũng đã giết hai mươi chín con gà, bốn mươi bảy con heo, bốn mươi ba con cừu, và sáu mươi con bò. Hãy xem con số côn trùng đã bị y giết hại khi đốt một quả núi! Cùng với bốn người khác, y đã đánh và ăn cắp của bốn người đi hành hương.”

Nghe đến đây, Pháp Vương nói, “Ngươi đã làm những việc xấu như vậy, ngươi đã có lòng dạ hư thối, ngươi không lo cho bản thân mình một chút nào hay sao? Cướp bóc và làm hại những người có đạo tâm là tội còn nặng hơn giết các loài thú.” Ngài nói với các Thần Chết, “Bây giờ hãy cho y chịu đau khổ trong những địa ngục khác nhau. Y sẽ thọ hưởng những quả báo vô đạo đức của những việc cướp bóc, nên y phải chịu ăn uống bằng những hòn sắt nấu chảy.”

Vị Thần Bảo Hộ Trắng hiện ra xin giảm án và đưa ra hai mươi hòn sỏi trắng để tiêu biểu cho việc làm thiện của người đó. Rồi Quỷ Đen xuất hiện và đòi phải giam người đó vào địa ngục thấp nhất, vị này trình lên một số lượng lớn sỏi đen như Núi Tu Di (Sumeru). Lập tức, các vị Thần Chết tròng một sợi dây thòng lọng quanh cổ người đó, dùng móc sắt móc vào ngực và lôi y vào khu phòng sắt nóng cháy.

Kế tiếp là một tu sĩ đang mang một túi thuốc trên vai. Khi được tra hỏi, vị ấy kể ra tất cả những kinh sách mà mình đã tụng niệm và tất cả những lễ cúng mà mình đã làm. Vị ấy cho biết chưa bao giờ để cho một hành giả nghèo (poor yogis) ra đi tay không. Vị ấy là thầy thuốc và chữa bệnh cho tất cả mọi người với khả năng tốt nhất của mình. Vị ấy không bao giờ đòi trả lệ phí mà chỉ nhận những gì người bệnh đem biếu cho. Vị ấy không bao giờ cho ai dùng lầm thuốc. Vị ấy không bao giờ giết một con gia súc nào, vì là một gia chủ, ông chỉ liên quan gián tiếp sát sanh.

Sau đó những vị Thần Chết kiểm tra lại trong tấm gương và nói, “Ngươi đã nói thật về những nghiệp tốt của mình. Nhưng khi anh của người là Chongthar ngã bệnh. Ông ta đến để nhờ ngươi chữa bệnh. Vì ganh tị với sự giàu có của người anh mà ngươi đã cố tình cho ông ta uống không đúng thuốc, và ông ta đã bệnh nặng hơn trong tám tháng. Cuối cùng ngươi cũng chữa lành bệnh cho ông ta nhưng lại lấy một bộ áo giáp chất lượng tốt để bù vào công chữa bệnh của ngươi. Ngươi cũng đã giết một trăm bảy mươi ba gia súc.”

Khi đếm sỏi, các vị thần thấy số lượng sỏi trắng nhiều hơn một chút, nhưng khi cân thì nghiệp xấu lại nặng hơn.

Vị Pháp Vương nói với vị tu sĩ, “Nếu không cho uống sai thuốc, ngươi có thể được tái sanh vào cõi trời hay cõi người.” Rồi Ngài ra lệnh cho Thần Chết, “Hãy đưa người này đến hồ nước độc nóng sôi, lúc nào cũng cho y uống nước độc đang sôi đó. Đóng một ngàn gai sắt lên cơ thể của người này. Khi nghiệp bất thiện đã được giải trừ, sẽ cho y đi lên”. Các vị Thần Chết lấy móc sắt móc vào ngực lôi đi giữa sự rúng động của mọi người.

Tiếp đó, một người đàn ông mặc quần áo len xanh thú tội, “Khi người vợ thứ nhất bỏ tôi, tôi mất đi tất cả hai trăm gia súc. Để trả thù, tôi đốt trụi hai ngôi nhà của cha mẹ cô ta, thiêu chết bảy mươi lăm gia súc, bắn và giết một người đàn ông và một phụ nữ khi họ đang cố chạy trốn. Sau đó tôi tái hôn và trở nên giàu có. Để thanh lọc những ác nghiệp của mình, tôi đi hành hương lễ bái khắp đất nước Tây Tạng trong hai năm và đã gặp nhiều vị lạt ma thành tựu. Tôi đã khóc lóc và sám hối tội lỗi của mình trước mọi người. Tôi đã tiếp nhận được gia trì lực và truyền pháp thiền quán về chơn tánh, về sự hợp nhất của quang minh, trí tuệ và chơn không. Tôi đã tuyệt thực nhiều lần và đã thọ trì nhiều kinh điển.”

Vị Pháp Vương nói, “Có nhiều người làm điều tội lỗi, nhưng rất ít người thanh lọc ác nghiệp. Nếu biết thanh lọc thì ác nghiệp có thể được giải trừ. Nếu ngươi đã tạo nghiệp tốt mà không có nghiệp xấu thì ngươi sẽ là người hướng dẫn những ai có liên hệ với mình đạt đến giải thoát. Nhưng ngươi sẽ tái sanh lại cõi người và sẽ tu tập theo Kim Cương Thừa hay Mật Tông, và trong bốn kiếp nữa ngươi sẽ thành tựu trong việc đạt đến Phật quả. Vậy ngươi hãy đi theo con đường màu vàng, là con đường đến cõi người và cõi trời.”

Một lúc sau, nhiều người đến Tòa Phán Xét Pháp Vương cùng lượt với bà Lingza Chokyi đã được đi lên hay đi xuống các cõi tái sanh khác nhau. Nhiều người được các vị Thầy của họ đưa lên các cõi cao. Nhưng rồi vẫn có những người mới được đưa vào.

Bỗng vị Pháp Vương đứng dậy nói, “đó, ông ta đã đến kìa”. Bà Chokyi thấy trên đường đèo ở xa đi đến một vị Tăng với vóc dáng khỏe mạnh to lớn, với ba trăm người vây quanh. Đi sau đoàn người này là khoảng ba ngàn người nữa. Tất cả đều nhảy múa và niệm Thần chú OM MANI PADME HUNG. Sau đó vị tu sĩ tuyên bố: “Tôi là Jechung, người niệm OM MANI PADME HUNG. Đây là cõi trung ấm và địa ngục. Tất cả những ai có liên hệ với tôi, hãy đi theo tôi. Tôi sẽ hướng dẫn các vị đến cõi tịnh độ”. Những cánh cửa của địa ngục đột ngột mở ra một cách tự nhiên. Các vị Thần Chết ngất xỉu và những khí cụ rơi khỏi tay họ. Dòng người đông đảo đi theo vị tu sĩ. Những vị Thần Chết đứng dậy với vẻ tôn kính và ra lệnh, “nhiều người trong các ngươi có thể rời nơi đây nhưng không phải tất cả.” Có khoảng ba trăm người bị bắt lại trong dòng người đó và đưa họ trở lại địa ngục.

Bà Chokyi không có mối liện hệ gì với vị tu sĩ này, nên không đi theo vị ấy. Bà hỏi vị Pháp Vương, “Vị tu sĩ đó đem theo nhiều người mà không cần hỏi han gì tòa án này. Ngài đã giải thoát cho những người đó khỏi luật lệ nghiêm khắc của tóa án này. Làm sao vị ấy có oai lực lớn như vậy?”

Vị Pháp Vương giải thích, “Vị tu sĩ đó được gọi là Jochung Ma-we Seng-ge, người trì niệm OM MANI PADME HUNG. Ngài đi tu từ hồi còn nhỏ. Ngài có lòng tin tưởng nơi Bồ Tát Quán Thế Âm (Avalokiteshvara), lúc nào cũng trì niệm OM MANI PADME HUNG và có lòng từ đối với tất cả chúng sanh. Ngài thực hành và tuyên dương phép tuyệt thực. Ba trăm người đến với Ngài là những người đã tạo nghiệp tốt thực hành phép tuyệt thực cùng với Ngài. Những người mà Ngài đưa đi là những người tin tưởng, thấy, tiếp xúc, nghe giáo lý, cúng dường Ngài hoặc nhận sự gia trì, của Ngài. Những người bị bắt lại là những người không có nhân duyên nào với Ngài hoặc đã có mối liên hệ tiêu cực đối với Ngài.

Người kế tiếp là một nữ tu có vẻ đẹp hấp dẫn. Tòa án nhận thấy cô ta chỉ tham muốn những thú vui của trần gian. Cô không có tín tâm, không bố thí, và tạo nhiều nghiệp xấu. Cô van xin được trở lại trần gian để tu tập theo Giáo Pháp. Nhưng cô đã bị đẩy xuống địa ngục.

Tiếp đó, một cô gái cầm xâu chuỗi trong tay đang niệm OM MANI PADME HUNG đi đến gần. Cô tên là Marza Chodron. Cô đã học giáo lý và được gia hộ. Cô giữ gìn niềm tin, cúng dường, phụng sự các tu sĩ, và chết ở tuổi ba mươi ba.

Cô ta nói, “Tôi đã được các vị lạt ma chỉ dạy rằng bất cứ những sắc tướng và âm thanh tốt hay xấu nào của thế giới bên ngoài xuất hiện, cũng là những ảo giác của tâm thức. Không có gì là thật cả. Vì vậy tất cả các vị mà tôi thấy ở đây là những sắc tướng tự xuất hiện trong tâm của tôi. Thực tế thì không có một vật nào có sự hiện hữu thực sự. Tôi không nghĩ rằng thân xác của tôi là có thật. Dù những hình thể hay màu sắc nào xuất hiện với tâm tôi, thì tôi cũng không có gì để nắm giữ cả. Vì vậy không có gì bị luộc hay bị thiêu đốt trong địa ngục cả”.

Trong tấm gương của các vị Thần Chết thấy có nhiều nghiệp tốt hơn là cô đã kể. Nhưng họ cũng nhận thấy cô đã gián tiếp can dự vào những nghiệp bất thiện như giết một số côn trùng. Cô cũng gián tiếp đến việc cho phép làm thịt bảy con gia súc cho tiệc cưới của cô. Một phần tư nghiệp quả của việc sát sanh này sẽ thuộc về Cha Mẹ của cô dâu và chú rể, một phần tư thuộc về cô, một phần tư thuộc về chồng của cô, và một phần tư thuộc về người đồ tể. Tuy vậy Pháp Vương đã ngợi khen về những việc mà cô đã làm trong đời sống nói chung: “Nhờ thiền quán về thật tánh của tâm, ngươi đã nhận ra được tánh Không của vạn vật. Tất cả chúng đều xuất hiện từ tâm của chính ngươi. Ngươi đã đạt được trí tuệ về tánh Không, về mọi huyền ảo, Ngươi đã tu tập trong ý nghĩa của tâm bất khả phân và những vật đối tượng xuất hiện đến tâm. Đó là công đức vô thượng Dù người chưa chứng ngộ chân lý tối thượng, vì quá trình tu tập của ngươi chưa bao lâu, nhưng những gì ngươi đã đạt được cũng có sức mạnh. Tất cả những nghiệp xấu mà ngươi đã tạo đã được giải trừ. Nhưng trước khi ngươi chứng ngộ được chơn tâm, linh thị về các cõi tịnh độ sẽ chưa xuất hiện. Bây giờ ngươi sẽ tái sanh vào xứ Oddiyana ( ở miền Tây Bắc Ấn Độ, giáp giới với Pakistan & Afghanistan ) và sẽ tu tập theo mật giáo trong tám mươi năm. Sau đó người sẽ thác sanh về thế giới Cực Lạc và đắc Phật quả ở đó”. Lúc đó vị Thầy của cô, Đại Sư Gomchen Kunga Yeshe đến cùng với nhiều người có nhân duyên với vị Thầy này. Cô đã đi theo con đường màu trắng.

Một ông già khoảng bảy mươi tuổi vừa đến, tay cầm xâu chuỗi và bánh xe pháp luân cầu nguyện, được tháp tùng bởi sáu mươi người nam và nữ. Họ đang trì niệm OM MANI PADME HUNG. Ông ta nói: “Tôi là Sherab Rinchen, người khắc câu Thần chú OM MANI PADME HUNG trên đá. Tất cả những người nào có nhân duyên thì hãy đến đây với tôi. Tôi đã được mời về cõi tịnh độ của Đức Bồ Tát Quán Thế Âm”. Có khoảng bốn trăm người đi theo ông. Nhưng ba người bị những vị Thần Chết kéo lại.

Vị Pháp Vương nói, “Ông ấy đã trì niệm gần một trăm triệu biến OM MANI PADME HUNG. Ông cũng đã khắc câu Thần chú OM MANI PADME HUNG lên nhiều tảng đá và ông đã đặt bên lề đường để mọi người có thể bái lạy và thọ trì. Ông có một vợ và ba con. Những người đi theo ông là những người đã tin tưởng nơi ông. Ông có thể giải thoát cho nhiều người khác, nhưng vì người Tây Tạng nghĩ rằng đời sống hôn nhân là không phù hợp với một lạt ma nên nhiều người đã không tin tưởng ở ông ta”.

Vào thăm Địa Ngục

Đến lúc này, những người đã đến Tòa Án cùng với bà Chokyi đều đã được đưa đi lên hay xuống sau khi thẩm vấn. Ngoại trừ Chokyi, trong những người đến trước đây, bây giờ đều không còn ai ở lại. Nhưng nhiều người mới vẫn tiếp tục đến và chờ đợi. Bà Chokyi tự nghĩ, “Mình không có nhiều nghiệp tốt để kể ra, mà ở đây lại không thể nói dối được. Vậy mình phải làm sao đây?”. Bà bắt đầu run lên vì sợ hãi.

Ngay lúc đó, vị Pháp Vương nhắm mắt lại để suy nghĩ. Rồi Ngài bảo các vị Thần Chết, “Hãy cho bà này vào một cõi của người chết, làm cho bà ta nhớ lại tất cả những gì đã thấy, sau đó đưa bà trở lại đây ngay.”

Một vị Thần Chết đầu-cọp đặt xuống bên dưới một thang màu đen. Khi leo xuống, vị Thần yêu cầu Chokyi đi theo mình vào thăm cõi địa ngục. Khi xuống đến nơi, bà thấy mình trên mặt đất bằng nền sắt đang bốc cháy, xung quanh là những bức tường sắt khổng lồ đang bốc lửa khoảng tám tầng. Ở mỗi tầng, bà Chokyi chứng kiến nhiều chúng sanh đang trải qua những loại đau khổ khác nhau.

Trong số những địa ngục mà bà Chokyi, Tsophu Dorlo, và những delog khác đã đi qua là tám địa ngục nóng và tám địa ngục lạnh cùng với những địa ngục phụ. Chúng sanh trong những cõi địa ngục này phải chịu những mức độ tra tấn hành hạ khác nhau tùy thuộc vào mức độ nghiệp bất thiện từ thân, miệng, ý khác nhau. chính yếu là dựa trên nghiệp sân hận hay thù ghét mà họ đã tạo trong quá khứ.

Ở tầng thứ nhất, tính từ trên xuống dưới, nhiều người bị liệng nằm ngửa trên nền đất nóng cháy và bị những đao phủ khác nhau cắt ra từng mảnh. Tất cả những sinh linh này đều xem nhau như kẻ thù và giết hại lẫn nhau với vẻ đầy sân hận. Khi nào họ ngất xỉu, một tiếng nói sẽ vang lên “tỉnh lại.” Tức khắc họ tỉnh dậy và lại chịu những hành hạ đó. Những người này trong đời sống thế gian trước kia đã làm hại Cha Mẹ và bạn bè của mình với sự thù hận.

Ở tầng thứ hai, quân đao phủ đang liệng nhiều người xuống đất nóng cháy. Họ vạch những đường lằn trên thân thể của những người này rồi cắt thành từng mảnh theo đường lằn đó bằng lưỡi cưa nóng cháy. Những chúng sanh này trước kia là thợ săn, đồ tể hay những kẻ chuyên hạ độc người khác.

Ở tầng thứ ba, nhiều người bị ném vào cối sắt nóng cháy và bị giã nát bằng chày nóng bỏng. Nhiều sinh linh khác cũng bị ép lại giữa những ngọn núi đang cháy. Những tội đồ này là những thợ săn, đồ tể, những kẻ làm thịt gia súc, và thợ làm vũ khí.

Ở tầng thứ tư, nhiều người đang bị nướng trên lửa, và đang kêu la khủng khiếp. Họ là những người buôn bán thuốc và những kẻ giết người, ngựa, hay chó. Cũng có những người đã mắng chửi người tu hành và làm vũ khí.

Ở tầng thứ năm, trong một tòa nhà khổng lồ nóng bỏng, các sinh linh bị thiêu đốt bên trong lẫn bên ngoài. Tất cả đều kêu khóc như tiếng sấm rền. Họ là những người đã xúc phạm đến ba ngôi Tam Bảo Phật, Pháp, Tăng, tà kiến và trộm cắp của những người có đạo tâm.

Ở tầng thứ sáu, các sinh linh bị thiêu đốt trong đống lửa lớn, thỉnh thoảng quân đao phủ lại lấy họ ra rồi đập nát họ bằng những búa nóng cháy, sau đó liệng vào ngọn lửa trở lại. Đây là những người đã không tin luật nhân quả và những hành vi thiện, ác; những người đã giết hại chúng sanh khác như cá, rắn với sự độc ác và xem thường nghiệp quả.

Ở tầng thứ bảy, nhiều người đang bị nấu trong sắt nóng chảy, với tiếng sắt sôi và tiếng bể thổi lửa vang lớn như tiếng sấm. Họ đã tạo nhiều nghiệp ác như đốt rừng khiến nhiều sinh linh bị chết và hủy diệt những kiến trúc tôn giáo.

Ở tầng thứ tám, các tội đồ bị đóng đinh vào nền đất nóng cháy và thân thể của họ bị cắt xẻ, bị hành hạ với những khí cụ khác nhau. Khi bị thiêu đốt, những ngọn lửa phụt ra từ những lỗ trên thân thể của họ. Họ là những người đã không làm một công đức nào cả, đã phạm ngũ nghịch tội (giết Cha, giết Mẹ, giết Thánh Nhơn, phá hòa hợp Tăng và làm thân Phật ra máu) và những tội khác cũng như phá hủy những công trình kiến trúc tôn giáo và những nguồn lợi chung của mọi người. Họ cũng là những người vi phạm giới nguyện mật giáo, tà kiến và phá hủy niềm tín tâm và mục đích tu tập theo chánh đạo.

Bà Chokyi cũng đến thăm những địa ngục phụ, được gọi là “bốn địa ngục kế cận”. Trong những địa ngục này, nhiều người đang chìm trong bãi bùn lầy dơ bẩn và bị côn trùng rỉa róc. Nhiều người bị kéo lưỡi bằng móc sắt và bị cày bằng những lưỡi cày nóng cháy. Nhiều người liên tục làm cho mình bị thương khi họ trèo lên và leo xuống những ngọn núi mọc đầy những cây cối có hình thù như đao kiếm bén nhọn và nóng bỏng, hoặc họ đi trong một cánh đồng đầy lưỡi dao. Những hình thức hành hạ này là hậu quả của việc làm ô uế nơi thanh tịnh và thiêng liêng, vu khống người vô tội, tham dục, và hưởng lợi bất chính từ những tài sản của tôn giáo và của Cha Mẹ.

Sau đó Chokyi đi thăm tám địa ngục lạnh, nơi vô số sinh linh không có y phục che thân đang bị đông lạnh và run rẩy trên một nền băng giá với những luồng gió rét. Thân thể của họ bị nứt ra từng mảnh và nhiều màu sắc khác nhau, và họ thốt ra đủ mọi tiếng kêu la.

Thông Điệp cho người còn sống

Sau cùng, bà Chokyi trở lại Tòa Phán Xét của vị Pháp Vương. Ngài nói với bà, “Ngươi là một trong những người bị đưa lầm vào đây, vì có sự lầm lẫn về tên tuổi và gia tộc. Thân xác của ngươi vẫn còn nằm ở nhà an toàn. Ta đã xem trong tấm gương, nhưng không thấy có điều hạnh phúc nào đang chờ đợi ngươi, vậy lần này ngươi có thể trở về nhà. Lần tới khi trở lại đây, ngươi hãy làm sao để chắc chắn là không có lý do gì để lo sợ vì đã không tu tập theo Chánh Pháp. Ngươi đã chính mắt mình trông thấy quả báo của những thiện nghiệp và ác nghiệp”. Rồi Ngài nhắn gởi bức thông điệp sau đây cho những người còn sống trên thế gian:

Có nhiều người đang thọ hưởng đời sống trọn vẹn của thế gian,
Nhưng họ qua đời với hai bàn tay trắng, không có công đức tu tập nào cả.
Hãy nhắn lại với những người không có đạo tâm đó với thông điệp sau:
Nói với họ rằng chính ngươi đã đến cõi giới của người Chết
Nói với họ rằng ngươi đã gặp Pháp Vương.
Nói với họ rằng ngươi đã thấy mười sáu địa ngục.
Nói với họ rằng biển sanh tử luân hồi rộng lớn.
Dù số người nam nữ là vô lượng
Khi họ bị nghiệp quả theo đuổi
Họ sẽ không có nơi nào để đi ngoài Tòa Phán Xét
Khi nghiệp quả xấu đến với ngươi
Mọi sắc tướng sẽ xuất hiện như những kẻ thù địch
Sẽ không có gì không có tính cách chống đối
Ví dụ như, một ngọn lửa xuất phát từ ngươi sẽ đốt ngươi.
Ngọn lửa này không phát sinh từ nơi nào khác.
Sự phát sinh của những nhận thức của ngươi như những kẻ địch,
Là kẻ thù hơn bất cứ một thế lực nào khác.
Ai làm ra những vũ khí đáng sợ đó ?
Làm sao họ có những vũ khí đó? Ai đã làm và được trao cho ai ?
Ai là Cha Mẹ đã nuôi dưỡng
Những đao phủ quái dị đó của các Thần Chết ?
Hiện tượng địa ngục cũng huyễn ảo giống như những giấc mộng của ngươi
Ngươi sẽ không chứng ngộ tâm mình là Phật
Trừ khi học cách chứng ngộ tánh Không của vạn hữu.
Khi biết cách giải thoát mọi cảm nhận của mình
Dù đi tìm ngươi cũng sẽ không thấy có địa ngục nào cả
Dù ngươi tìm địa ngục, địa ngục cũng sẽ là Tịnh Độ an lạc
Người ngu si vô trí lại lo sợ
Những hình ảnh tự tạo của chính tâm mình
Thì thật ra họ sợ cái bóng của chính mình.
Không có gì là có thật, nhưng mọi vật xuất hiện trong mọi hình dạng.
Mọi vật xuất hiện nhưng không hiện hữu theo tính chất thật của chúng.
Đó là tính chất của sự hợp nhất sắc tướng và chơn không.
Những người nào đã biết về tính chất đó,
Nên thiền quán về tính chất đó
Quyết định rằng tất cả đều là những hình ảnh tự xuất hiện
Tất cả chính là mình, không phân cách với mình.
Vậy hãy quyết định rằng luân hồi và Niết Bàn chính ngay nơi tâm của chính mình.
Hãy tinh tấn trì niệm OM MANI PADME HUNG.
Ngươi đã thấy ở đây oai lực của việc trì niệm Thần chú này chưa ?
Đừng quên tất cả những lời nhắn nhủ này.
Hãy kể cho mọi người biết những gì mà ngươi đã chứng kiến ở đây
.

Vị Pháp Vương bảo bà Chokyi trở về nhà. Rồi bà hướng về con đường đèo tuyết phủ. Bà Chokyi bước đi với ý nghĩ mình trở về nhà. Tức khắc bà thấy mình đang ở nhà. Giường bà bị ngăn bằng một tấm chăn. Trong giường bà thấy xác một con rắn, như bà đã trông thấy lúc trước đó.

Bực bội với gia đình của mình, Chokyi nghĩ rằng, “Họ biết mình sợ rắn, vậy mà họ lấy xác một con rắn đặt lên giường của mình rồi lấy y phục của mình mặc cho nó”. Rồi bà quyết định, “Bây giờ, dù sợ hay không, mình phải lôi con rắn cùng với mớ quần áo rồi liệng nó ra ngoài cửa“. Bà nhắm mắt lại, hai tay nắm vào lớp vải áo rồi kéo. Bà có cảm giác như thể mình đang bị té ngửa, nhưng tức khắc bà thấy mình đang ở trong thể xác này, giống như vừa thức dậy sau một giấc ngủ.

Chokyi thở một hơi dài, và người con trai trưởng gọi bà “Ama! Ama!” bà đáp “Ah.” Con bà la lớn, “Ama đã sống lại. Mọi người hãy đến đây!” Tất cả họ hàng chạy đến chỗ bà. Bà Chokyi kể lại mọi sự kiện mà bà đã trải qua, và mọi người đều khóc. Nhớ lại những đau khổ ở địa ngục, bà cũng khóc. Dần dần sức khỏe của bà phục hồi. Những người trong gia tộc của bà cúng dường các vị lạt ma rồi trở về nhà của họ

Đến mùa thu, bà tổ chức một cuộc họp mặt để thọ trì một tỷ biến thần chú OM MANI PADME HUNG. Bà cũng cúng dường cho nhiều tu viện.

Bà Chokyi lo cho chồng và các con những hành trang cần thiết để đi tới một nơi mà ở đó họ có thể tu tập theo Giáo Pháp. Bà và con gái trở thành nữ tu và đi hành hương nhiều nơi cũng như dành trọn cuộc đời của mình cho việc tu học và từ bỏ mọi sinh hoạt của thế gian.

Bà Lingza Chokyi kết luận chuyện kể delog của mình với những lời sau đây:

Tôi đã đích thân chứng kiến địa ngục trong con người. Hạnh phúc và đau khổ ở ngay trong tầm tay để chúng ta tự chọn. Khi tự ý chọn trong bàn tay của mình, xin đừng lo nghĩ quá nhiều về những gì mình muốn có trong cuộc sống này, mà phải cố gắng làm những việc gì tốt đẹp nhất cho kiếp sau của mình.


Điều tốt nhất để làm là buông bỏ những thú vui của cuộc sống này. Hãy cố gắng chứng ngộ tính chất thật của tâm mình. Nó có oai lực thật kỳ diệu.
Điều tốt thứ hai là không tạo nghiệp xấu qua thân, miệng, ý, và dành tất cả những nỗ lực cho những sinh hoạt trong Chánh Pháp.
Ít nhất cũng nên cúng dường một số tài sản cho những vị Thầy và các tu sĩ và cũng chia sẻ với những người nghèo khó
“.

Những phán xét nào đang chờ đợi tôi ?: Kinh nghiệm của Karma Wangdzin

Sau khi có kinh nghiệm thoáng thấy về chơn tánh tối thượng một chút, như chúng ta đã thấy ở chương 3, Karma Wangdzin đã trôi nổi đây đó như một lông chim trong không khí, vì bà không còn thân xác thô kệch để thần thức của mình trụ vào nữa. Bây giờ tâm của bà trong sáng hơn nhiều lần so với lúc còn sống.

Một ý nghĩ lóe lên trong tâm của Karma: “Mình đã thực sự chết rồi sao?” bà nhìn quanh một cách tuyệt vọng để tìm kiếm những người bạn nhưng không thấy ai cả. Rồi tức khắc bà quên câu hỏi là mình đã chết hay chưa. Bà cảm thấy cô đơn và nghĩ rằng đó là vì sống ẩn cư trong tu viện lâu rồi. Vì vậy bà tự nhủ, “Chỉ từ bỏ thức ăn ngon, quần áo đẹp, và trò chuyện vặt với mọi người thì như vậy chưa phải là tu hành. Mình nên trở về nhà hơn là ở lại tu viện này với cảm giác buồn chán”. Ngay khi có ý định trở về nhà, bà Karma thấy mình đang ở Ogtro, thị trấn quê hương của bà và không còn ở tu viện nơi bà ẩn cư nữa.

Chồng của bà Karma, là Trưởng Làng của thung lũng không có ở nhà, vì ông đã đến Tu viện Traphu cùng với nhiều người khác. Những người còn ở nhà đang than khóc và kêu tên của Karma “Ôi, Lhawang Putri! Ôi Lhawang Putri!”

Karma cố nhấc cánh tay của một số người, và hỏi, “Bạn bị ông Trưởng Làng mắng chửi hả?” nhưng không ai trả lời hay nhìn bà. Rồi bà nghe thấy một tiếng la lớn ở bên ngoài. Ở ngoài đường, người ta nói với nhau, “Lhawang Putri đã chết rồi!” nhiều người đang khóc lóc cũng nói, “Bà ấy thật khiêm nhường và rộng lượng.” Những người khác thì nói nhỏ với nhau “Bà ta to xương mà vai lại hẹp”. Ý họ muốn nói là bà có con tim cứng rắn và có tánh ganh tị.

Rồi bà trở về nhà mình. Những người trong gia đình bà đang kêu khóc “bà của chúng ta đã đi rồi!” “thật là tội nghiệp cho bà!” Buồn thay cho Trưởng Làng!” bà thấy những người thân nhỏ những giọt nước mắt đau đớn. Họ vô tình làm cho bà hứng một trận mưa máu và mủ rơi xuống bà trong hình dạng lớn cở quả trứng. Cơn mưa những giọt nước mắt này đi kèm với tiếng động sấm sét cứ đâm vào da, và làm gãy xương của bà. Phần lớn thời gian, bà thấy mình vẫn mặc y phục như thường lệ, nhưng trong cơn mưa bão như vậy, bà cảm thấy thân thể của mình bị đụng chạm và trần trụi.

Từ một nguồn vô hình nào đó, bà Karma nghe thấy một giọng nói, “Hãy đến Tu viện Traphu.” Chỉ bằng ý định thôi, bà đã đến Traphu ngay lập tức. Chồng của bà và những người khác đang bận rộn tổ chức một lễ hội. Hai vị tu sĩ nhanh nhẹn thiết trí một án thờ với những bức tranh tôn giáo thangka và nhiều lễ vật cúng dường. Bà nghĩ, “Ồ, thì ra họ đang làm lễ cúng dường Ngày thứ Bảy,” (Seventh-Day Offering) một nghi lễ hàng năm của Tu viện. Nhiều người lần lượt từ Ogtro đến chia buồn với chồng bà và mời ông ta những món đồ uống truyền thống.

Người quản gia của ông Làng Trưởng cũng đến, mang theo những món trang sức của bà Karma và đặt những món này lên bàn thờ, sau đó chào vị trưởng làng và nói, “xin ông đừng khóc, quả thật đây là bi kịch. Đây là lúc ông đau buồn nhất, nhưng bà ấy không giữ nhiệm vụ như một vị chủ nhân của ngôi nhà vùng Pagro nữa. Bà ấy còn nói đến việc giúp đỡ nhiều cô gái trong vùng bỏ nhà đi xuất gia. Người dân chúng tôi xem bị đau ngón tay trỏ của mình nghiêm trọng hơn là sự ra đi của bà. Bây giờ chúng ta phải tập trung vào việc chuẩn bị làm tang lễ”.

Một dòng nước mắt rơi xuống, vị Trưởng Làng nói, “Mặt trời đã lặn ở giữa ban ngày. Chúng tôi chỉ được sống với nhau một thời gian rất ngắn, mà tôi thì không có Cha Mẹ. Bà ấy là người bạn thật sự độc nhất mà tôi có. Giờ đây tôi cũng đã mất bà ấy rồi.”

Rồi ông Trưởng Làng bảo “Cho đến khi xong lễ chung thất bốn mươi chín ngày, nên bảo quản thi hài của bà ấy còn nguyên vẹn mà không ướp xác. Bà là hạng người có thể sống lại như một delog. Chẳng hạn như bà Lingza Chokyi, đã trở về thế gian với nhiều chuyện kể về kinh nghiệm sau khi chết. Lúc đó bà Karma đang khóc và nghĩ, “Mình chết thật rồi sao?”.

Nhưng ngay sau đó, bà Karma lại vẫn tin là mình còn sống. Nắm lấy tay chồng, bà cố gắng nói với ông ta là bà còn sống và ông ta không có lý do gì để buồn về điều gọi là cái chết của bà. Nhưng ông ta cũng như tất cả những người khác đều không đáp lại lời phân bua của bà. Bà cho rằng mọi người đang giận mình.

Chồng bà yêu cầu một người giúp việc dùng một con trâu yak chở những bánh trà cho một số người. Nhưng bà Karma thấy trên đường đi, người giúp việc đã lặng lẽ ăn cắp một số bánh trà và giấu trong một cái túi để xài riêng. Bà thấy xấu hổ cho anh ta vì hành vi thủ lợi nhỏ mọn như vậy.

Khi những người hầu dọn thức ăn cho ông Trưởng Làng, bà Karma nghĩ là mình sẽ ăn chung với chồng như thường lệ, nhưng không ai tiếp thức ăn cho bà, và cả chồng bà cũng không mời bà gì cả. Bà khóc và nghĩ, “Bây giờ thì một bữa ăn nhỏ mình cũng không được tham dự.” Bà giận dỗi và nghĩ về chồng, “Chính ông đã không cho tôi ở với Cha Mẹ thân yêu của tôi và không cho tôi đi tu, lại còn nói “anh sẽ lo tất cả mọi nhu cầu cho em.” Nhưng bây giờ ông đã cư xử giống như bọn người hầu của ông. Tôi còn không có quyền ăn với ông một bữa ăn nhỏ. Thôi tôi trở về tu viện của tôi đây“.

Trước khi đi, bà lại nghĩ về chồng mình “Khi tôi còn là đứa con cưng của Cha Mẹ tôi và được tự do đi tu, ông đã dụ dỗ với tôi với những lời hứa này nọ. Bây giờ thì tôi cũng không được ăn uống dù chỉ một chút. Ông đã lấy những món trang sức mà Cha Mẹ tôi đã cho tôi. Trước đây ông xem tôi như một Thiên nữ. Giờ đây ông bắt tôi lang thang như một con chó hoang, không ai thèm nhìn ngó. Tôi không thể tin cậy nơi ông một việc gì nữa. Tất cả hy vọng của tôi và lời hứa của ông giống như vẽ trên nước. Bây giờ tôi đã hiểu hết ý nghĩa của câu nói thời xưa“Cho đến khi bị thòng lọng xiết cổ, người đàn bà không biết lo nghĩ một chuyện gì hết”. Tôi sẽ cảnh báo cho tất cả những cô gái chưa chồng biết và khuyên nhủ họ buông bỏ mọi thứ và đi xuất gia theo Chánh Pháp”.

Sau đó bà hét lớn: “Ông Trưởng Làng và tất cả mọi người, hãy nghe tôi nói. Tôi ở đây làm phiền mấy người. Ông cứ vui hưởng của cải và quyền lợi của ông. Tôi sẽ vui sống với Chánh Pháp. Ông đừng ân hận gì cả nhé!”. Không một ai mời bà đi trong khi họ than khóc. Bà bèn bỏ đi khỏi nơi đó.

Trong thung lũng, bà trông thấy một nhóm vong linh đang hạ xuống từ vùng đất cao của thung lũng. Họ nói với nhau “Có một lễ cúng ở thung lũng Gechu. Chúng ta hãy đến đó.” Bà Karma cũng đi theo họ đến Tu viện Kunga Ling. Mấy con chó vốn quen thuộc với Karma, bây giờ lại sủa vang và nhào tới bà. Bà chạy ra và đợi ở bên ngoài. Sau đó một tu sĩ dâng cúng nước và bánh “torma”, rồi liệng những đồ cúng ra ngoài. Đủ loại sinh linh bu tới như ruồi đen để hưởng những món đó. Những vong linh được người ta dâng cúng thì hưởng những món đồ cúng chính yếu, trong khi những vong linh khác thì chia nhau những đồ cúng còn lại. Nhiều vong linh yếu ớt hay bệnh tật không tranh dành được gì cả, họ đau khổ nhào xuống đất kêu khóc ầm ĩ vì đói khát. Có những vong linh vừa khóc vừa ôm nhau. Karma cảm thấy ngượng vì bà có hoàn cảnh tốt hơn họ. Bà rất thương xót nhưng không thể làm gì được cho những vong linh đau khổ đó, giống như người đui giúp kẻ mù. Bà khóc rống lên vì họ và ngay lúc ấy bà nghe một giọng nói rất rõ ràng:

Thứ nhất, họ không tạo lập công đức nào cả trong quá khứ.
Thứ hai, sự đau khổ đó là do hậu quả của những nghiệp xấu của họ.
Thứ ba, ở đây những vong linh như vậy chỉ là thiểu số.
Buồn thương cho họ cũng không ích lợi gì. Vậy hãy bình tĩnh
“.

Rồi bà Karma muốn đến Zagrum để thăm Cha Mẹ. Tức khắc bà thấy mình đang ở Zagrum. Mẹ Karma đang đi kinh hành quanh một chùa để làm lễ. Karma nói ngay với mẹ, “Amala ơi, cho con xin một chút gì để ăn.” Mẹ của bà không nói gì cả mà cứ tiếp tục đi nhiễu. Karma nghĩ, “Trước đây khi mình đi ngựa đến với mấy người bưng quà biếu, Mẹ mình sẽ khen ngợi, “Ôi, con gái của tôi đã về” và vui vẻ đón tiếp mình với bia “chang”. Giờ đây thì bà cũng giống như những người khác, làm lơ với mình. Chắc bà đã nhận được một lá thư của ông Trưởng Làng than phiền về mình chăng. Mẹ phải quan tâm nhiều cho chồng mình, con trai của người khác, hơn là lo cho con gái ruột của bà”.

Karma nắm áo mẹ và van xin “Vì con lấy vị Trưởng Làng theo sự sắp đặt của Cha Mẹ, con đã nghĩ là dù chuyện gì xảy ra đi chăng nữa thì con đây cũng phải chấp nhận số phận của mình”. Trưởng Làng đã đi lại với một cô gái ở Shar, nhưng con lại là người bị bắt lỗi vì vụ đó và bị đánh đập. Con không muốn cho Cha Mẹ biết sự việc này. Vì con không sinh đẻ gì nên một chút đồ ăn thức uống người ta cũng không chia phần cho con. Xin Mẹ hãy cho con chút gì để ăn, rồi con sẽ đi khỏi nơi đây để tu học”.

Không nhìn Karma mà cũng không nói một lời nào, Mẹ của bà đi vào nhà. Bà Karma vẫn đi theo dù không được mời. Trong nhà Cha Mẹ, cả nhà tụ lại để ăn trưa. Karma đang đói và ngồi phía sau Mẹ mình, chờ đợi để được mời ăn, nhưng không có ai để ý tiếp cho bà cái gì. Sau bữa ăn, mọi người ra ngoài và Karma cũng đi. Tưởng là tất cả mọi người đều giận dỗi mình, bà lăn ra đất khóc lóc thê thảm.

Trong giây lát, bỗng bà nhớ lại rõ ràng những hướng dẫn về việc kiểm nghiệm những dấu hiệu của cái chết, do vị Thầy nổi tiếng là Đại Sư Norbu Trashi đã ban cho bà. Trước tiên bà kiểm tra xem mình có bóng đen hay không, không có bóng gì cả. Rồi bà lắng nghe tiếng bước chân của mình, không có tiếng gì cả. Bà nghĩ, “trời ơi! Chắc mình đã chết rồi! tất nhiên là đúng như vậy! Cuộc đời của mình trải qua nhanh như chớp. Cảnh đời nhỏ bé như nhìn qua một cọng rơm. Mình chưa từng đạt được một sự tự tin nào trong việc tu tập. Mình không nhớ là đã bố thí cho ai bao giờ chưa. Bây giờ mình sẽ bị các sứ giả của Thần Chết bắt đi”. Với sự đau buồn và than khóc cho thân phận mình, bà té xuống đất bất tỉnh.

Sự hướng dẫn của một vị Thần, Tara Trắng

Khi bà Karma tỉnh lại, một người mặc áo trắng, tóc cột ở phía sau lưng đang đứng trước bà, tay cầm một cái trống nhỏ. Ngài là Tara Trắng, vị Thần bảo hộ của Karma, vị nữ thần nắm tay Karma và nói những lời an ủi:

“Than ôi ! Đừng buồn. Hãy đứng dậy đi con
Khi còn những phiền não và không giác ngộ thật tánh của các pháp
Mà lại nói là mình đã chứng ngộ thì mình nói dối và độc ác.
Đức Phật dạy“Sinh và tử là nghiệp của đời người.
Và chúng diễn ra liên tiếp”.
Cái chết không chỉ xảy ra với con.
Tất cả các sinh linh khác đều phải đi qua con đường này
Ta sẽ phù hộ để cho con ra đi trong bình an

Trong hành trình chuyển tiếp của bà Karma, không phải lúc nào cũng trông thấy Đức Tara Trắng, nhưng khi gặp phải tình trạng khó khăn thì nữ thần liền hiện ra hướng dẫn bà. Tara Trắng là một vị Phật trong thân tướng người nữ, và Karma có liên hệ với Ngài vì bà cầu nguyện Ngài và thiền quán về Ngài như hình ảnh của Đức Phật. Nhưng dù có sự hướng dẫn của Tara Trắng, bà Karma vẫn phải đối diện với những nghiệp quả xấu của mình.

Trước khi đi với Ngài Tara Trắng, bà Karma nói với Mẹ ” khi con còn ở đây Mẹ không cho con ăn gì cả, sau khi con đi rồi, Mẹ đừng có ân hận nhé.” Tuy vậy, bà vẫn còn quyến luyến Mẹ mình, nên khi chia ly thật không thể chịu nổi. Bà nghĩ là Mẹ mình sẽ đi theo sau mình, nhưng Mẹ bà không làm vậy.

Trong khi bà Karma đi mỗi lúc mỗi xa hơn, thung lũng quê hương của bà dần dần khuất sau một quả núi khổng lồ. Bà khóc rấm rứt với nỗi buồn, đến một ngả ba đường. Bà chọn đi đường ở giữa. Lúc đó, trên đỉnh một quả núi sắc nhọn ở hướng Tây, bà trông thấy một tu sĩ mà bà nhận ra đó là chú của mình. Ông có mái tóc bạc và tay đang cầm xâu chuỗi hạt màu đen. Tay và chân ông ta chuyển động như thể đang nhảy múa. Ông lớn tiếng cảnh báo Karma rằng bà đã đi lầm đường.

Ông chỉ dẫn đường đi và những ánh sáng mà bà sẽ trải qua trên hành trình chuyển tiếp này. Rồi bà nghĩ đến việc leo lên núi, nhưng bất ngờ một cơn bão mạnh phát ra, cuốn bà lên trời rồi liệng bà xuống mặt đất nhiều lần.

Cuối cùng, bà thấy mình đang ở giữa một đám đông những sinh linh có hình dạng và mặt mũi đáng sợ. Những con mắt trợn trừng của họ nhìn bà và những răng nanh như tảng băng nhe ra đe dọa bà. Họ mặc đồ da cọp và da beo hay da người với đồ trang sức bằng xương, họ đang ăn món canh óc đựng trong những chén sọ người và tay cầm những chùm ruột. Những người khác đang vung cao nhiều loại vũ khí ở trên đầu họ. Tất cả đều hô lớn “HUNG! HUNG! PHAT! PHAT! Đánh! Đánh! Giết! Giết!” Karma hoảng sợ đến mức không thể nghĩ hay nhớ đến gia đình hay bạn bè nữa.

Rồi bà thấy mình ở bên rìa của một cánh đồng bao la. Cơn bão khủng khiếp bây giờ đã ngớt. Từ đâu đó những tiếng la “Giết! Giết!” vẫn còn vọng đến chỗ bà, giống như tiếng sấm ở xa. Từ những đau khổ và sợ hãi tệ hại nhất có phần dịu đi, ít nhất thì cũng trong lúc này.

Nhưng bà Karma lại nhớ đến Cha Mẹ, gia đình, bạn bè và gọi tên của họ. Lăn lộn trên đất, bà khóc lớn và than rằng “Tại sao mấy người lại để cho tôi cô đơn như thế này mà lại không cho tôi biết về những sự nguy hiểm này”.

Nữ Thần Tara Trắng (theo truyền thống PG Tây Tạng)

Lúc đó, Nữ Thần Tara Trắng lại xuất hiện và bà Karma nắm lấy áo của Ngài khóc và hỏi, “Cô ơi, cánh đồng này có tên là gì? Thành phố lớn ở đằng xa đó gọi là gì? Tên cô là gì? Con có cha mẹ, chồng và nhiều người thân, nhưng con không nói gì về chuyến đi này với ai cả. Con chỉ bất ngờ tới đây không thể cưỡng lại được. Xin cô nhận các món trang sức này rồi giúp đưa con về nhà.”

ĐứcTara Trắng đáp “Vì sự mê lầm lớn của con, những ý tưởng của chính con đã xuất hiện trong hình dạng những kẻ thù địch. Cánh đồng này rộng lớn như bầu trời và được gọi là Cánh Đồng Hoang Lưỡi Dao, đây là lối đi vào địa ngục của những người đã tạo ác nghiệp. Thành phố đó là thành phố lớn của người chết. Nếu con không nhận ra ta thì ta sẽ nói tên bí mật của Ta là Kim Cương Du Già Nữ (Vajrayogini). Chúng ta là những người bạn bất khả phân ly, giống như hình với bóng. Con có gia đình và bè bạn, nhưng con đã rời bỏ kể cả thân xác của con. Không có sự lựa chọn, con đã phải rời khỏi những người thân và của cải mà mình đã có. Bây giờ con đã đến cõi trung ấm bardo, con đang mang cả gánh nặng nghiệp quả trên vai. Nếu con muốn trở về đời sống con người thì con nên tu học theo Chánh Pháp; Con nên rộng lượng bố thí cho những người túng thiếu; Con nên đi hành hương chiêm bái những nơi thiêng liêng; Con nên buông bỏ mọi tham dục thế gian và tăng trưởng sức mạnh quán chiếu về chơn tánh.”

Bỗng nhiên bà Karma bắt đầu thấy một cơn mưa lưỡi dao từ trời rơi xuống và một rừng gươm từ dưới đất mọc lên. Những phần thân thể và những mảnh thịt phủ đầy cánh đồng. Karma kinh hoàng và té xuống đất bất tỉnh. Khi tỉnh lại, bà nghĩ, “Mình đã thực sự chết chưa?” Một lần nữa, Đức Tara Trắng giải thích “Con đã để lại thân xác ở thế giới người sống. Một số người thân và bạn bè đang thức canh chung quanh thi hài của con. Có vài người đang khóc và gọi tên con. Những người khác đang bận rộn sửa soạn tang lễ. Cũng có những người đang nói “Ồ, bà ấy là một vị Phật ẩn mình.”

Cuối cùng, bà Karma nhận ra sự thật, bà nói, “Than ôi, bây giờ mình đã chết rồi!”. Điều này khiến cho bà chấn động. Tâm tư của bà tràn ngập sự ân hận vì cả đời bà đã không cống hiến cho việc tu tập. Khi bà bắt đầu nghĩ về những nghiệp xấu mà mình đã tạo tác lúc còn sống, tất cả những hành vi xấu này vùn vụt hiện ra một cách sống động trước mắt bà. Bà không thể thấy bất cứ thứ gì ngoại trừ những nghiệp xấu của mình. Bà nghĩ, “Bây giờ mình không thể thoát khỏi đây được nữa” bà than thở:

Hởi những bè bạn của tôi, hãy cống hiến đời sống của bạn cho Chánh Pháp linh thiêng khi bạn còn tự do.
Tài sản mà các bạn ra sức tích chứa không có giá trị gì cả
Hãy cúng dường chúng cho Tam Bảo.
Những hoạt động mà các bạn quá chú tâm không có mục đích nào cả
Hãy buông bỏ chúng để siêng năng tham thiền và cầu nguyện.
Những cuộc họp mặt của người thân và bạn bè cũng giống như những lữ khách tụ họp
Hãy cắt đứt liên hệ với họ và về tu viện
Trong khi còn hưởng kiếp sống con người, các người nên cống hiến cuộc đời mình cho Chánh Pháp.
Vì bạn không thể tin cậy một thứ gì khác,
Hãy loại bỏ sân hận, tham dục và ganh tị.
Hãy tụng kinh và trì Thần chú Lục-Tự,
Để thanh lọc thân, miệng và ý
Nguyện cầu cho tâm bạn an trụ trong thiền định!

Không thể kiểm soát mình bà hối hận, khóc lóc và tự đánh mình, bà Karma nói với ĐứcTara Trắng, “Cô ơi! Con không tu tập theo giáo pháp nhiều, cũng không tạo nhiều ác nghiệp. Vậy mà con vẫn bị cơn bão lớn hành hạ. Con đã bị kẹt ở giữa những tia chớp nhiều màu với tiếng la hét ‘Đánh! Đánh! Giết! Giết!’ giống như hàng ngàn tiếng sấm sét cùng lúc. Con đã đối diện với đủ loại quái đản không thể tưởng tượng được. Tất cả những cái đó là gì?”

Đức Tara Trắng trả lời:

Cơn bão xuất hiện là sự chào mừng dành cho con của các sứ giả Thần Chết. Những sinh linh trong những hình dạng khác nhau là sự hiển lộ của các vị thần hiền hòa và phẫn nộ ở bên trong chính con. Họ phát ra những âm thanh vô thượng, nhưng vì những cảm nhận xấu của con, nên con nghe thành “Giết! Giết!”. Hình ảnh họ vung lên nhiều vũ khí khác nhau là dấu hiệu cho thấy những phiền não của con đã được giải trừ tận gốc rễ. Nhưng con lại trông thấy chúng như một cơn mưa vũ khí, vì những nhận thức của con đã biểu hiện như những kẻ thù địch. Từ bây giờ trở đi con phải nghĩ là mình an trú trong những hình ảnh và âm thanh đó, xem chúng như những hình ảnh và âm thanh của Đức Phật.

Sự xuất hiện của ánh sáng nhiều màu là ánh sáng của các vị thần hiền hòa và phẫn nộ của chính tâm con. Những ánh sáng năm màu là ánh sáng của năm bộ phái Phật. Vậy hãy nghĩ rằng mình an trú trong những ánh sáng của các Ngài.

Tất cả những âm thanh là âm thanh tự nhiên. Chúng không phải là một thực thể riêng rẽ mà là sự biểu lộ của tính nhất như. Tất cả âm thanh, ánh sáng và tia sáng này xuất hiện như sự tự xuất hiện của chính tâm con. Đừng xem những cảm nhận của chính mình là kẻ thù địch.

Con không tạo nhiều nghiệp xấu. Nhưng nhiều người trong thời đại suy thoái này có nguy cơ đọa vào địa ngục vì họ tích lũy nhiều cảm xúc tiêu cực như tham, sân, si, ganh tị, kiêu ngạo và tạo quá nhiều bất thiện nghiệp trong kiếp sống của họ.

Con sẽ tái nhập thể xác của con trong cõi người sống như một sứ giả trở về từ cõi chết. Vậy con phải dũng mãnh lên để quan sát một cách cẩn thận những gì diễn ra ở đây. Con phải ghi nhớ tất cả những gì mình trông thấy và nghe thấy, không được quên. Bây giờ chúng ta hãy cùng qua bên đó.

Thoáng thấy Địa Ngục và những sứ giả của Thần Chết

Tại một góc hướng Tây của cánh đồng lớn, bà Karma trông thấy một người đầu nai kinh khủng, tay cầm dây thòng lọng màu đen, với hai mắt trợn trừng, người đó đang đuổi theo một bà già đeo đồ trang sức trên đầu. Bà Karma hỏi ĐứcTara Trắng “Trời ơi! Người đầu nai kia là ai? Người phụ nữ bí ẩn đó là ai?”

Đức Tara Trắng đáp “Đừng sợ người đầu nai đó. Vị ấy là một trong những biểu hiện các các vị Thần cung điện ở trong đầu óc của chính mình. Các vị Thần có màu sắc, hình dạng và kích cở khác nhau xuất hiện tùy theo tâm tánh của con người. Bà già đó là người xứ Chenying thuộc tỉnh Kham, bà ta là vợ của viên thị trưởng và đã âm mưu với chồng trong việc cướp của, giết người và săn bắn thú vật. Đây là sự cảm nhận của bà ta về cõi chuyển tiếp này. Sau sự kiện này bà ta sẽ bị xét xử và sẽ bị đày xuống địa ngục.”

Kế tiếp, bà Karma trông thấy một chiếc cầu sắt khổng lồ bắt ngang qua một con sông chảy xiết được gọi là Sông Lớn Luân Hồi (Great River of Samsara). Ở đầu phía đông của chiếc cầu là một thành phố kỳ lạ, một phần của dân thành phố mà trong đó có các Tăng, Ni, và những người tại gia, tất cả đều hoan hỷ, giàu có và đẹp đẽ. Họ sống trong những lâu đài kỳ diệu được trang hoàng rực rỡ. Một số người dành thời gian của mình để ca hát và nhảy múa một cách hoan lạc. Những người khác thì dành thời gian của họ để cầu nguyện và trì Thần chú OM MANI PADME HUNG. Nhưng lại có một số người lại bố thí không mệt mỏi cho những người khác. Không ai có vẻ lo nghĩ hay đau khổ.

Tuy nhiên, phần còn lại của cư dân trong thành phố này thì ngược lại, họ không có nơi để trú ẩn, và không có thực phẩm để ăn. Họ liên tục khốn khổ vì đói và khát. Nhiều người đặt hai tay lên trán như đang tìm kiếm thứ gì ở tận chân trời. Họ đang tuyệt vọng để tìm dấu hiệu tốt nào đó cho thấy người thân của họ sẽ hồi hướng công đức cho họ trong tang lễ để họ được gặp những tốt lành trong tương lai. Thỉnh thoảng lại xuất hiện những vị Thần Chết đến đưa nhiều người đi khỏi nơi này.

Đây là địa điểm mà nhiều người chết chờ đợi trước khi bị đưa đến Tòa Án của Đức Pháp Vương để được phán xét.

Nhìn những sinh linh ở nơi này, một Thần Chết giải thích cho Karma “Trong những người này, nhiều người vui vẻ vì họ đã sống trong sạch và biết tôn trọng người khác. Nhiều người tụng niệm và cảm thấy an lạc vì họ có năng lực kinh nghiệm tâm linh mà họ đã đạt được khi còn sống ở thế gian. Ngay cả các vị Thần Chết cũng không dám nhìn họ. Nhiều người có của cải vô tận và vẫn tiếp tục cho và nhận, vì họ đã bố thí tất cả những gì họ có khi còn ở trên trần gian.

Những người khác phải chịu đói khát vì họ đã không giúp đỡ hay tôn trọng người khác hoặc không bố thí gì cả. Thay vào đó, họ phỉ báng, cướp bóc, và tấn công người khác trong lúc còn sống. Họ đang chờ đợi hay tìm kiếm, mong người thân của mình sẽ hồi hướng công đức cho mình. Không bao lâu nữa họ sẽ bị đưa đến tòa án của Pháp Vương, nơi một số người sẽ được giải thoát và một số bị đưa vào những cõi thấp.”

Sau đó, bà Karma đến thăm cõi ngạ quỷ. Tất cả những sinh linh ở đây đều không y phục, bao tử của họ lớn như thung lũng, tay và chân lại nhỏ như cọng rơm, cổ họng của họ hẹp như một sợi lông đuôi ngựa. Vì quá khát nên lửa bốc ra ngoài miệng của họ, cái đói không thể chịu nổi đang hành hạ họ.

Nhìn họ, một vị Thần Chết giải thích với bà Karma “Những người này chưa từng có lòng quảng đại trong cuộc đời của họ. Họ chưa từng cúng dường một cái gì hay bố thí cho những người túng thiếu một cái gì. Họ chưa từng có những ý nghĩ cao thượng mà chỉ có tâm tham dục sôi sục, tâm sân hận nóng cháy, tâm kiêu ngạo tràn ngập, tâm si mê tối tăm, và tâm ganh tị bão táp. Họ cản trở người khác cúng dường, bố thí, và họ không thể ăn uống, tất cả là vì sự keo kiệt của họ.”

Bà Karma thấy Đức Phật Từ Bi đang thăm các ma đói. Từ tay của Ngài, những dòng cam lồ tuôn chảy làm mát dịu những sự khốn khổ của họ. Nhưng nhiều người trong số họ không thể hưởng được dòng Cam lồ mà cũng không thể nhìn thấy vị Phật hay an trụ được trước sự hiện diện của Ngài.

Sau đó, tại cổng của một chiếc cầu, một cô gái trẻ hấp dẫn lúc múa hát lúc lại khóc lóc. Nữ Thần Tara Trắng hỏi cô ta:“cô gái xinh đẹp kia, sinh quán và gia đình cô ở đâu? Tại sao múa hát mà lại khóc? Cô sắp đi đâu, lên hay xuống?”

Cô gái đáp“Than ôi, con là người ở vùng cao nguyên ở phía Nam Tây Tạng, thành phố nơi con ở là Neudong. Cha con là Chogyal Tsering và Mẹ là Sechung. Tên của con là Dorje Gyalmo, thung lũng quê con bị người Mông Cổ cướp phá, họ bắt con về Mông Cổ, con chết vì bệnh nặng. Con đến đây và không còn cơ hội gặp lại Cha Mẹ lần nữa. Đức Pháp Vương nói với con, “Con là người thuộc một gia đình danh giá, có trí thông minh và không vị kỷ. Nhưng con quá quyến luyến Cha Mẹ và tài sản của mình, thêm nữa, con vẫn còn tuổi thọ để được hưởng. Vậy con hãy trở về để tái sanh là một “manmo” ( một loại vong linh nữ)”.

Đức Tara Trắng lại hỏi cô, “Tại sao tâm con lại quá quyến luyến?” cô gái đáp, “Sau khi con chết, thay vì những tài sản của con đem bố thí để tạo công đức, người ta lại lấy bán cho một người đàn bà. Cho nên khi nhìn thấy sự khủng khiếp của Thần Chết, con vẫn nghĩ về sự đau khổ này. Do luyến ái đó, vị Pháp Vương truyền lệnh cho con tái sanh như một manmo.”

Cô gái khóc và xin Karma gởi những lời sau đây cho Cha Mẹ mình: “Con là Dorje Gyalmo. Con quyến luyến Cha Mẹ và đồ trang sức của mình. Thưa Cha Mẹ, xin Cha Mẹ cúng dường tất cả của cải của con cho một vị Lạt ma để làm lễ cầu siêu và làm hàng trăm lễ bánh “torma”. Xin Cha Mẹ đãi mọi người bia “chang” và nhờ họ cầu nguyện. Nếu có thể làm như vậy, con sẽ được tái sinh làm người thay vì làm “manmo”.

Trong lời kể của bà, Karma không nhắc về chuyến đi xuống những địa ngục, nhưng thật sự bà có trông thấy vô số sinh linh đang chịu những sự đau đớn không thể tưởng tượng được. Bà đã nhận được một số lời nhắn của vài người gởi cho người thân còn sống của họ ở thế gian.

Bị gọi đến Tòa Phán Xét

Sau đó Đức Tara Trắng đưa bà Karma đến cung điện của Pháp Vương của những Thần Chết. Năm bức tường bằng đồng tâm bao quanh cung điện này. Có bốn cổng ở mỗi hướng, và tám quân với hình dạng khủng khiếp bảo vệ mỗi cổng. Họ cầm những món vũ khí đáng sợ và hét lớn: “HUNG! HUNG! PHAT! PHAT! Đánh! Đánh! Giết! Giết!”

Ở trước cổng phía bắc có một cái đài lớn bằng đá, ở trên đó bà Karma thấy những đống bộ phận thân thể. Các tội đồ bị cắt thành từng mảnh bởi những bánh xe sắt có gắn vũ khí bén nhọn, xoay tròn, từ trên trời rơi xuống người họ. Họ bị dập nát thành đất bằng những thứ khí cụ mà quân đao phủ sử dụng theo lệnh của các Thần Chết. Hoảng sợ và đau đớn, bà Karma gục xuống đất, Đức Tara Trắng đỡ bà dậy và an ủi:

Những sinh linh này đang lãnh thọ những quả báo của mình,
Nếu Đức Phật đích thân đến đây, Ngài cũng không làm gì được,
Vì họ đang chịu hậu quả nghiệp báo của họ, con đừng có buồn lo như vậy.

Con tim bà Karma đau đớn và ân hận, bà thầm nghĩ, “Mình đã không nghiêm chỉnh tu học theo Chánh Pháp khi còn sống ở nhân gian. Bây giờ Pháp Vương sẽ hỏi mình điều gì ? Lời phán xét nào đang đợi mình đây ? Nếu có cơ hội trở lại cõi người, mình sẽ giải thích cho mọi người biết về sự nghiêm khắc của luật nhân quả, bằng cách kể cho họ chính xác những gì mình đã chứng kiến, mà không tô vẽ thêm thắt . Mình sẽ hiến tặng tất cả những gì có cho mọi người, không tích trữ nữa. Mình sẽ buông bỏ tất cả những hoạt động thế gian, mình sẽ thiền quán về chơn tâm. Không luyến ái một người nào nữa. Mình sẽ hành hương chiêm bái từ Tu viện này đến những am thất ẩn cư khác. Lúc nào mình cũng sẽ quán tưởng trong tâm về vị Thầy của mình và sẽ liên tục cầu nguyện đến Tam Bảo. Mình sẽ không bám giữ vào người thân và bạn bè nữa”.

Đúng lúc đó, bà Karma nghe một tiếng nói lớn từ cung điện của Pháp Vương. Một quân canh đến và nói với bà Karma và Đức Tara Trắng: “đó là dấu hiệu gọi bà đến Tòa Phán xét của Pháp Vương.”

Trái tim của bà Karma đau nhói như thể bị trúng một mũi tên. Bà bị sự ân hận hối tiếc của mình hành hạ vì đã không chịu tu tập nghiêm chỉnh. Bà vừa khóc vừa nghĩ, “nhưng mình đã không ngừng nghỉ nguyện cầu chư Phật, xin chư Phật từ bi để mắt đến con”.

Đức Tara Trắng lau nước mắt cho Karma rồi nói: “Con chưa từng bố thí tài vật nào cả, cũng chưa đạt được chứng nghiệm thiền quán vững chắc. Nhưng tâm con trong sáng như một tấm gương, không bị hoen ố vì ác nghiệp, con và Ta đã không tách rời nhau trong một thời gian dài, vì cộng nghiệp và ý nguyện của chúng ta.”

Nắm tay bà Karma, Đức Tara Trắng đưa bà đi qua cổng. Họ đi lên một cầu thang bằng đá lớn. Bà Karma run rẩy sợ hãi, rồi họ bước vào một đại sảnh. Ở giữa đại sảnh là vị Pháp Vương, bà Karma trông thấy vị Pháp Vương trong hình dạng của Guru Rinpoche, Padmasambhava (Đại Sư Liên Hoa Sanh ). Ngồi trên một cái ngai được nâng bởi bốn sư tử, Ngài mặc trang phục, đeo nhiều món trang sức và cầm những khí cụ giống như Karma đã thấy trong bức tranh. Vừa trông thấy Guru Rinpoche, thân và tâm Karma lập tức tràn ngập niềm tôn kính. Bà thấy mình nổi gai ốc, những giọt nước mắt vui mừng trào ra, bà muốn nhào tới sụp lạy trước Guru Rinpoche, nhưng kịp dừng lại vì sợ các vị Thần phẫn nộ nam nữ đang đứng chung quanh Ngài.

Những vị Thần phẫn nộ này có hình dạng đáng sợ, mặc những y phục gây sợ hãi và vung lên những khí cụ kinh khủng. Ở dưới chân Guru Rinpoche và ở bên phải, là một vị Thần Chết có thân người đầu bò. Vị này cầm tấm gương phản chiếu mọi hành động của những sinh linh được trình bày trước Pháp Vương. Đứng bên cạnh vị đó là Thần Chết Đầu Cọp cầm sổ ghi công và tội của các sinh linh. Ở bên trái của Guru Rinpoche là Thần Chết Đầu Rắn, vị này giám sát hết tất cả những người có mặt tại phiên tòa. Ở phía trước Guru Rinpoche là Thần Chết Đầu Heo, vị này giữ sổ kết toán và thời biểu. Còn có nhiều Thần Chết có đầu của những loài thú khác nhau và cầm đủ loại khí cụ.

Đức Tara Trắng nói với Karma, “Ở bên ngoài vị ngồi giữa là Pháp Vương nhưng ở bên trong là Guru Rinpoche. Ở bên ngoài, vị đứng bên phải Guru Rinpoche đang nhìn chúng ta với đôi mắt lồi và la hét như sấm, “HUNG! HUNG! PHAT! PHAT!” là một Thần Chết, bên trong Ngài là hình dạng phẫn nộ của Ngài Văn Thù (Manjushri) vị Phật của Trí tuệ. Nếu con thành tâm cầu nguyện đến các Ngài, con sẽ thoát khỏi nguy hiểm và lo sợ. Tất cả các vị Thần Chết nam và nữ là các vị Phật hiền hòa và phẫn nộ. Nếu con thành tâm cầu nguyện đến các Ngài, con sẽ được tái sanh vào những cõi cao. Con phải ghi nhớ những điều trọng yếu này. Con đã không tạo nghiệp xấu nghiêm trọng nào, nên đừng lo sợ. Hãy đứng dậy và làm lễ các Ngài, và phát nguyện cho mình và tất cả chúng sanh”.

Bà Karma đảnh lễ một lạy với lòng tôn kính, nhưng trước khi đảnh lễ lạy thứ hai hay phát nguyện, vị Thần Chết Đầu-Rắn cản bà lại. Vị này ra hiệu cho bà ngồi xuống ở một góc. Ngay sau đó vị Pháp Vương lớn tiếng bảo các vị Thần Chết đang đứng trong sân của cung điện, “Một người mới chết từ cõi người đang đến. Hãy đưa người ấy lại đây ngay.” Trong sân vô số Thần cầm mọi loại khí cụ đứng dậy hô lớn “HUNG! HUNG! PHAT! PHAT!“.

Ngay lúc đó có một người đàn bà xuất hiện trong sân. Khi mới nhìn thấy cảnh tượng đáng sợ này, bà ta cố bỏ chạy, nhưng không có đường nào để thoát. Rồi bà tay vung gậy và trì niệm Thần chú Lục tự: OM MAINI PADME HUNG. Ngay khi nghe tiếng niệm lục tự đại minh chơn ngôn này, tất cả Thần Chết đều an tĩnh đứng tại chỗ. Đi cùng với người đàn bà đó là một phụ nữ mặc áo choàng màu trắng. Tóc vị ấy cột búi bằng một dây lụa đỏ và cầm một chuỗi hạt pha lê. Nắm tay người đàn bà, vị ấy đưa bà vào cung điện. Bà được trả tự do, có vẻ các vị thần chết không có quyền hạn gì để bắt giữ hay đe dọa bà. Nhưng khi kiểm lại, các vị này thấy bà ta đã có nhiều công đức, như cầu nguyện Phật Từ Bi, nhưng bà ta cũng đã tức giận lối cai trị bất công của chính quyền. Vìlý do đó, bà ta sẽ tái sanh làm một con chim và sau đó mới được tái sanh trong cõi làm người.

Rồi bà Karma nghe thấy một tiếng nói lớn, Bà nhìn về hướng có tiếng nói và thấy một vị tu sĩ đội mũ. Vị ấy nói với bà, “Giờ đây bà đã hiểu luật nhân quả; Bà đã trông thấy mặt mũi của Pháp Vương; Bà đã chứng kiến những sự đe dọa của Thần Chết. Ngươi phải nhớ chắc chắn những nghiệp quả và những lời dạy của Pháp Vương. Bây giờ bà phải trở về cõi người. Những người của bà sắp bỏ cái xác chết của bà rồi”. Nói xong, ông biến mất trong làn gió nhẹ.

Sau đó Đức Tara Trắng thỉnh cầu với Pháp Vương:

Thưa Đức Pháp Vương, xin nghe tôi nói
Karma đã thức tỉnh đến với Chánh Pháp
Do vì nhân duyên kết nối, bà ta đã thấy Ngài là Đức Guru Rinpoche.
Thể xác và thần thức của bà đã phân ly trước khi tuổi thọ chấm dứt
Vì những sự chấp thủ bà ta đã phải trải qua cõi chuyển tiếp này.
Bà ta đã thấy Pháp Vương vì ý nguyện trong quá khứ.
Bà đã chứng kiến sự sợ hãi về những Thần Chết, sự thật của luật nhân quả.
Bà đã sống bảy của loài người ở đây
Thể xác giống như căn nhà trống của bà đã chết ở thế gian
Nên bà được trả về như sứ giả của Ngài đối với những người dân của lục địa Jamphu (Nam Thiện Bộ Châu)
Hoặc tái sanh trong cõi người
Hoặc được xếp vào hàng trí giả
Thưa Pháp Vương, bà ta sẽ đi đâu, xin Ngài hãy ban lệnh”.

Đức Pháp Vương nhìn Karma và suy nghĩ một hồi rồi nhìn vào tấm gương, Ngài kiểm lại những hành vi quá khứ của bà và nói ” Trước đây, Lingza Chokyi đã chết và sống lại vì các Thần Chết bắt bà đến đây do lầm tên và lầm bộ tộc. Hai cô gái khác là Samten, người thị trấn Dartsedo và Yungtrung, người tỉnh Kham, cũng được trở về thế gian. Samten được trả về với lời dạy nghiêm khắc là cô phải tu tập theo Chánh Pháp và không tạo ác nghiệp. Yungtrung được cho sống lại vì cô ấy có thể tu tập chứng ngộ chơn tâm. Bây giờ ngươi sẽ được trở về Jambu để làm cho người dân ở đó biết đến Chánh Pháp và cũng để chuyển những lời nhắn của của các sinh linh trong Cõi Người Chết (World of Death) cho những thân nhân của họ trong Cõi Người Sống (World of Living). Vì công đức và ý nguyện của ngươi trong quá khứ, ngươi sẽ thành tựu những lợi ích lớn sau khi tái nhập vào thể xác”. Đức Pháp Vương ban cho Karma những lời dạy chi tiết và tiên tri với thông điệp sau đây cho người dân lục địa Jambu:

Nói với họ rằng, Ta là Pháp Vương đang ngự ở đây.
Nói với họ rằng ở đây chúng ta có những cách thức kỳ diệu
Để biết người nào đã tạo nghiệp xấu hay nghiệp tốt.
Nói với họ rằng những người tôn kính Chánh Pháp sẽ thác sinh về cõi cao hơn.
Nói với họ rằng những người tạo ác nghiệp sẽ đọa xuống địa ngục.
Các người ở lục địa Jambu,
Nói chung, phải tu tập theo giáo lý của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni,
Và đặc biệt làm theo những lời dạy này của Ta,
Bên ngoài, Ta là Pháp Vương
Bên trong, Ta là Quán Thế Âm ( Avalokiteshvara), Đức Phật Từ Bi
Hãy trì niệm OM MANI PADME HUNG, tâm chú của Bồ Tát Quán Thế Âm
Bên ngoài, Ta là Pháp Vương,
Bên trong, Ta là Guru Rinpoche.
Trì niệm OM AH HUNG VAJRA GURU PADMA SIDDHI HUNG.
Bên ngoài, Ta là Pháp Vương;
Bên trong, Ta là Phật Thích Ca Mâu Ni.
Hãy tu tập theo giáo lý của Đức Phật.
Hãy luôn làm mạnh tâm trí bằng những thiện nghiệp.
Bỏ ngay những nghiệp xấu dù là nhỏ nhất.
Quán tưởng vị Thầy của mình trên đỉnh đầu.
Phụng sự cho hết thảy chúng sanh
Bây giờ đã là giữa trưa (ở nhà của ngươi)
Với ý nguyện thanh tịnh, hãy nghĩ về nhà của ngươi.

Đến lúc này, nhiều người chết đã được quân đao phủ đưa đến Tòa Phán Xét cầu xin bà Karma: “Bà là người may mắn. Nếu bà trở về thế giới loài người, xin chuyển lời nhắn gửi của tôi đến với người thân của tôi. Bảo họ hãy vì tôi mà tạo lập công đức và phụng sự Tam Bảo, để giúp tôi giải trừ những đau khổ ở địa ngục, không có Thần chú nào linh nghiệm như là Lục Tự Đại Minh Chơn ngôn: OM MANI PADME HUNG. Vì vậy, xin hãy trì niệm hay thỉnh cầu người khác cùng trì niệm thần chú này mười ngàn biến. Xin khắc thần chú này trên đá và chồng lên nhau thành một đống. In thần chú này lên trên vải và treo chúng như cờ phướng. In thần chú này lên giấy và quay chúng như những bánh xe cầu nguyện.”

Thần chú Lục Tự được khắc trên bánh xe cầu nguyện và trên đá ở Tây Tạng

Bà Karma tái nhập thể xác

Tiếp đó, bà Karma nghĩ: “Bây giờ mình nên trở về thung lũng của mình.” Tức khắc bà thấy mình tại Traphu, quê hương của bà.

Tại cửa nhà của mình, bà trông thấy xác chết một con chó già. Mắt của nó lõm sâu xuống, và nước dãi đóng quanh mõm nó. Bà Karma vừa sợ vừa kinh tởm. Thoạt tiên bà muốn bỏ chạy, nhưng rồi bà nghĩ, “Mình có thể vào nhà bằng cách bước qua xác con chó. Khi bà bước qua nó, thần thức của bà tức khắc nhập vào thể xác của mình và bà trụ lại trong đó. Bà đã trông thấy thi hài của mình như xác chết của một con chó.

Lúc đầu bà bất tỉnh và có cảm giác như bóng tối lúc hoàng hôn. Sau một lúc bà từ từ tỉnh lại, nhưng không thể cử động được, vì thể xác của bà không còn sức mạnh. Dần dần trí nhớ của bà trở nên sắc bén hơn một chút. Khi cử động được một ít, người ngồi canh xác bên cạnh bà thấy được cử động đó và ông la lớn “PHAT!” ba lần một cách kích động. Tâm thức của bà vẫn còn bị ám ảnh bởi những hình ảnh và những cảm xúc về nổi đau khổ ở địa ngục, nhưng tiếng la ” PHAT” làm cho chúng biến mất. Miếng vải che mặt bà rung động một chút. Người đó tự hỏi, “Có khi nào ma nhập vào xác của Karma và khiến bà trở thành quỷ nhập tràng không?” Ông mở tấm mạng và nhấn vào đầu bà nhiều lần. Rồi ông bóp hai bàn tay bà nhiều lần, nhưng bà không đủ sức để nhấn lại hay nói rằng mình vẫn còn sống. Sau đó kiểm tra vùng ngực và thấy rằng hơi ấm vẫn còn ở đó. Ông gọi những người thân của gia đình Karma: “lại đây! bà chủ đã sống lại rồi!”

Mẹ của bà Karma chạy đến, khóc và nói, “Con gái của tôi, con đã trở về rồi phải không?” mọi người nhanh chóng mở tấm vải liệm trên người của bà Karma. Vào lúc đó, ông Trưởng Làng cũng đến, Ông ra lệnh đưa vợ mình sang chỗ khác và cho bà uống sửa và mật ong, nhưng bà Karma không thể ăn hay uống một chút gì trong một tuần. Người nhà nhỏ từng giọt nước vào miệng bà trong những ngày kế tiếp, dần dần bà phục hồi sức khỏe và sắc diện.

Sau đó bà Karma và gia đình thuê hai người thư ký để viết lại và chia làm làm hai phần tất cả những lời nhắn mà những người chết đã nhờ Karma chuyển đến những người thân của họ. Phần một, bao gồm những lời nhắn cho người thân ở tỉnh U (trung ương), Tsang (miền Tây), và Lotrag (miềnNam) là những tỉnh của Tây Tạng. Phần hai là những lời nhắn cho người thân ở Mông Cổ và ở tỉnh Mon. Bà Karma cũng định đi khắp xứ để phổ biến bức thông điệp của vị Pháp Vương cho quần chúng.

Nhưng không may, một phụ nữ quý tộc có quyền lực và là Mẹ của Choje’i Trung, nói “Karma là người thuộc gia đình hạ tiện. Bà ta trở về từ cõi chết là để bắt sinh mạng của người khác”. Một người tin vào lời của bà Choje’i Trung và cùng nhau nói, “Karma là quỷ!” Thay vì nghe những gì Karma kể, họ lại tấn công bà.

Lúc đó, ông Trưởng Làng quyết định, “ trong thời điểm này, tốt hơn nên giữ bí mật việc chết đi sống lại này” và mọi người đồng ý như vậy.

Sau đó một, bà Karma học giáo lý từ một đại sư cao đức là lạt ma Ponlob Jetrung Rinpoche. Khi thấy bà Karna tu tập có kết quả, Ngài ngạc nhiên nói: ” Ngay cả một người đã tu học lâu năm cũng không dễ đạt được những chứng nghiệm như vậy.” Nghe Ngài nói thế, người hầu Karma vô tình tiết lộ “Lẽ tất nhiên là bà ấy dễ chứng nghiệm chơn tánh tối thượng, vì bà ấy trở về từ Cõi Chết mà“.

Vị lạt ma đáp, “Tôi cũng đã ba lần trở về từ Cõi Chết. Chúng ta hãy so sánh xem những kinh nghiệm của chúng ta có giống hay không. Xin bà hãy kể cho chúng tôi biết những gì bà đã trải qua.”

Bà Karma liền kể lại những kinh nghiệm của mình. Những người đang học giáo lý từ lạt ma, cũng đến nghe bà kể chuyện. Vị lạt ma cũng như mọi người đều rớt nước mắt khi nghe câu chuyện của bà. Trọn một ngày thay vì nghe lạt ma giảng giáo lý như thường lệ, mọi người lại lắng nghe bà Karma kể lại chuyến viếng thăm Cõi Người Chết của mình.

Hoàn toàn tin lời kể của bà Karma, vị Thầy nói, “Tất cả những điều bà kể đều đáng tin cậy. Trong thung lũng này, người ta không biết giá trị của bà. Con phải đi khắp nơi để làm lợi ích cho mọi người. Tôi sẽ cung cấp cho bà phương tiện di chuyển, người hầu và vật dụng. Con nên đi khắp nước.”

Tuy nhiên, bà Karma vẫn dành phần lớn thời gian ở với Mẹ của mình. Khi đến trước vị Pháp Vương, bà sợ hãi những Thần Chết đến mức trong lúc bối rối, đã chỉ cầu mong cho mình sớm đắc Phật mà không nhớ đến việc cầu nguyện cho lợi ích của hết thảy mọi người, thêm nữa, bà quá quyến luyến người Mẹ của mình. Vì hai lý do này mà bà Karma không tạo được công đức lớn trong việc phụng sự chúng sanh.

Không sợ hãi kẻ thù: kinh nghiệm của Denma Sangye Seng-Ge

Chuyện delog của Denma Sangye seng-ge đáng chú ý về những ý kiến cho rằng chúng ta có thể làm nhẹ bớt những sự sợ hãi, ảo giác và nhớ đến việc an trụ trong trạng thái thiền định.

Denma kể rằng sau khi rời khỏi thể xác, ông du hành khắp vũ trụ chỉ trong một khoảnh khắc. Ông cảm thấy mình chứng kiến tất cả những sự kiện của quá khứ, hiện tại, và vị lai cùng một lúc. Dường như ông có một thân ánh sáng và có thể đi lại bằng ánh sáng của thân thể. Ông cảm thấy mình được bao bọc trong những tia sáng năm màu. Ông di chuyển thật dễ dàng với tốc độ của ánh sáng và có thể đến bất cứ nơi nào mình muốn.

Nắm chặt một luồng ánh sáng năm màu xuất hiện ở đằng trước mình, Denma hô lớn “HIK” bảy lần. Ông bay lên trên không. Ông thấy mình có mặt ở Cõi Cực Lạc của Đức Phật. Ở đó ông thấy một cảnh đẹp nhất với những tòa lâu đài kỳ diệu mà trong đó có vô số các bậc trí giả giác ngộ. Ông được một lạt ma đón tiếp và hướng dẫn.Vị tu sĩ này nói: “Con đã không tạo tác các ác nghiệp trong bảy kiếp.
Người may mắn, đừng xao lãng mà hãy nhìn vào bản chất của tánh giác tuyệt đối.

Trong một lúc, Denma nhìn thấy năm bộ phái Phật và những cõi tịnh độ của các Ngài. Kế đó năm vị Phật nguyên thủy xuất hiện thành vị Pháp Vương và các Thần Chết. Ông rơi vào những ảo giác nhiều lần. Có lúc ông thấy những người dân làng của mình và không biết là mình đã chết hay còn sống. Ông thấy có một tháp bằng pha lê, mà thật ra là thể xác của mình, ở trên đó bám đầy những con ếch. Mọi người vừa khóc vừa nhiễu quanh tháp pha lê. Do sự khóc than của họ, ông cảm thấy những trận mưa máu và mủ đang rơi xuống mình.

Denma trông thấy hai bộ những vòng hình quả cầu, mỗi bộ có năm vòng, mỗi vòng có màu ánh sáng khác nhau. Một bộ chứa năm vòng tròn lớn, và bộ kia chứa năm vòng nhỏ. Chúng là biểu trưng cho năm trí tuệ nguyên thủy, vốn là sự nhận ra chơn tánh từ năm loại phiền não tham, sân, si, ganh tị và kiêu mạn.

Sau đó, Denma cố gắng tìm hiểu mình đã chết thật hay chưa. Cuối cùng ông đi đến kết luận rằng mình đã chết vì trông thấy những dấu hiệu sau đây: Ông có thể đi qua một lỗ kim và qua những lỗ rất nhỏ trong một căn lều; Những bước chân của ông không để lại dấu vết trên cát ở bờ sông; Thân thể của ông không có bóng phản chiếu trong nước, cũng không có bóng đen trong ánh sáng mặt trời, mặt trăng; Ông muốn được ăn nhưng không ai quan tâm tiếp thức ăn cho ông; Ông đến gần những người thân và gọi tên họ nhưng không ai trả lời; Khi nhìn vào mặt người khác, dường như mặt họ bị một mạng mỏng và tối che lại; Ông thấy Mẹ của mình trào nước mắt và đây là điều bất thường đối với cá tính của bà, và bà nói “Bây giờ tôi chỉ muốn chết.”

Biết là mình đã chết rồi, buồn bã và sợ hãi, Denma cầu nguyện đến Đức Phật Từ Bi (Quán Thế Âm). Tức khắc vị Phật xuất hiện trước mắt ông, dạy giáo lý chi tiết và gia hộ cho ông.

Tuy nhiên tâm thức của Denma trở nên xao lãng với những ảo tưởng phàm tục, và ông đã gặp thêm những chướng ngại trên chuyến hành trình của mình. Ông cảm thấy mình bị một cơn bão nghiệp quả xô đẩy dồn dập. Ông nghe tiếng rống của những dã thú nổi giận. Nhưng cuối cùng ông nhớ ra rằng những ảo giác này chỉ là năng lực biểu lộ của tánh Không.

Kế đó, ông thấy ánh sáng trắng và đỏ cản đường mình, từ phía sau, một cơn mưa vũ khí ập đến. Khi ông nhớ ra rằng chúng là ảo ảnh, chúng liền trở thành năng lực tự có của tánh giác nội tại của mình.

Kế tiếp, ông thấy mình đi theo một con đường núi cao, dốc và hẹp với những tảng đá đỏ và dài vô tận. Ông thấy bên dưới là một dòng sông cuốn những tảng đá trôi đi. Ông đi dọc theo đường núi bằng cách bám lấy những bụi cỏ. Nhiều người đã rơi xuống sông và ông nghe tiếng kêu khóc của họ. Một lần nữa, ông nghĩ về tánh Không của mọi sự vật, những hình ảnh đáng sợ này lại biến đi.

Sau đó, ông cảm thấy mình ở một nơi tối tăm và có đầy những con cầm thú. Ông nghe một giọng nói, “Đừng xao lãng! Đây là cõi súc sinh.” Ông niệm “OM MANI PADME HUNG”. Bỗng nhiên các vị Phật và các vị lama hiện ra đầy trong không gian chào đón ông. Dường như khắp nơi vang tiếng tụng niệm.

Kế tiếp, ông thấy mình quyến luyến người thân và tài sản trong cõi sống. Ngay lúc đó, ông nghe giọng nói của Đức Phật Từ Bi, “Đây là cõi chết. Không có người thân hay tài sản nào có thể giúp được con nữa. Đó là sự biểu lộ của tánh Không. Hãy quán niệm tánh Không và không để cho tâm con bị xao lãng.” Khi ông nghe được điều này, tất cả mọi chấp thủ nơi ông liền tan biến.

Một lần nữa, ông lại thấy mình đi qua một con đường đá hẹp, đầy nước lũ, lửa và bão tố. Ông đi tới đỉnh của con đường, nhưng vì mưa bão nên ông không thể đi lên hay lui lại được. Ông đi vào một ngôi đền và trông thấy nhiều người ở đó, gồm nhiều người ông đã quen biết khi ông còn sống. Có một số người hạnh phúc và đang thụ hưởng cuộc sống họ, một số khác thì đói khát và đau khổ. Nhiều người đang ca hát và người khác thì than khóc. Vì một số người từ thế gian bị đưa đến đây do các vị sứ giả Thần Chết bởi sự nhầm lẫn nên phải đợi chờ cho đến khi tuổi thọ của họ chấm dứt trước khi họ có thể được tái sanh. Những người khác đến đây sớm vị họ chết trong những tai nạn bất ngờ. Cũng có những người cố bám vào đời sống hay bị kẹt ở đây thay vì đi đến nơi kế tiếp của họ, vì họ còn quyến luyến đời sống thế gian của mình. Người giàu có bám vào đời sống ở đây vì họ quyến luyến tài sản của họ. Những người yêu nhau còn bám ở đây vì quyến luyến vào những người yêu của họ. Các nhà cai trị còn bám ở đây vì họ còn chấp thủ vào quyền lực của mình. Người nghèo bám ở đây vì họ bám luyến vào túp lều và bát ăn xin của họ. Người sân hận bám ở đây vì họ muốn trả thù những kẻ địch của họ. Những người khác đợi chờ ở đây để người thân và bạn bè trong cõi người tạo công đức và hồi hướng cho họ trong những lễ cúng và do đó giúp cho hành trình của họ trong cõi chuyển tiếp này được dễ dàng. Tất cả những người này đã không tạo những nghiệp tốt lắm hoặc xấu lắm để có thể đưa họ nhanh chóng đến nơi cuối cùng của họ.

Sau đó Denma cảm thấy mình lên đến đỉnh Đèo Phủ Cát của cái chết, nơi được trang trí với những đống sọ người và sọ súc vật. Ông nghe những tiếng nói báo thù phát ra từ những chiếc sọ này. Từ đó ông thấy phía trước là Cánh Đồng Chết (Field of the Death) bao la và kinh khủng. Rồi ông cảm thấy mình đang rời khỏi Cõi Người Sống ở phía sau. Ông bỗng bị chấn động và đau đớn, sợ hãi và buồn khổ, cứ như thể tim và phổi ông rớt xuống đất. Một lần nữa, ông nghe thấy một tiếng nói từ rất xa vọng lại, “hãy quán niệm vào chơn tánh chớ nên xao lãng.”

Kế đó, Denma cảm thấy mình đang đi qua Cánh Đồng Chết Nhiều Màu (Colorful Field of the Death), một cánh đồng cát với những cơn bão cát. Cánh đồng có đầy những hình ảnh đáng sợ và những âm thanh đau đớn. Ở phía trước ông trông thấy con đường ánh sáng nhiều màu khác nhau. Từ phía sau, ông cảm thấy mình bị cơn bão nghiệp đẩy đi tới trước, ở bên phải ông thấy bóng tối, ở bên trái ông thấy ánh sáng hơi trắng. Một lần nữa ông lại nghe giọng nói của Đức Phật Từ Bi, “Đây là Cánh Đồng Chết nhiều Màu. Những sinh linh ở đây chịu đau khổ vì đã tạo nghiệp xấu trộm cướp.”

Rồi ông cảm thấy mình băng qua Dòng Sông Đỏ Đáng Sợ của Cái Chết, cuồn cuộn những đợt sóng tia chớp. Trên dòng sông có sáu chiếc cầu đáng sợ. Ở hai bên bờ sông các sinh linh đứng chen chúc nhau, họ ở dưới quyền chỉ huy của các Thần Chết đang cầm đủ loại vũ khí. Ông lại nghe thấy tiếng nói của Phật Từ Bi “Con đừng xao lãng, hãy quán niệm về chơn tâm”. Tức khắc ông bay qua bên kia sông như một chim đại bàng.

Ở bờ sông bên kia ông thấy Awa Đầu-Bò, một trong những vị phụ tá chính của Đức Pháp Vương của những Thần Chết. Vị Thần này đang ngồi trên một ngai bằng những sọ người và sọ thú vật ở giữa những quân đao phủ. Họ có thân người với đầu của những loại thú khác nhau, xung quanh là những đám đông sinh linh, nhiều người đang hoảng sợ và kêu khóc hoặc bị tra tấn, những người khác thì lại vui vẻ và di chuyển đây đó bằng phương tiện kỳ diệu.

Cuối cùng, Denma đi tới một cung điện được làm bằng vật liệu quý báu đặt giữa một vầng hào quang, trong đó các vị Thần xuất hiện. Ông nghe thấy tiếng nhạc của chư thiên biểu diễn. Vị Pháp Vương của những Thần Chết đang ngồi trên ngai được nâng bởi một con voi, một con ngựa, một con công, và một con chim hai đầu được gọi là shang-shang. Pháp Vương có bốn đầu và bốn tay, Ngài mặc y phục Báo Thân, hai tay ở trên của Ngài cầm một tấm gương và một cuốn số, hai tay ở dưới bắt ấn thiền định và cầm Bánh Xe Luân Hồi. Đứng xung quanh Ngài là các vị Thần Chết với thân người và đầu thú.

Sau đó Pháp Vương hỏi Denma về cuộc đời và việc làm của ông. Để trình bày sơ lược về mình, ông hát bài ca vô úy như sau

” OM MANI PADME HUNG!
Tôi là một hành giả đã nhận ra trạng thái bất nhị.
Không còn sợ kẻ địch, những kẻ thù chấp thủ nhị nguyên.
Tôi là một hành giả đã nhận ra chơn tánh tối thượng
Không còn sợ kẻ địch, những kẻ thù vũ khí phát sinh từ chơn không
Tôi là một hành giả đã nhận ra trí tuệ được thành tựu tự nhiên.
Không còn sợ hãi kẻ thù, những kẻ thù của các Thần Chết được tạo ra từ năm cảm xúc độc hại của tôi.
Tôi là một hành giả đã thoát khỏi mọi mong cầu và nghi ngờ.
Không còn sợ hãi kẻ thù, những kẻ thù của Thần Chết
Tôi là một hành giả đã nhận ra thật tánh.
Không còn sợ hãi kẻ thù, những kẻ thù của sắc tướng huyễn ảo của cõi trung ấm”.

Đến đây, vị Thần Awa Đầu-Bò liền chém Denma bằng thanh gươm của mình. Nhưng lưỡi gươm đi xuyên qua người của Denma mà không gây thương tích nào cả, giống như thể chém vào không khí vậy. Ngạc nhiên, tất cả các vị Thần Chết lên tiếng ngợi khen ông : “Ha! Ha!”

Đức Pháp Vương cũng khen Denma rằng: “Vị hành giả tuyệt hảo này nói đúng chân lý”. Sau đó Demma đi qua nhiều địa ngục khác để giúp giảm bớt những đau khổ cho những sinh linh ở đó rồi tái nhập về thể xác để chuyển những lời nhắn cho những người ở trần gian.

Vào thăm 18 Cõi Địa Ngục: Kinh nghiệm của Tagla Konchog Gyaltsen

Khi Tagla Konchog Gyaltsen rời khỏi thể xác mình, ông thấy bầu trời hướng Tây có đầy những đám mây màu đỏ nhạt. Vị Thần Bảo Hộ Trắng nói, “Đó không phải là mây, đó là cơn bão của Đèo Núi Sa Mạc Đỏ phân chia Thế giới của người Sống và Thế giới của người Chết. Con có thể vượt qua nó dễ dàng bằng năng lực tâm linh của chính con.” Tagla cầu lực gia hộ của chư Phật và các vị đạo sư để vượt qua đường đèo dễ dàng. Tức khắc, một thảm ánh sáng trắng từ hướng Nam trải dài đến chỗ ông. Trên đó, ông thấy Đức Phật Từ Bi và hình dạng phẫn nộ của Đức Guru Rinpoche cùng với nhiều vị Thần. Vị Thần Phẫn Nộ đập đèo núi ba lần bằng một lá cờ cầu nguyện khổng lồ và đường đèo sụp xuống.

Tagla lại trông thấy lửa che phủ bầu trời. Đất đầy máu tuôn trào và sắt nóng chảy. Vị Thần Bảo Hộ Trắng nói, “Đây là Dòng Sông Nâu Không Thể Vượt Qua của Người Chết. hãy cầu nguyện vị Thần Bảo Hộ của mình”. Tagla cầu khẩn các vị Thần Bảo Hộ và các vị Lạt Ma của mình. Bỗng ông nghe một tiếng sấm lớn ở hướng Nam. Ở đó ông thấy Đức Phật Từ Bi, sáng rực như núi tuyết được rọi sáng từ hàng ngàn tia sáng của mặt trời và ở giữa một vầng hào quang ánh sáng cầu vồng cùng một trận mưa hoa nhiều màu khác nhau. Tagla thấy mình ở trên một chiếc thuyền cùng với nhiều người trẻ đang cầm những lá cờ cầu nguyện và niệm chú OM MANI PADME HUNG. Tức khắc ông hoan hỷ vượt qua bên kia sông cùng với họ. Tagla cảm thấy Đức Phật Từ Bi, Guru Rinpoche, những lá cờ cầu nguyện, và những vị Lạt Ma đều hợp nhất bất khả phân. Nhờ chứng kiến những oai lực kỳ diệu như vậy mà thân và tâm của Tagla tràn ngập niềm tôn kính vô biên.

Một lần nữa, Tagla bị đẩy về phía trước bằng nghiệp lực của mình, và ông bị đưa đến một cánh đồng lớn chìm trong bóng tối. Bóng tối này được điểm xuyết bằng những tia chớp và những tia lửa đỏ. Đây là Cánh Đồng Xám Bao La của Người Chết. Như vị Thần Bảo Hộ Trắng đã dạy, Tagla cầu nguyện để có thể vượt qua cánh đồng một cách dễ dàng. Ông thấy một hành giả ẩn tu cao cấp đi tới cùng với một đoàn hành giả và tu sĩ, tay họ cầm những lá cờ cầu nguyện khổng lồ và miệng niệm “OM MANI PADME HUNG”. Đi theo họ, Tagla vượt qua cánh đồng trong một khoảnh khắc.

Sau đó Tagla cảm thấy mình đang ở bên ngoài bức tường khổng lồ, kỳ lạ của cõi địa ngục. Vị Thầy chính của Tagla là Đại Sư Pema Dechen cùng với nhiều vị Lạt Ma trong hình dạng tu sĩ và hành giả ẩn tu xuất hiện trước ông. Các vị này đang quay bánh xe cầu nguyện với bàn tay phải và cầm những là cờ cầu nguyện to lớn bên tay trái. Thần Bảo Hộ Trắng và Hắc Quỷ đều đã biến mất.

Đại Sư Pema Dechen nói với Tagla, “Con phải vào thăm địa ngục để có thể kể lại cho mọi người biết về địa ngục khi con trở về Cõi Người Sống. Người ta sẽ tìm hiểu và tin tưởng rằng địa ngục có thật, và sẽ có cảm hứng để tu tập theo Chánh Pháp. Nhưng con không thể tự mình đến địa ngục mà không dựa vào oai lực của Ta. Hãy cầu nguyện Đức Phật Từ Bi và đi theo Ta.”

Với sự hướng dẫn của vị Thầy, Tagla vào thăm mười tám địa ngục khác nhau, trong mỗi địa ngục, vô số sinh linh bị hành hạ đủ loại đau khổ. Những sự đau khổ này là hậu quả của những cảm xúc tiêu cực và những ác nghiệp mà họ đã tạo tác trong lúc còn sống.

Trong mười tám địa ngục này, tám địa ngục đầu tiên là những địa ngục nóng (hỏa ngục):

1. Trong địa ngục sống lại: trên nền sắt nóng cháy, các sinh linh không ngừng giết lẫn nhau với lòng sân hận, sau đó sống lại và chịu đau khổ như vậy bất tận.
2. Trong địa ngục đường vạch đen: trên nền nóng bỏng, những đao phủ vẽ những đường lằn trên thân thể của những tội đồ rồi cưa thân thể của họ theo đường vạch đó thành từng mảnh bằng những lưỡi cưa nóng cháy, và các tội đồ bị cưa như thế vô số lần.
3. Trong địa ngục giã nát: các sinh linh bị liệng vào những cối sắt nóng khổng lồ và bị giã bằng chày nóng cháy không ngừng.
4. Trong địa ngục gào thét: các tội đồ bị nướng trong những bức tường sắt nóng cháy và gào thét không ngừng nghỉ.
5. Trong địa ngục gào thét lớn: các sinh linh bị giam trong bức tường kép nóng bốc lửa, liên tục gào thét vì quá đau khổ.
6. Trong địa ngục nung nấu: các sinh linh bị nấu trong nước đồng sôi.
7. Trong địa ngục nung nấu nhiều: các sinh linh bị thiêu đốt trong những nhà bằng sắt và bị đâm bằng chĩa ba nóng bốc lửa và bị gói lại bằng những miếng sắt nóng.
8. Trong địa ngục đau khổ cùng cực: các tội đồ bị thiêu đốt trong một quả núi sắt nóng cháy, và miệng của họ bị rót nước đồng sôi. Người ta chỉ nghe thấy những tiếng kêu la đau đớn của họ mà không thể nhìn thấy họ ở giữa những ngọn lửa nóng.

Kế tiếp là tám địa ngục lạnh, nơi những tội đồ phải trần truồng để chịu cái lạnh khủng khiếp: (1) địa ngục lạnh phồng da, (2) địa ngục phồng nổ, (3) địa ngục răng đập vào nhau, (4) địa ngục than khóc, (5) địa ngục la khóc, (6) địa ngục thân thể nứt nẻ giống như hoa súng, (7) địa ngục thân thể nứt nẻ giống như hoa sen, (8) địa ngục thân thể nứt nẻ giống như hoa sen lớn. Cuối cùng là hai loại địa ngục phụ: (1) trong những địa ngục bên cạnh này, các tội đồ rơi vào những hố than nóng hay những vũng lầy dơ bẩn, đi qua những cánh đồng lưỡi dao hay rừng lưỡi gươm, và bị đâm bằng những vũ khí sắc nhọn của Đồi Cây Sắt, và bị những con kên kên, hay những người nam nữ ăn thịt. (2) Trong địa ngục ảo ảnh, các sinh linh tái sanh vào những nơi và những vật khác nhau, như đá, cột nhà, bức tường, và cả những món đồ đạc và bị kẹt ở đó trong một thời gian dài.

Trong mỗi cõi địa ngục, Đại Sư Pema Dechen nhìn thấy nguyên nhân của sự chịu khổ của mỗi chúng sanh và giải thích cho Tagla biết. Ngài cũng nói về thời gian mỗi chúng sanh phải chịu khổ và cách giảm bớt nỗi khổ của mình. Trước khi nghiệp quả xấu của họ chấm dứt họ phải sống trong địa ngục, những tội đồ chịu khổ ở đây sẽ không chết vì sự hành hạ, vì sự chịu đau đớn là số phận mà họ phải chịu.

Do oai lực của Đức Phật Từ Bi và Đại Sư Pema Dechen, nhiều sinh linh có thể nhớ lại kiếp trước của mình ở trên thế gian. Tagla khuyến khích nhiều người gởi lời nhắn về hoàn cảnh đau khổ của mình cho những người thân ở thế gian và cầu xin thân nhân tạo lập công đức để giải trừ nghiệp quả xấu cho cả kẻ còn người mất.

Trong lời kể của ông, Tagla đã nói ra tên của nhiều người ở miền Đông Tây Tạng, đang chịu khổ trong những địa ngục khác nhau. Ông mô tả sự đau khổ của họ và những lời nhắn gởi người thân của họ. Có những trường hợp Tagla không trông thấy người gởi lời nhắn mà chỉ nghe tiếng của họ nói với mình.

Ví dụ, một nhóm tội đồ nói, “Làm ơn chuyển những lời nhắn sau đây cho những người thân của chúng tôi. Xin hãy thân cận với người thật sự có đạo tâm tu hành. Xin bố thí thực phẩm và vật dụng cho những người và thú vật đói khổ và nghèo túng. Xin khắc chạm câu Thần chú OM MANI PADME HUNG trên những tảng đá và in trên những tấm vải, rồi trương lên làm những lá cờ cầu nguyện. Xin hãy mua chuộc sinh mạng của những con vật ở lò sát sinh để phóng sanh chúng. Xin làm lễ cúng và thiêu các món ăn và nước cho các sinh linh đang chịu khổ trong cõi âm. Xin hãy cúng dường nhang đèn cho các vị Phật và làm bánh xe cầu nguyện. Xin hãy trì niệm OM MANI PADME HUNG bất cứ khi nào nói đến tên hay nhớ đến chúng tôi.

Rồi một vị Thầy khác của Tagla là Ngài Tendzin Dargye xuất hiện và nói, “Bây giờ con nên đi đến Toà Phán Xét của vị Pháp Vương của các Thần Chết.” Ngay lúc đó Thần Bảo Hộ Trắng và Quỷ Đen xuất hiện trở lại hai bên ông và mỗi vị cầm một tay ông. Họ đưa ông qua một cổng sắt lớn được những con thú đáng sợ canh phòng. Ở bên trong, Tagla thấy Vị Pháp Vương ở trong một khối cầu lửa khổng lồ. Ngài có bốn mặt đen với hai tay, tay phải cầm một tấm bảng, tay trái cầm một thòng lọng đen, đứng trên một con trâu có vẻ dữ tợn, Ngài trông thật khủng khiếp. Tháp tùng với Ngài có mấy trăm ngàn Thần Chết, kể cả Awa Đầu-Bò, vị Thần giữ tấm bảng. Thần Ác Đầu Rắn giữ cái cân; và Thần Đầu-Khỉ giữ sổ sách. Tất cả các vị đều la to: “HUNG! HUNG! PHAT! PHAT!”

Thần Bảo Hộ Trắng và Quỷ Đen đưa Tagla đến trình diện vị Pháp Vương và hướng dẫn ông kể lại những việc làm của mình ở thể gian cho Pháp Vương nghe. Tagla kể ra những công đức mà mình đã tạo lập. Pháp Vương nói, “Loài người các ngươi chỉ giỏi nói dối. Làm sao biết được ngươi đang nói sự thật ?”

Rồi vị Pháp Vương ra lệnh cho Awa Đầu-Bò kiểm lại những hành vi của Tagla qua tấm gương, trong đó những hành động của mỗi sinh linh đều xuất hiện một cách rõ ràng. Thần Ác Đầu-Rắn cân nghiệp tốt và nghiệp xấu của Tagla trên một cái cân. Thần Trẻ Mặt Khỉ kiểm tra lại những hành động của ông bằng cách đọc bản liệt kê trong cuốn sổ. Tất cả họ đều hỗ trợ lời khai của Tagla.

Vào lúc đó, bỗng Quỷ Đen đứng dậy và la lớn, “Ha! Ha! Ta phản đối kết quả tìm được của mấy ông”, rồi vị này dốc ngược cái túi đeo trên vai của mình đựng những viên sỏi tượng trưng cho ác nghiệp của Tagla. Nhưng chỉ có tám viên sỏi đen rơi ra ngoài. Đến lượt Thần Bảo Hộ Trắng hô lớn Ha! Ha! và xuất trình một núi sỏi trắng làm bằng chứng cho những thiện nghiệp của Tagla.

Lúc đó, Tagla thấy Pháp Vương xuất hiện trong hình dạng Đức Phật Từ Bi. Tám vị Thần Chết chính yếu của Tòa Phán Xét cũng xuất hiện như tám vị Bồ tát.

Từ bên phải của Pháp Vương, một thảm ánh sáng trắng trải dài về hướng Tây. Pháp Vương nói, “Theo con đường ánh sáng này, con có thể đi đến cõi Cực Lạc. Nhưng con phải trở về thế gian như một sứ giả của Ta để làm lợi ích cho mọi người.” Vị Pháp Vương bảo Tagla kể cho người thế gian biết những gì ông đã thấy trong cõi trung ấm và chuyển những lời nhắn của các sinh linh ở địa ngục cho mọi người thân của họ ở cõi thế gian. Tagla không muốn trở về vì ông đã già rồi, nhưng cuối cùng ông cũng tuân lệnh Pháp Vương.

Bỗng nhiên ông thấy một tháp màu trắng phủ tuyết và ông nhập vào trong đó. Cái tháp này thật ra chính là thể xác của ông. Tức khắc sự cảm nhận thế gian trở nên sống động đối với ông. Dần dần sức khỏe của ông phục hồi và ông trở lại với đời sống bình thường.

Tagla đã mang lợi ích đến cho nhiều người bằng việc dạy đạo và hướng dẫn cầu nguyện cũng như hành thiền trong nhiều năm. Rồi trong một lễ cưới của một người thân, khi nghe tin một ngàn năm trăm con thú bị làm thịt để thếch đãi, Tagla quá đau buồn và đột ngột qua đời. Lần này ông không trở về thế gian nữa.

Xao lãng với những ảo ảnh: Kinh nghiệm của Dagpo Trashi Namgyal

Câu chuyện delog của Dagpo Trashi Namgyal minh họa một cách sống động về sự kiện trong cõi trung ấm, sự chú tâm có thể biển đổi đột ngột và nhanh chóng.

Dagpo tự làm phép chuyển di thần thức phowa cho mình và thần thức của ông đã thoát qua đỉnh đầu. Rồi ông trông thấy một ánh sáng giống như một tấm mền đang trải rộng ra. Ông đã thác sanh đến một cõi tịnh độ. Trong cõi tịnh độ này ông thấy chư Phật, các Thiên nữ dakini, và các vị lạt ma. Ông được hưởng những món ăn và đồ uống thanh tịnh, âm nhạc du dương và những vũ điệu hỷ lạc.

Trong cõi tịnh độ này, ông gặp một lạt ma, vốn là một vị Thần bảo hộ của mình. Vị lạt ma hỏi những câu hỏi và ông trả lời. Nhưng tâm của Dagpo bất ngờ xao lãng và ông trông thấy một đường đèo núi cao không thể tưởng tượng với những lá cờ cầu nguyện ở trên đỉnh. Ông trông thấy một cánh đồng khổng lồ, và ở phía dưới cánh đồng là một dòng sông nâu đen to lớn đang chảy xiết. Trên con sông có sáu cây cầu, và bờ bên kia là một thành phố lớn.

Rồi ông cảm thấy mình đang nói chuyện với vị lạt ma. Nhưng tâm ông trở nên xao lãng, và ông bắt đầu thấy những ảo ảnh về sự đau khổ trong địa ngục.
Ông trở lại với cảm giác mình đang nói chuyện với vị lạt ma bảo hộ của mình, nhưng một lần nữa tâm ông lại/ bị xao lãng. Ông thấy những Thần Chết đưa nhiều sinh linh vào địa ngục.

Có những lúc đang thảo luận về giáo lý, ý thức của ông bỗng đột ngột biến đổi thành ảo ảnh. Kinh nghiệm này của ông cho thấy chúng ta phải thiết lập thói quen giữ tâm trí mình ổn định trong lúc còn sống ở thế gian này.

Sau cùng, Dagpo ở trong tòa Phán Xét của vị Pháp Vương. Chỉ vào các vị Thần Chết chính yếu, vị lạt ma bảo hộ ông nói, “Con không thể giấu giếm những ác nghiệp mà chính mình đã phạm. Những Luật lệ của Pháp Vương rất nghiêm khắc. Trong các vị Thần Chết thì Thần Awa Đầu Bò, có tài năng tính toán; Vị Đầu Sư Tử có tài ghi nhận nghiệp tốt và nghiệp xấu; Vị Thần Trẻ Mặt Khỉ có tài xem tấm gương; Vị Đầu Cọp có tài cân nghiệp tốt nghiệp xấu trên bàn cân; Vị Đầu Beo có tài xem sổ sách ghi công và tội; Vị Đầu Gấu có tài quyết định nghiệp nào thiện và nghiệp nào xấu; Vị Đầu Gấu Nâu có tài sử dụng vũ khí. Nói chung các vị Thần Chết tài năng này giỏi phân biệt giữa thiện nghiệp và ác nghiệp”.

Vị lama bảo hộ tiếp tục, “Con phải thiền quán về chơn tánh trí tuệ không xao lãng. Tất cả chúng sanh đều bị trôi lăn trong vòng luân hồi là vì quên mất chơn tánh của mình. Những chúng sanh vô minh trong vòng luân hồi thì không thể chấm dứt đau khổ. Chư Phật có tâm thanh tịnh nên thấy mọi sự như là một cõi cực lạc. Chúng sanh có tâm bất tịnh nên nhìn thấy mọi vật là nền sắt nóng cháy của địa ngục. Các hiện tượng phàm tục là thói quen nhận thức huyễn ảo của chính chúng ta. Những ai có nhận thức này làm họ thấy mọi sự như cõi tịnh độ sẽ không phải đối mặt với các Thần Chết, mà ngược lại sẽ thấy chư Phật, vì trong chơn tánh của các vị Thần Chết là các vị Phật.”

Rồi Pháp Vương ra lệnh cho Thần Chết Đầu Gấu, “Hãy cho vị hành giả này thấy chi tiết của những gì diễn ra ở địa ngục. Người này nên được đưa về Cõi Người Sống.”

Thần Chết Đầu Gấu bảo Dagpo, “Đừng để tâm tán loạn, hãy an trụ trong trạng thái chơn không, vốn là chơn tánh trí tuệ của tâm, xin hãy theo Ta.” Thần Chết đưa Dagpo đi qua các địa ngục đau khổ không thể tưởng tượng được và những cõi thấp khác. Rồi vị này đưa Dagpo trở lại Tòa Phán Xét.

Đức Pháp Vương nói với Dagpo, “Ngươi phải hiểu rằng tất cả những giáo lý trong Kinh, Luật, Luận là dạy về cách luyện tâm. Nhận ra chơn tánh của tâm là trí tuệ vô sanh. Trụ thăng bằng trong chơn không vô lượng An trụ vững vàng trong trạng thái chơn như.”

Vị Pháp Vương ra lệnh cho ba Thần Chết đưa Dagpo trở về Cõi Người Sống. Vị lama bảo hộ giải thích, “Ta là một hóa thân của Phật Quán Âm (Avalokiteshvara Buddha).” Vị Awa Đầu Bò nói, “Ta là một hiện thân của Phật Kim Cương Tát Đoả (Vajrasattva).” Vị Thần Trẻ Đầu Khỉ nói, “Ta là một hiện thân của Phật Bảo Sanh (Ratnasambhava).” Vị La Sát Đầu Heo nói, “Ta là một hiện thân của Phật Vô Lượng Quang.” Rồi các vị cùng nói: “Bây giờ ngươi trở về tái nhập thể xác của ngươi, vốn là cảnh giới ( mandala) của chư Phật.”

Sau sáu ngày đi qua các địa ngục, Dagpo cảm thấy như vừa mới thức dậy sau một giấc ngủ. Vị lama bảo hộ của ông và các vị Thần Chết đã biến mất. Ông thấy mình đang ở trước động tu của mình, nơi đó có một Tăng, một Sư cô và một cư sĩ đang canh chừng xác chết của ông. Ông cố nhìn quanh nhưng không thể thấy bất cứ một vật gì. Phải mất một thời gian sau thể xác của ông mới phục hồi sức khỏe trở lại.

Vượt qua cánh đồng người chết: kinh nghiệm của Gyalwa Yungtrung

Yungtrung là một tín đồ đạo Bon, tôn giáo bản địa của Tây Tạng. Chuyện kể delog này cho chúng ta thấy những lời cầu nguyện thành tâm của bất cứ tín ngưỡng nào cũng sẽ có ích vào lúc chết. Yungtrung từng biết về Phật Giáo, vì vậy ông chứng kiến các vị Thần và các vị Thầy của Phật Giáo cũng như đạo Bon cứu độ các sinh linh trong cõi trung ấm. Điều đáng chú ý ở đây là giống như những Phật tử tu theo Mật tông, Yungtrung cũng xem Tòa Phán Xét của vị Pháp Vương, là một phần của sự nhận thức con đường đạo và mục tiêu sâu xa của tôn giáo. Đối với ông, tòa phán xét không chỉ là một nơi xét xử để quyết định nơi tái sanh của các sinh linh. Nếu người ta hiểu như vậy thì đây là là một tỉnh thức tâm linh của tánh giác nội tại, chơn tánh của tâm trí.

Sau khi ra khỏi thể xác, Yungtrung bỗng cảm thấy mình bay như một con chim, ông bay qua nhiều núi non và thung lũng. Ông trông thấy một con đường đèo trên núi cao được thiết trí bằng những đống xương người và thú vật. Những đống xương này gây tiếng động ồn ào. Bỗng một vị Thiên Nữ vốn là vị Thần Bảo Hộ của ông xuất hiện trong một trang phục áo vải với ba lông chim công trên đầu. Bà nói, “Ha! Ha! Ta không biết chắc con sẽ gặp Mẹ của con.” Nhưng bà cũng ban cho ông một lời hướng dẫn, và Yungtrung làm theo, vượt qua đường đèo và thấy một ngả ba đường. Một ngả đường màu đỏ đi về hướng Tây, một ngả đường màu xanh dẫn về hướng Đông, và ngả đường nhiều màu ở giữa đi đến Tòa Phán Xét của vị Pháp Vương, là nơi sẽ đạt giải thoát hoặc đi lạc vào luân hồi. Yungtrung chọn con đường giữa, có nhiều màu sắc giống như một con rắn, ông đi nhanh trên con đường này.

Con đường trở nên hẹp đến mức dường như núi và đá ở hai bên con đường này chạm vào nhau. Một lần nữa, Yungtrung lại thấy hai con đường nhỏ như một sợi tóc. Con đường màu trắng ở bên tay phải và con đường màu đen ở bên trái. Nhiều người cố gắng chạy theo hai con đường này và nhiều người đang té.

Yungtrung chọn con đường màu trắng, nhưng không bao lâu con đường hoàn toàn bị bít lấp. Sau đó một tu sĩ đạo Bon trong y phục như người thường với mái tóc dài đi tới từ phía bên kia, dẫn khoảng một trăm người đến giải thoát. Vị này nói với Yungtrung, “Con đường màu trắng là con đường dành cho những người làm lợi ích cho chúng sanh. Con đường màu đen là dành cho mọi người nói chung, và nó dẫn đến nơi ở của vị Pháp Vương.”

Rồi Yungtrung thấy mình đang ở trước cửa một cái hang. Cửa hang có một lỗ nhỏ, chỉ vừa với nắm tay ông lọt qua. Tất cả những con đường đều dẫn đến cái hang này, và không có lối ra nào khác. Ông nghĩ, “Bây giờ mình không có thân vật chất nữa. Thần thức của mình có thể đi xuyên qua bất cứ cái gì.” Ông lớn tiếng lập lại câu này ba lần cho đám đông biết. Đột nhiên ông thấy mình ở phía bên kia cửa hang đá.

Ông đang đứng trên một cánh đồng lớn màu xám, từ đó ông không trông thấy núi hay thung lũng nào nữa. Ông nghĩ, “Cánh đồng này lớn vô cùng, nhưng vượt qua nó không phải là việc bất khả, vì mình là rỗng không.” Tức khắc ông thấy mình ở rìa bên kia của cánh đồng.

Ở đó có ba dòng sông chảy cuồn cuộn dữ dội hợp lại thành một. Dòng sông màu đỏ chảy đến từ hướng Đông. Dòng sông màu đen chảy tới từ hướng Nam. Dòng sông màu nâu chảy đến từ hướng Bắc. Chỉ có một chiếc cầu dài và hẹp bắt ngang trên con sông lớn này. Ở gần chiếc cầu, nhiều người nam và nữ đang kêu khóc vì họ phải vượt qua sông nhưng không thể được. Với tâm từ bi, ông nói với họ rằng, “Tất cả mọi người hãy cầu nguyện với tôi. Tôi sẽ cầu nguyện cho các vị” Tất cả họ đều lắng nghe ông với sự kính trọng. Phát tín tâm mạnh mẽ, Yungtrung cầu nguyện các vị Thầy tổ của đạo Bon và của Đạo Phật:

HRI! Con cầu nguyện Đạo Sư Tranpa Namkha
Con cầu nguyện Đạo Sư Tshewang Rigdzin.
Con cầu nguyện Đạo Sư Padmasambhava.
Con cầu nguyện Montul Tenpa Wangyal.
Con cầu nguyện vị Thầy chính của con
Xin dẫn thần thức của những người chết đến giải thoát.
Xin gia hộ cho chúng con và làm cho nỗi sợ hãi cõi trung ấm biến mất
Xin gia hộ cho chúng con thành tựu pháp chuyển di thần thức phowa.
Xin gia hộ cho chúng con đắc quả an lạc của con đường giải thoát.

Rồi ông nhập vào trạng thái thiền định, và kết quả là tất cả những người hiện diện ở đó đều được tái sanh vào những cõi phúc lạc.

Đến đây vị Thần Bảo Hộ của Yungtrung lại xuất hiện một lần nữa. Ông trông thấy một tòa lâu đài lớn trong suốt, cao như thể đụng đến bầu trời. Ông hỏi vị Nữ thần, “Tòa lâu đài này có tên là gì? Ai sống ở trong đó?” Nữ thần nói, “Đây là sự đại hợp nhất của sắc tướng và chơn không, lâu đài của các Thần Chết. Vị Pháp Vương của Thần Chết ở trong đó. Lúc này, vi Pháp Vương đang có thái độ hiền hòa, tốt nhất chúng ta nên đến gặp Ngài ngay

Yungtrung nghe thấy những tiếng động kinh khủng vang khắp đất trời. Mới đầu ông hoảng sợ, nhưng rồi ông tự nhủ, “Tất cả âm thanh đều là âm thanh tự nhiên của trí tuệ. Tất cả ánh sáng là ánh sáng của trí tuệ. Tất cả những tia sáng đều là tia sáng tự nhiên của trí tuệ. Không có gì phải sợ hãi cả.” Với sự tự tin mới, ông tiếp tục đi.

Trong tòa lâu đài khổng lồ này có một ngai lớn làm bằng vật liệu quý. Cái ngai được tám con thú hùng mạnh khác nhau nâng lên. Ngồi trên ngai là một người khổng lồ trông đáng sợ có mặt màu hơi đỏ, to lớn như Núi Tu Di (Sumeru). Nét mặt của Ngài mang dáng dấp nửa hiền hòa nửa phẫn nộ, với ba mắt và bốn răng nanh, mái tóc hơi đỏ bồng bềnh xung quanh đầu Ngài như ngọn lửa đang cháy. Ngài mặt áo lông thú, đội mão và đeo chuỗi hạt bằng xương. Tay phải của Ngài cầm một quyền trượng với dấu ấn của chữ Vạn (Svastika) và tay trái cầm một tấm gương giống như trăng tròn, trong đó Ngài có thể trông thấy tất cả những sự vật hiện tượng của thế gian. Ngài gầm lên một tiếng lớn “HUNG” làm rung chuyển cả ba cõi dục giới, sắc giới và vô sắc giới. Yungtrung tin chắc vị thần khổng lồ này là Pháp Vương của những Thần Chết.

Yungtrung đảnh lễ ba lần và nói, ” Kính thưa Pháp Vương, con là Latri Lama Gyalwa Yungtrung, người xứ Kham. Mẹ con tên là Adron, hiện giờ đang ở đâu?”

Thay vì trả lời thẳng câu hỏi này, vị Pháp Vương nói, “Ha! Ha! Ngươi đến đây để giúp giải thoát cho những sinh linh của ba cõi đã bị đày xuống đây vì ác nghiệp của họ. Vậy, với sức mạnh của mình, ngươi phải giải thoát tất cả những ai từng có nhân duyên với ngươi. Nhưng nếu ngươi không thể làm được như vậy, Ta sẽ thật hổ thẹn cho ngươi.”

Ngay lúc đó, Yungtrung trông thấy một trưởng lão đạo Bon đến Tòa Phán Xét. Ông đi với một người có sắc diện trắng mặc áo trắng, và một người sắc diện đen mặc áo đen. Người mặt trắng biện hộ cho ông già, đưa ra một túi đựng những viên sỏi trắng tượng trưng cho những thiện nghiệp của ông già. Người mặc áo đen trình ra một túi đựng những viên sỏi đen và biện luận chống lại ông già đó. Theo lệnh của Pháp Vương, Thần Chết Đầu Khỉ và Thần Chết Đầu Sư Tử cân nghiệp tốt và nghiệp xấu của ông già. Nghiệp tốt của ông già nặng hơn nghiệp xấu một chút. Thần Chết Đầu Khỉ kiểm tra lại trong tấm gương và chỉ thấy ánh sáng. Pháp Vương nói với người tu sĩ già, “Ngươi đã tạo được nhiều thiện nghiệp to lớn. Nhưng điều quan trọng hơn là ngươi đã duy trì tâm thanh tịnh và tôn kính vị Thầy của ngươi. Vì vậy, ngươi có thể đi đến Shambala, vương quốc của bậc thánh nhân ở rặng Tuyết Sơn“.

Nhiều người bắt đầu trải qua sự phán xét của Pháp Vương. Các vị đạo sư cũng đến đó và giúp giải thoát cho nhiều người trong số họ.

Yungtrung đi thăm nhiều nơi và cầu nguyện cho các sinh linh ở đó. Nhiều sự đau khổ của địa ngục biến mất ngay khi ông hô lớn “PHAT” trong khi nhập định.

Sau khi thăm viếng các địa ngục, ông trở lại tòa lâu đài. Pháp Vương ra lệnh cho Thần Chết Mặt Khỉ đưa ông đi khỏi nơi đó. Ông đã không tìm thấy Mẹ của mình.

Trên đường trở về, ông gặp hai vị lạt ma bị kẹt ở dưới một chiếc cầu. Khi còn sống trong loài người, một vị đã làm phép trừ tà với mục đích xấu, và vị kia đã lạm dụng ngân quỹ của cộng đồng. Nhưng vì hai vị lạt ma này có niềm tin nơi Chánh Pháp, nên Yungtrung cầu nguyện chư Phật và chư Tổ với lòng thành kính và làm phép chuyển di phowa. Kết quả hai vị lạt ma đã được giải thoát khỏi nơi đó.

Sau đó Yungtrung qua cầu trở lại, đi qua Cánh Đồng Chết, đi dọc theo con đường hẹp, và đường đèo của người chết. Ông về đến nhà khi mặt trời đang lên đỉnh núi.

Sau đó Yungtrung có một kinh nghiệm cận tử lần thứ hai, trong đó ông đi qua con đường dẫn vào cõi trung ấm, bằng năng lực thiền quán về sự hợp nhất của trí tuệ và tánh Không, giống như ông đã từng làm trong kinh nghiệm delog lần thứ nhất. Lần này ông đến nhiều nơi khác nhau trong cõi người và cõi A tu la.

Bỗng có một Thiên nữ dakini xinh đẹp xuất hiện phía trước ông. Yungtrung thỉnh cầu vị này đưa ông đến chỗ của Mẹ mình. Vị dakini không trả lời mà biến thành một chim đại bàng bay lên bầu trời. Nhận ra mình không có thân xác thô kệch. Yungtrung cũng biến thành chim đại bàng chỉ bằng ý muốn và bay theo sau vị dakini. Sau đó, ở phía bắc của Núi Tu Di, hai người đáp xuống một cánh đồng đầy hoa. Ở đó trong một cái lều làm bằng những bông hoa, Yungtrung trông thấy một vị thánh.

Vị dakini bảo, “Hãy lại đây.” Ở đó có một bông hoa thấp hơn bông khác, và vừa mới nở. Ở bên trong là ba đứa bé sơ sanh. Chỉ vào một em bé, vị dakini nói, “Bé trai này là Mẹ của ngươi. Ngươi có nhận ra không?” Bé trai đó nhận ra Yungtrung và nói, “Apho, tại sao con đến đây?”. Mẹ của ông trong kiếp tái sanh mới là một bé trai, không nhớ gì về gia đình trước đây của mình, nhưng bà đã nhận biết con trai Yungtrung này. Sau đó, theo lời khuyên của dakini, họ đi đến chỗ vị thánh. Vị dakini yêu cầu vị thánh giảng giáo lý cho Mẹ Yungtrung trong thân tái sanh mới. Vị thánh ưng thuận lời thỉnh cầu.

Sau đó vị dakini dẫn Yungtrung đến cõi Thiên giới. Sau khi ban những lời tiên tri, bà bay về Oddiyana. Còn Yungtrung thấy mình tái nhập về thể xác ở trong nhà của mình.

Được tịnh hóa bằng dòng cam lộ: kinh nghiệm của Samten Chotso

Samten Chotso trước khi đi thăm địa ngục với sự giúp đỡ của Yeshe Tsogyal, vị phối ngẫu của Guru Rinpoche. Thông thường, thì trước hết các vị delog đến Tòa Phán Xét của Pháp Vương, nhưng Samten và một số người khác lại đi thăm địa ngục trước. Sau cùng Samten mới đến Tòa Phán Xét của Pháp Vương. Thần Bảo Hộ Trắng biện hộ để bảo vệ bà và Quỷ Đen cải lại để chống lại bà. Các Thần Chết đã kiểm lại những nghiệp tốt và xấu ở trong tấm gương. Họ thấy bà đã giết nhiều chim, sâu bọ và đã thề thốt nhiều. Tức khắc bà bị đánh bằng roi trên một cánh đồng nóng cháy và bị nước đồng sôi đổ lên người. Bà nhớ đến Guru Rinpoche và cầu nguyện Ngài. Và kết quả là Thần Bảo Hộ Trắng đến đưa bà về Toà Pháp Vương. Bà nghĩ là bà đã trải qua một năm, nhưng Pháp Vương nói với bà rằng đó chỉ bằng thời gian uống một chén trà.

Pháp Vương ra lệnh cho Thần Chết cân công và tội, và các vị này thấy thiện nghiệp của Samten nặng hơn bất thiện nghiệp. Cuối cùng Pháp Vương ra lệnh hai Thần Chết đưa bà trở về cõi người. Pháp Vương khuyên Samten hãy tu tập theo Chánh Pháp và giúp đỡ mọi người. Ngài nói thêm, “Từ nay trở đi, con không cần phải đến đây nữa. Con có thể thác sanh về Thế Giới Cực Lạc.”

Trên đường trở về, Samten trông thấy Mẹ Yeshe Tsogyal, và bà đã hỏi về hành trình của Samten. Trên đường về, bà đã cho Samten thấy cõi tịnh độ của năm vị Phật nguyên thủy được làm bằng ánh sáng năm màu ở bốn hướng và ở bên trên.

Samten khẩn cầu Yeshe Tsogyal đưa mình về Cõi Cực Lạc. Cưỡi trên một con sư tử, Yeshe Tsogyal dẫn Samten cưỡi trên một con lừa trắng. Họ lên đến đỉnh một ngọn núi ở hướng Tây, từ đó họ có thể trông thấy Cõi Cực Lạc. Với lòng vui mừng, Samten đảnh lễ ba lạy. Con lừa và con sư tử biến mất. Bỗng mặt đất nơi họ đang đứng trở nên đất mềm và êm dịu, mỗi bước chân bà đi là một bông hoa nở ra. Bà được tắm trong một cơn mưa cam lộ và được uống nước cam lộ này, mọi sự bất tịnh và ác nghiệp của bà đều được thanh lọc tịnh hóa, thân thể của bà trở nên trắng như vỏ ốc tù và, mỗi bước chân của bà là băng qua một thung lũng. Cuối cùng bà đến một cõi tịnh kỳ lạ với những cây, trái, hoa, những bảo vật và những món đồ trang hoàng lộng lẫy đẹp đẽ. Chư Bồ Tát trong hình dạng chim muông đang hót khắp nơi. Bất cứ cái gì Samten muốn có đều tự hiện ra tức khắc.

Với ba bước chân, Samten vượt qua ba bức tường, bà đến trước Đức Phật Vô Lượng Quang, lúc đó Ngài đang ngồi dưới một gốc một cây thật lớn và xanh tốt. Ở bên phải Đức Phật Vô Lượng Quang là Bồ Tát Quán Thế Âm và ở bên trái Ngài là Bồ Tát Kim Cương Thủ. Mỗi vị đều ở giữa một trăm triệu Bồ tát và tu sĩ. Các vị Phật và Bồ Tát ở khắp mọi nơi và ở giữa vô số đệ tử của các Ngài. Cũng có các vị Thần đủ loại, kể cả Guru Rinpoche trong hình dạng phẫn nộ. Bà cũng trông thấy vô số các vị Thầy thuộc nhiều dòng truyền khác nhau. Samten Chotso đã không kể lại về việc bà tái nhập lại thể xác như thế nào.

Đừng mất can đảm: kinh nghiệm của Changchub Seng-ge

Changchub muốn đi về nhà, bỗng nhiên ông thấy mình ở trong nhà của Cha Mẹ mình. Ông đi qua nhà hàng xóm xin thức ăn và hỏi thăm những điều mình muốn biết, nhưng không ai trả lời hoặc thậm chí nhìn vào ông. Ông nghĩ có lẽ mọi người đang giận mình.

Một cô gái đang xách nước. Ông đến xin nước, nhưng cô ta không nói gì cả. Khi ông cố gắng lấy nước trong bình của cô thì cái bình tuột khỏi tay cô rớt xuống và bể thành nhiều mảnh. Ông nắm đuôi một con ngựa thì con ngựa ngã gục xuống đất. Một phụ nữ đang quay sợi không trả lời ông, khi ông chạm vào mớ lông cừu thì nó bị thổi bay đi như một cơn bão, làm cho bà ta phải đuổi chạy theo nó. Tất cả những điều này làm cho Changchub lo nghĩ, vì ông nhớ lại trong dân gian có nói, “Hồn vía dù vô hình nhưng vẫn có thể làm cho đồ vật chuyển động.”

Rồi ông suy nghĩ: “Bây giờ mình nên đến tu viện.” Trên đường có một con chó theo sủa ông. Một người đàn bà mắng con chó, “Con chó mắc dịch, bộ mày sủa ma hả!” . Người ta tin rằng chó và mèo có thể trông thấy những hồn ma. Tưởng người đàn bà gọi mình là ma. Changchub bắt bẻ, “ chỉ cho thấy không có vị thần nào của bà mà không là ma quỷ!” Nhưng bà ta không nghe thấy ông. Khi ông đến tu viện. Ông thấy một xác chết nằm ở phòng của mình. Cái xác đang được hai con chó săn to lớn và hung dữ canh chừng. Changchub rất sợ. Một ý nghĩ xuất hiện với ông, “Có lẽ mình đã chết rồi!”

Ngay lúc đó, ông thấy mình ở bên kia của một quả núi lớn. Ông ở trong vùng tối tăm và đang bị những cơn bão nghiệp đẩy từ phía sau. Các vị Thần Chết đang la hét như hàng ngàn tiếng sấm, nền sắt nóng bỏng đốt dưới chân ông. Vô số sinh linh tạo nghiệp xấu đang đứng chen chúc ở xung quanh.

Quá sợ hãi, Changchub cầu nguyện Đức Quán Thế Âm, tức khắc ông thấy một đứa bé tám tuổi với sắc diện trắng, mặc áo lụa với những món trang sức bằng ngọc đang ngồi trên một cái ngai có trang trí hoa sen, mặt trời và mặt trăng. Cậu bé gia hộ cho Changchub và nói rằng hai người đã có nhân duyên từ nhiều kiếp. Đây là vị Thần Bảo Hộ của Changchub nên ông cầu nguyện với cậu bé.

Changchub đi thăm nhiều địa ngục, sau đó ông đến nơi ở của Pháp Vương. Trong một cung điện lớn, vị Pháp Vương ngồi trên một cái ngai trang trí với những tấm nệm hoa sen, mặt trời, mặt trăng, vàng ngọc, được nâng bởi tám con thú và chim. Phần thân trên của Ngài trang phục bằng lụa trắng và những món trang sức ngọc báu, phần thân dưới của Ngài mặc đồ da cọp với dây thắt lưng là một con rắn màu đen. Những tia sáng tỏa ra từ thân của Ngài đến nổi làm lóa mắt khiến người khác không thể nhìn vào Ngài được. Mắt Pháp Vương đỏ như máu, Ngài cầm một ngọn lửa và nước, ở phía bên phải Ngài là một gương, và ở bên trái là một tấm bảng. Vây quanh Ngài là một ngàn vị Thần Chết, các vị đều có hình dạng giống như Pháp Vương. Ở phía trước Ngài có vô số sinh linh đang tụ tập và vô số Thần Chết đang quyết định số phận của họ.

Pháp Vương cho Changchub đi thăm nhiều cõi ngạ quỷ, súc sanh, cõi người, và A tu la. Sau đó, Pháp Vương bảo Changchub chuyển bức thông điệp của Ngài cho chúng sanh của Cõi Người Sống, “Hãy nương tựa Tam Bảo, phát Bồ đề tâm, cúng dường, học giáo lý và tiếp nhận sự truyền thừa của Thầy tổ, đặc biệt là trì tụng Thần chú OM MANI PADME HUNG, đây là tinh túy của Giáo Pháp.

Changchub hỏi Pháp Vương, “ Có phải tất cả mọi người đều phải gặp Ngài sau khi họ chết ?” Pháp Vương trả lời, “Không ai trong cõi người khi chết mà không gặp Ta, ngoại trừ hai hạng người. Những người đã tin theo Chánh Pháp từ lúc mới sinh ra, họ sẽ thác sanh thẳng đến Cõi Cực Lạc ngay khi thần thức họ lìa khỏi thể xác. Họ sẽ không cần phải gặp ta. Thứ hai là những hạng người đã tạo những ác nghiệp từ lúc sinh ra, sẽ đi thẳng vào địa ngục, họ không có cơ hội để gặp ta.”

Changchub lại hỏi, “Có nghiệp tốt nào sẽ không mang lại quả tốt hay có nghiệp xấu nào không mang lại quả xấu hay không“. Pháp Vương đáp, “Có, dù dùng tài sản của mình để làm những việc tốt, nếu tài sản đó phát xuất từ sự lừa bịp Thầy của mình hay của Cha Mẹ, từ các tu sĩ bằng vũ lực, hay từ những người khác dưới dạng thu thuế, thì những việc làm tốt không được xem là công đức. Nếu với ý định bảo vệ kẻ yếu và cứu người khác mà chống lại những thú dữ, rắn độc, trộm cắp, kẻ giết người, và những kẻ làm hại người khác, tất cả những việc này đều không bị xem là bất thiện“. Rồi Pháp Vương nói, “Ngươi không cần phải đến gặp lại ta. Ngươi sẽ tạo lập nhiều công đức để phụng sự cho chúng sanh, và ngươi sẽ đắc Phật quả.”

Thế rồi Changchub trở về cõi người. Ông về căn lều nơi ông đã nhập thất tu tập trước khi có kinh nghiệm delog. Nơi đây ông thấy xác chết một con chó. Một con ruồi đậu trên mõm con chó và đang niệm “OM MANI PADME HUNG”. Rồi một con chim bồ câu đậu trên mái nhà và hỏi ông, “Tội nghiệp, Ngài đã trải qua một thời gian dài khó khăn phải không?” và một con chim én hỏi, “Con trai, con đã về đến hả?”

Changchub thấy một cái áo của mình ở gần xác con chó. Khi ông nghĩ đến việc lấy cái áo đi, bỗng nhiên thần thức của ông nhập vào xác con chó, kỳ thực đó chính là thân xác của ông. Ông muốn ngồi dậy nhưng không thể được. Thân xác của ông lạnh như một cục đá trong nước. Ông cảm thấy đau ở vùng ngực. Rồi ông thấy linh ảnh của Đức Quán Thế Âm an ủi mình, “Con đừng mất can đảm. Con đã được thân người quý báu. Con đã trở về am thất tu tập của mình rồi” Sau đó Changchub dần dần tỉnh lại.

Địa Ngục là Cõi Tịnh Độ Vô Thượng: Kinh nghiệm của Tsophu Dorlo

Lời kể delog này có một ý nghĩa sâu xa, lời văn rất hay theo nguyên gốc tiếng Tây Tạng.

Tsophu Dorlo cảm thấy mình trần truồng, nhưng ông vẫn có đủ mọi giác quan giống như còn sống. Ông bắt đầu cuộc hành trình của mình dọc theo con đường dài màu xám và hẹp trong cõi trung ấm. Ông đi nhanh với lực đẩy của gió nghiệp, và không thể tự ý dừng lại được. Bầu không khí âm u, không có ánh sáng mặt trời hay mặt trăng, đầy dẫy những bão tố, lũ lụt, và bão tuyết, và những tiếng la hét như sấm, “Giết! Giết! Đánh! Đánh!”

Nhiều sinh linh từ cõi người đến đây đã bị sự sợ hãi, rối loạn và đói khát hành hạ. Trong số họ có một tu sĩ tên là Chotrag Zangpo mà Dorlo từng biết. Ông hỏi, “Thầy làm gì ở đây?” vị lạt ma đáp, “ Tôi đến đây để giải cứu một số người có nhân duyên với tôi.” Rồi Ngài đã giải thoát nhiều sinh linh với oai lực của Đức Phật Từ Bi Quán Thế Âm.

Dorlo cầu nguyện đến Đức Phật Từ Bi cho những bạn đồng hành đang đau khổ của mình. Lập tức, Đức Quán Thế Âm hiện ra trước ông với nét mặt hoan hỷ và nói, “Con phải quay lộn ngược bánh xe luân hồi. Con phải dẫn dắt các sinh linh của cõi trung ấm về đến cõi tịnh độ.” Dorlo liền niệm “OM MANI PADME HUNG” rồi thuyết pháp cho các sinh linh và tụng kinh. Tức khắc ông thấy cõi trung ấm đã trống rỗng. Nhưng rồi trong một khoảnh khắc cõi trung ấm đã đầy trở lại với những sinh linh mới đến.

Sau đó Dorlo đi đến Cánh Đồng Xám của Người Chết, vốn là một cánh đồng cát nóng. Đây là cánh đồng của sáu điều bất định: các sinh linh ở đây không biết chắc mình đi đâu hay ở lại, trú ngụ ở đâu, làm gì, ăn gì, đi cùng với ai và họ không biết chắc cảm giác của mình, bởi vì mọi thứ luôn biến đổi.

Vì Dorlo không có kinh mạch ở thể xác vật chất, nên những tinh lực của Ngài lộ ra bên ngoài và Ngài không thể điều khiển được thần thức của mình. Vì vậy tâm của Ngài tán loạn như một con ngựa hoang. Vì không có mặt trời hay mặt trăng bên trong của tinh chất đỏ và trắng của cơ thể nên Ngài không cảm thấy có ánh sáng mặt trời hay mặt trăng bên ngoài, và mọi thứ đều chìm trong bóng tối. Ánh sáng của năm gió từ thể xác Ngài phát ra giống như ánh bình minh. Những tia sáng không thể chịu nổi vẫn chớp lóe như thể những hành tinh và ngôi tinh tú đang rơi xuống đất. Trong bầu trời của bóng tối và ánh sáng như vậy, thói quen tinh thần của Ngài phóng ra những hình dạng ma quỷ đáng sợ và nguy hiểm.

Trong số những sinh linh ở đây, Dorlo trông thấy một vị lạt ma đang chịu đau khổ. Dorlo cầu nguyện và quay bánh xe cầu nguyện của Ngài, nhưng vì vị tu sĩ này không tin tưởng Ngài nên Ngài không thể giúp gì được. cho ông ta.

Rồi Dorlo đi đến Đèo Núi Cát ở giữa Cõi Người Chết và Cõi Người Sống, Ngài trông thấy hai con đường. Con đường màu đen dành cho những người đã tạo ác nghiệp lớn, những người ở trên đường này chỉ trượt xuống như những hòn đá rơi thẳng xuống nền sắt nóng cháy của địa ngục. Con đường màu trắng dành cho những người đã tích lũy công đức, họ đi trên con đường này đến Tòa của Pháp Vương để được phán xét. Từ đó họ có thể đến cõi tịnh độ qua con đường ánh sáng năm màu này.

Dorlo thấy người quen cũ của mình là Zhagsar Trashi đang chịu khổ rất nhiều. Trashi xin Dorlo cầu nguyện cho mình, vì thế Dorlo tụng chú và quay bánh xe cầu nguyện. Trashi đã tạo nhiều ác nghiệp nhưng vì có niềm tin nơi Dorlo và có nhân duyên với nhau, nên ông ta được giải cứu khỏi nơi đó.
Rồi Dorlo đến Dòng Sông Nâu Lớn Không Thể Vượt Qua của Người Chết. Đây là một dòng sông lớn với nước đồng sôi chảy, nóng cháy với đủ loại sinh linh hạ liệt, và đây là hình ảnh phản chiếu của thói quen tạo nghiệp của mỗi người.

Trên con sông có Cầu Sắt Của Người Chết. Với những người tạo thiện nghiệp thì thấy chiếc cầu này rộng, dễ đi qua và không thấy có bất cứ thứ gì đe dọa ở dưới dòng sông. Nhưng với số lớn người đã tạo ác nghiệp lại thấy chiếc cầu quá hẹp có vẻ như nó chỉ được làm bằng vài cọng rơm. Họ bị những vị Thần Chết xua đuổi qua bên kia cầu, nhiều người rơi xuống sông và bị đốt cháy hoặc bị những thú dữ ở đó cắn. Dorlo tụng niệm và quay bánh xe cầu nguyện, nhờ thế mà ông đã giải thoát được nhiều sinh linh.

Sau đó Dorlo vào đến địa ngục. Đây là nơi có đất bằng nền sắt nóng cháy, với những tiếng kêu la vang dội giữa ngọn lửa bốc cao. Đây là một cảnh tượng không thể chịu nổi. Dorlo cũng quay bánh xe cầu nguyện và tụng niệm, rồi ông giảng giáo lý:

“Hãy biết rằng những sự cảm nhận của mình là huyễn ảo.
Địa ngục chính là Cõi Tịnh Độ Vô Thượng.
Pháp Vương chính là pháp thân
Những Thần chết là các vị thần hiền hòa cũng như phẫn nộ
Nguyện cầu các vị đạt được chơn tánh”.

Ông niệm ba lần “OM MANI PADME HUNG”, địa ngục bỗng tràn ngập ánh sáng cầu vồng. Tất cả các sinh linh cảm thấy an lạc và hoan hỷ.

Sau đó một trăm ngàn quân đao phủ đi theo các vị Thần Chết và Thần Bảo Hộ Trắng đến chào đón Dorlo với âm nhạc và lễ vật. Dorlo đi vào Tòa Phán Xét của Pháp Vương cùng với một trăm ngàn sinh linh. Pháp Vương nói “Các ngươi đến đây thật là kỳ diệu! Nếu nhận ra thì sẽ thấy Ta là Pháp thân, nếu không nhận ra được thì Ta là Pháp Vương của các Thần Chết, người phán xét ai đã tạo nghiệp tốt và ai đã tạo nghiệp xấu. Người nào có tính sân hận thì bị đày xuống địa ngục, người nào tham muốn nhiều thì sẽ đến cõi ngạ quỷ, người nào si mê nhiều sẽ xuống loài thú, người ganh tị nhiều sẽ đến cõi a tu la, người nào kiêu ngạo nhiều sẽ đến Thiên giới. Người nào tạo thiện nghiệp mà pha lẫn với năm cảm xúc phiền não này thì sẽ tái sanh trở lại cõi người. Người nào tạo nhiều công đức sẽ không phải chịu đau khổ trong cõi trung ấm hay trong địa ngục. Họ sẽ đi thẳng đến một cõi tịnh độ như Cõi Cực Lạc ngay sau khi qua đời, giống như một con đại bàng bay qua bầu trời.”

Rồi vị Pháp Vương ban lệnh cho các Thần Chết, “Ta thấy trên tấm bảng giờ chết đã đến với mấy trăm ngàn người. Vậy hãy xét xem họ đã tạo thiện nghiệp hay ác nghiệp. Kiểm tra lại những hành vi của họ trong tấm gương phản chiếu tất cả. Tham khảo cuốn sổ ghi chép những chi tiết. Cân những nghiệp tốt và xấu trên cái cân công bằng. Hãy nghe tiếng trống chiến thắng và đừng phạm phải bất cứ sai lầm nào cả“.

Quân đao phủ thỉnh cầu vị Pháp Vương xét xử vì những chi tiết về nghiệp báo của những sinh linh này khó quyết định. Lúc đó, Pháp Vương liền ra lệnh cho vị Thần Bảo Hộ Trắng và Quỷ Đen trình bày cẩn thận trường hợp của mỗi sinh linh.

Thần Bảo Hộ Trắng biện hộ cho những người đi theo Dorlo. Vị này gom lại một núi sỏi tượng trưng cho nghiệp tốt mà mỗi người đã tạo. Quỷ Đen tranh luận chống lại những người đó và trình ra một núi sỏi đen tượng trưng cho những ác nghiệp của họ. Dựa theo những bằng chứng này, Pháp Vương cho những người tạo thiện nghiệp thác sinh về tịnh độ hoặc trở lại cõi người, và những người tạo bất thiện nghiệp bị đày xuống những cõi thấp.

Sau đó Pháp Vương bảo Thần Awa Đầu-Bò đưa Dorlo đi thăm những địa ngục nóng và lạnh. Dorlo đi qua tất cả tám địa ngục nóng. Ở nhiều chỗ, Ngài cầu nguyện Đức Phật Từ Bi, niệm OM MANI PADME HUNG, và nhập định trao đổi niềm an lạc của mình để nhận lấy sự khổ đau của người khác, và như vậy Ngài đã giải thoát cho nhiều người. Dorlo đã gặp nhiều sinh linh mà Ngài đã quen biết cũng như chưa quen biết, nhờ Ngài chuyển lời nhắn của họ cho gia đình để xin những người thân này làm lễ cúng và hồi hướng công đức cho họ.

Nhiều vị Phật và nhiều vị Thầy cũng đến thăm địa ngục để giải thoát các tội đồ bằng cách thuyết pháp và gia hộ.

Sau đó Dorlo trở lại chỗ vị Pháp Vương và được lệnh trở về cõi người. Pháp Vương nói, “Xin kể lại những nổi khổ của địa ngục cho mọi người biết. Xin hãy tạo nhiều thiện nghiệp và từ bỏ ác nghiệp. Hãy thuyết pháp, ngươi sẽ làm nhiều lợi ích lớn cho mọi người. Trong kiếp kế tiếp, ngươi sẽ thác sinh về Tịnh độ và sẽ làm lợi ích cho nhiều người nữa”.

Bây giờ Dorlo cảm thấy mình đang trở về cõi người trên một con đường ánh sáng với âm nhạc và hương thơm tỏa khắp nơi vốn là quà tiễn biệt của Thần Bảo Hộ Trắng.

Trong một lúc Dorlo bị bất tỉnh. Rồi ông nhìn thấy Đức Liên Hoa Sanh làm phép gia trì lực trường thọ cho mình và trao truyền những tiên tri khuyến giáo. Sau cùng Dorlo tỉnh dậy và thấy mình đang ở trong thể xác của mình giữa những người ở xung quanh.

Sắc tướng bất khả phân với trí tuệ: kinh nghiệm của Dawa Drolma

Dawa Drolma đã đến một số cõi tịnh độ và địa ngục. Ở đây tôi chú trọng nhiều hơn về những kinh nghiệm của bà trong cõi tịnh độ của Đức Liên Hoa Sanh, vì địa ngục đã được mô tả nhiều trong truyện của các delog khác rồi.

Cõi Tịnh Độ biểu lộ của Đức Liên Hoa Sanh

Dawa Drolma thấy mình di chuyển qua bầu trời giống như một con kên kên. Bà thấy mình đang ở cõi tịnh độ biểu lộ của Đức Liên Hoa Sanh (Guru Rinpoche), vị Phật trong sắc tướng một vị Thầy thành tựu. Có một cánh đồng rộng bát ngát. Bà thấy ở giữa cánh đồng là một quả núi lớn bằng đá đỏ có hình dạng trái tim. Quả núi đó được bao quanh bởi những rặng núi sắc nhọn như lưỡi kiếm, tất cả đều tỏa ra màu đỏ nhạt. Bầu trời được trang trí bằng một mái vòm ánh sáng năm màu. Đủ loại chim đẹp đẽ đang hót và bay lượn vui đùa. Khắp nơi mặt đất bao phủ đủ loại bông hoa nhiều màu sắc. Bầu không khí tràn đầy hương thơm kỳ diệu làm cho mọi giác quan của bà ngây ngất. Cũng có một quả núi màu xanh lam ngọc. Những cảnh đẹp này không phải là những sắc tướng mơ hồ, mà là những hình ảnh sinh động với sự hiện diện thực sự.

Nữ Thần Tara Trắng là vị Thần Bảo Hộ của Dawa Drolma. Dawa Drolma cầu nguyện đến Đức Liên Hoa Sanh bằng cách tụng Bài Nguyện Bảy Dòng Kim Cương và nhập định Đạo Sư Quán (Vajra Seven Line Prayer and Meditated on Guru Yoga).

Bà cúi đầu đảnh lễ và cúng dường mandala cho cõi tịnh này. Bà thấy ở giữa quả núi là cung điện bất khả tư nghì của Đức Liên Hoa Sanh được gọi là Liên Hoa Quang (Lotus of Light). Cung điện này là trí tuệ giác ngộ của Đức Liên Hoa Sanh, xuất hiện tự nhiên trong hình dạng một lâu đài tỏa hào quang. Lâu đài thật lớn và được làm bằng năm loại bảo vật với đủ loại kiến trúc và vật trang trí. Mỗi chi tiết cấu trúc đều nói lên trí tuệ và phẩm tính đặc biệt của Phật quả. Cõi tịnh độ này là nơi lưu trú của nhiều vị Thầy giác ngộ, các vị Thần nam nữ daka và dakini.

Ở hướng Đông của cung điện, bốn dakini giúp Dawa Drolma mặc một bộ áo có nhiều màu sắc và tỏa ánh sáng giống như cầu vồng. Sau khi đi vào cổng cung điện pha lê tuyệt đẹp, bà đi lên một cầu thang dài, rồi ở trong một đại sảnh, bà cùng với các vị lạt ma và dakini làm một lễ cúng dường lớn, bà tụng bài kinh tịnh hóa cùng với các vị này. Kế đó một dakini mặt xanh đưa bà đến một tòa lâu đài rộng lớn, vốn là cung điện chính trong số nhiều cung điện ở đây, nơi bà tham dự một lễ tịnh hóa bằng việc cùng tắm với nhiều người khác.

Dawa Drolma được hướng dẫn đi thăm nhiều chỗ trong cung điện kỳ diệu này và cũng đi thăm những cung điện khác trong khu vực. Ở những nơi khác nhau này bà được tiếp đón và gia hộ bởi các vị Thầy trong hình dạng Chư thiên tỏa hào quang và năng lực tâm linh lớn. Một số các vị này từng là Thầy của bà đã viên tịch. còn các vị khác là những vị Thầy trong quá khứ, như Đức Yeshe Tsogyal, công chúa Mandarava, Legyi Wangmp-che, Khyentse Wangpo, và nhiều Thiên nữ dakini. Bà đảnh lễ tôn kính đến các Ngài và cầu nguyện một cách thành tâm.

Dưới Chân Đức Liên Hoa Sanh

Cùng với Nữ Thần Tara Trắng, Dawa Drolma vào thăm cung điện khác đẹp lộng lẫy, được tôn tạo bằng pha lê đỏ. Đây là một cung điện khổng lồ không thể đo lường được với những đồ vật trang trí phong phú và chứa đầy của cải bất tận và những món đồ cúng kỳ diệu.
Đức Liên Hoa Sanh

Cuối cùng, ở giữa một đại sảnh, Dawa Drolma thấy một cái ngai lớn mà bà cho là cao hơn một tòa nhà ba tầng, tỏa hào quang ra khắp nơi. Trên cái ngai bà thấy sự hiện diện kỳ diệu của Đức Liên Hoa Sanh, (Padmasambhava), hiện thân của trí tuệ, từ bi và oai lực của tất cả các đấng giác ngộ. Xung quanh cái ngai là vô số các dakini và các vị Thầy trong những hình dạng khác nhau, với sắc diện, trang phục, tư thế và cử chỉ khác nhau, và được vây quanh bởi những điệu nhạc khác nhau. Khi nhìn thấy Đức Liên Hoa Sanh, tất cả mọi ý nghĩ của bà tự nhiên chấm dứt. Bà đạt được sự hợp nhất vững chắc với một trạng thái không thể xóa nhòa, không thể nghĩ tưởng, và không thể mô tả được. Bà an trụ trong trạng thái này được một lúc, vừa hỷ lạc vừa cô đơn.

Sau đó Dawa Drolma đến gần ngai hơn và đặt trán của mình lên chân Đức Liên Hoa Sanh. Đại Sư gia hộ cho bà bằng cách đặt tay lên đầu bà và tụng Bài Nguyện Bảy Câu Kim Cương.

Trong cuộc viếng thăm cõi tịnh độ này, nhiều vị Thầy gia hộ và giảng giáo lý cho Dawa Drolma. Bà cũng gặp Ngài Dechen Dorje, một vị lạt ma cao cấp cũng là bác ruột của bà đã viên tịch. Ngài đã thác sanh về cõi tịnh độ của Đức Liên Hoa Sanh. Ngài truyền dạy giáo lý, gia hộ, ban lời tiên tri cho bà và khuyến giáo bà trở về cõi người.

Sau đó bà Dawa Drolma được đưa đến một căn phòng đẹp đẽ có một cái giường, mấy cái gối và một người hầu. Bà nằm ngủ một lát, và sau khi thức dậy, bà lại đi gặp Đức Liên Hoa Sanh và tụng Bài Nguyện Bảy Câu Kim Cương, Đức Liên Hoa Sanh gia hộ và gia trì lực cho bà. Với lòng đại từ bi, Ngài nói, “nay đã biết về những đau khổ của sáu cõi luân hồi, con phải trở về cõi người. Kể cho mọi người biết về những gì con đã trông thấy và khuyến khích họ đi theo con đường đạo đức.”

Dawa Drolma rời khỏi cung điện của Đức Liên Hoa Sanh với tấm lòng thành kính tri ân với hai dòng lệ rơi. Trên đường đi ra, ở ngoài cung điện và cổng khác nhau, bà bái biệt các vị Thầy và các vị dakini và nhận sự gia hộ của các Ngài.

Những lời minh triết dành cho loài người

Nữ Thần Tara Trắng đưa Dawa Drolma đến những địa ngục. Dawa Drolma đã trải qua những kinh nghiệm trong cõi trung ấm. Bà trông thấy Pháp Vương trong sắc tướng phẫn nộ và khủng khiếp tại Tòa Phán Xét. Trong cuộc viếng thăm địa ngục, bà giúp đỡ nhiều tội đồ bằng cách giảng giáo lý, cầu nguyện, và trì Thần chú của Liên Hoa Sanh: OM AH HUNG BENZA GURU PADMA SIDDHI HUNG. Bà cũng trông thấy những nghiệp quả và những đau khổ của địa ngục bằng chính mắt của mình, vì vậy bà có thể giảng dạy giáo lý hiệu quả hơn khi trở về cõi người. Bà cũng đem về nhiều lời nhắn của người chết cho thân nhân đang sống ở thế gian

Sau đó, Nữ Thần Tara Trắng đưa Dawa Drolma đến thăm cung điện Potala, cõi tịnh độ của Bồ Tát Quán Thế Âm và Ngài Yulo Kopa, cõi tịnh độ của Ngài Tara, trước khi trở về thế gian.

Trong lúc Dawa Drolma thăm cõi tịnh độ của Tara, bà bỗng cảm thấy Dharmapala Tseringma đang gọi mình ba lần, “Dawa Drolma! Hãy trở về cõi người!”. Bà nghĩ, “Bác Rinpoche, Cha Mẹ, và tất cả những người thân của mình đang ở thung lũng Throm. Mình phải trở về!”. Rồi cùng với Đức Tara Trắng, bà trở về trong khoảnh khắc.

Ở nhà, Thầy của Dawa Dorlma là Ngài Tromge Trung mở cửa phòng, nơi an trí thi hài của bà và làm lễ cầu an trường thọ cho bà. Không bao lâu, thần thức của Dawa Drolma đã tái nhập thể xác. Bà mô tả sự kiện này như sau:

Bà cảm thấy thân thể tê liệt và không có sự trong sáng trong những giác quan của mình. Bà thể nhập vào niềm tôn kính những đấng giác ngộ, hoan hỷ nhớ lại các cõi tịnh độ, và cảm thấy buồn về những nổi khổ của địa ngục. Từ tâm trạng pha trộn như vậy, bà lấy lại ý thức trọn vẹn của mình, giống như dần dần thức dậy sau một giấc ngủ say. Bác Trungpa của bà đang đứng ở trước mặt, đang cầm một mũi tên của lễ cầu an trường thọ và nhìn bà với vẻ quan tâm trong đôi mắt đỏ ngầu. Bà cảm thấy hơi bối rối, không dám nói một lời nào. Các vị lạt ma làm lễ tịnh hóa. Các bạn của bà khóc và hỏi, “Bà có mệt lắm không?” “Bà có đói bụng không?” “Bà có khát nước không?” Bà không thấy đói hay khát gì cả, nhưng họ không tin như vậy. Sau cùng, tất cả mọi người đều được mời ăn cỗ cúng.

Dawa Drolma có những lời hướng dẫn về việc tránh bị đày đọa vào địa ngục, và bảo đảm tái sanh về tịnh độ. Sau đây là tóm lược những lời khuyên của bà cho mọi người ở thế gian:

– Thanh lọc những ác nghiệp của mình đã tạo bằng thiền quán. Không tiếp tục tạo bất thiện nghiệp nữa.
– Tạo công đức, chép hoặc ấn tống kinh điển, tụng kinh, thờ Phật và lễ Phật
– Lễ các vị Thần khác nhau và thọ trì Thần chú của các vị
– Làm cỗ cúng để cúng dường
– Cứu giúp người khác khỏi tai họa, và phóng sanh (chuộc mạng sống những con thú sẽ bị làm thịt)
– Treo cờ cầu nguyện lên, khắc Thần chú trên đá, quay bánh xe cầu nguyện, và làm phép tuyệt thực. Phát tâm tôn kính Phật và Giáo Pháp của Ngài.
– Phát tâm từ bi đối với hết thảy chúng sanh.
– Đặc biệt là thực hành và hoàn thiện ba nhận thức thanh tịnh: thấy mọi vật đều là cõi tịnh độ, nghe mọi âm thanh đều là âm thanh thiêng liêng, và kinh nghiệm mọi cảm giác (những kinh nghiệm thể xác, tâm thức và cảm xúc) như trí tuệ Phật, an lạc và toàn giác.
– Sau cùng, hãy hồi hướng công đức của mình cho những người đặc biệt nào đó hay cho tất cả chúng sanh.

Dawa Drolma sống phần đời còn lại của mình với công việc giảng dạy giáo lý dựa trên kinh nghiệm delog và cống hiến trọn vẹn đời sống của mình cho việc phụng sự tha nhân. Bà thường khuyên những ai hay than thở đời sống này quá nhọc nhằn rằng: “Dù đời sống ở thế gian khó khăn đến đâu cũng không thể nào so sánh với những khổ đau ở địa ngục.”

Trong chuyến hành hương đến miền Trung Tây Tạng, bà Dawa Drolma thọ thai và sinh hạ người con trai đầu lòng của mình, đó là Đại Sư Chagdud Rinpoche, người sau này sống lưu vong ở Ấn Độ và sau đó sang định cư ở phương Tây. Ngài truyền bá và xây dựng một số trung tâm Phật Giáo tại Hoa Kỳ và Brazil. Sau đó bà Dawa Drolma có một con gái là Thrinle Wang. Năm 1941, ở tuổi ba mươi hai, bà đã qua đời không lâu sau khi sinh một người con trai khác, và người con này cũng chết. Người ta đã chứng kiến nhiều điều kỳ diệu vào lúc bà qua đời và lúc hỏa thiêu. Dawa Drolma và truyện delog của bà đã gây cảm hứng cho nhiều người ở khắp miền Đông Tây Tạng tin vào luật nhân quả, nghiệp báo và luân hồi tái sanh. Do đó mọi người có lối sống đạo đức hơn và có lòng từ bi hơn đối với hết thảy chúng sanh.

Đại Sư Chagdud Rinpoche, con trai của bà Dawa Drolma

Để cho mọi người được giải thoát: Kinh nghiệm của Shugseb Jetsun Lochen
Shugseb Jetsun Lochen mô tả rất hay về chuyến viếng thăm của bà đến cõi tịnh độ của Đức Liên Hoa Sanh và bà được dạy rằng địa ngục chỉ là sự cảm nhận giả tập của tâm thức

Du hành với Thiên nữ Dakini một mắt

Thần thức của Jetsun đã rời khỏi thể xác. Bỗng vị Thiên nữ dakini rất hấp dẫn, có nước da màu lục ngọc, lông mày đẹp, mái tóc buông lơi, xuất hiện trong linh thị của bà. Vị Thiên nữ dakini này chỉ có một mắt ở giữa trán. Vị Thiên nữ hỏi Jetsun, “Con có muốn đến Núi Màu Đồng Vinh Quang, cõi tịnh độ Đức Liên Hoa Sanh hay không?” Jetsun đáp, “con rất muốn” .

Nắm lấy tay Thiên nữ dakini, Jetsun bay lướt trên không qua nhiều vùng đất khác nhau. Họ vượt qua một cánh đồng lớn và qua một con sông rộng lớn. Rồi họ đến một nơi có nhiều cây cao như thể đụng đến cõi trời. Sau cùng, họ lên đến đỉnh một đèo cao. Tất cả những nơi họ đi qua là những giới hạn của cõi trung ấm. Thiên nữ dakini nói, “xem kìa!”

Ở đằng xa, Jetsun trông thấy một lục địa to lớn, có màu hơi đỏ và đẹp lạ thường. Khắp người bà tràn ngập một cảm giác kỳ diệu về sức mạnh và hơi nóng. Thiên nữ dakini nói:

Hỡi người con gái may mắn, hãy xem ở đằng kia.
Vùng đất đó là lục địa Ngayab vô thượng
Đó là xứ được Chư Phật trong ba đời gia hộ
Ngày xưa, đó là nơi trái tim của một con người xấu (ngã chấp) đã được nhiếp phục.
Bởi oai lực gia hộ của Nữ Thần Vajravarahi,
Giáo lý bí mật kỳ diệu đang thịnh hành ở nơi đó.
Dù chỉ trông thấy, nghe thấy hay suy nghĩ đến nơi đó
Người ta cũng đạt được giác ngộ.
Vì vậy, nếu con thật sự đến đó, thì không cần phải nói gì cả.
Dù con chỉ nhìn nơi đó với đôi mắt tôn kính
Con sẽ đạt được chứng nghiệm về cõi tịnh
Vậy hãy đảnh lễ nơi đó với lòng chí thành”.

Jetsun phát tâm tôn kính và đảnh lễ Núi Quang Vinh nhiều lần. Ở đó bà trông thấy một cung điện khổng lồ có hình dạng một đồ hình mandala được làm bằng ngọc quý sáng chói. Cung điện này lớn và cao đến mức dường như đụng đến cõi trời. Bà thấy xung quanh cung điện có vô số các vị daka, và dakini đang hoan hỷ cúng dường những lễ vật. Cung điện này cũng được vây quanh với những khu vườn lớn có đủ loài cây như ý và bông hoa nhiều màu sắc và những hồ nước tuyệt đẹp.

Phần trên đỉnh của cung điện là cõi tịnh độ của pháp thân, tức là trạng thái chơn không. Phần giữa là tịnh độ của báo thân, tức là xứ thịnh vượng vĩnh cửu. Phần dưới của cung điện là cõi tịnh độ của hóa thân, tức là cõi tịnh độ hiển lộ mà những người thành tâm có thể thưởng thức được. Chỉ do nhìn thấy cung điện này mà Jetsun đã chứng nghiệm được trạng thái tâm giác ngộ tự nhiên của bà.

Vào Núi Quang Vinh

Lúc đó, thiên nữ vị dakini nói, “Bây giờ chúng ta đi đến đó.” Trên đường đi đến Núi Quang Vinh, Jetsun cảm thấy sự hiện diện của một đám đông người đang quan sát họ. Trong khoảnh khắc, họ đi đến một cánh cổng hùng vĩ được làm bằng những vật liệu quý, Thiên nữ dakini gõ vào cánh cổng, một người đàn bà với sắc diện đỏ và cử chỉ mạnh mẽ đi ra và hỏi, “các vị là ai?” Vị dakini trả lời:
Người nữ này đến từ Tây Tạng, xứ sở của Giáo Pháp.
Bà là một biểu hiện tâm thức của Dakini Hào Quang Xanh
Bà đến đây để gặp Đại Sư, hiện thân của tất cả các bậc trí giả
Nhưng bà bị tối tăm vì những bất thiện nghiệp ở quá khứ
Xin hướng dẫn để bà không gặp những chướng ngại nào trên đường đi”.

Người đàn bà mặt đỏ nói với Jetsun:

“Ta chỉ là một dakini làm cỗ cúng
Nếu không xin phép các vị ở trong kia
Mà lại đưa con vào ngay là không được
Vậy con hãy chờ ở đây một lát”.

Người đàn bà kia lại quay vào bên trong, và Thiên nữ dakini đi theo sau. Không bao lâu sau, năm thiếu nữ rất xinh đẹp tay cầm bình nước đi ra. Các vị tắm cho Jetsun với cam lồ tịnh thủy, rồi họ đưa bà vào cổng bên trong. Tức khắc thân thể của bà tràn ngập cảm giác hỷ lạc.

Ở cái cổng được trang trí công phu của cung điện, một Thiên nữ dakini cao quý và xinh đẹp với một chút nét phẫn nộ đến đón bà Jetsun. Tức khắc tâm của Jetsun nhập vào trạng thái thiền định. Bà đã chứng nghiệm trạng thái thiền ở cấp độ Bồ tát thứ mười. Jetsun cầu nguyện bảy lần với vị dakini. Vị dakini này dẫn bà Jetsun đi lên mười sáu bậc thang bằng pha lê. Nơi đó, Jetsun thấy mình đang ở bên trong cung điện. Đây là một nơi rộng lớn vô cùng, và từ đây người ta có thể thấy tất cả mọi hiện tượng, không có sự mê lầm hay chướng ngại nào.

Ở trước mặt của Jetsun có một bức màn lụa trắng thêu chỉ vàng. Khi bức màn mở ra, bà thấy Đức Liên Hoa Sanh ngồi trong tư thế vương giả trên một tấm nệm hoa sen đặt trên một ngai quý báu. Ngài có sắc diện trắng hơi đỏ, và toát ra năng lượng bình an rộng lớn, chơn không và năng lực phẫn nộ. Ngài đội mão hoa sen có hình mặt trời, mặt trăng, và lông đại bàng. Ngài mặc ba áo Giáo Pháp với một áo gấm ở bên ngoài. Tay phải Ngài cầm một chày kim cương và tay trái cầm một chén sọ người, bên trong là bình cam lồ trường sanh. Hào quang của Ngài tỏa chiếu rực rỡ hơn trăm ngàn mặt trời. Bà cảm thấy mình không thể có đủ sức để ngắm nhìn Ngài cho thỏa lòng tôn kính.
Jetsun thấy xung quanh Đức Liên Hoa Sanh là tất cả các vị Thầy vĩ đại của quá khứ ở Tây Tạng và Ấn Độ.

Với ánh mắt từ bi, Đức Liên Hoa Sanh nhìn Jetsun. Mỗi sợi lông trên thân thể bà đều dựng đứng. Bà vui sướng xúc động đến nỗi khuôn mặt bà đẫm lệ với lòng tôn kính không thể đè nén được. Bà đảnh lễ trước Đức Liên Hoa Sanh nhiều lần và cầu nguyện cho hết thảy chúng sanh. Đức Liên Hoa Sanh ban nhiều lời tiên tri và giảng giáo lý sau đây cho bà:

Hỡi Dakini Hào Quang Xanh, hãy nghe Ta nói
Đây là xứ vô thượng, Núi Màu Đồng Quang Vinh.
Trừ những người nam, nữ có thiện nghiệp
Người thường không thể thọ hưởng được
Đây là cõi tịnh độ vô thượng .Ta, Đại Sư Liên Hoa Sanh
Giữa những vị thành tựu và các vị Thầy ở đây,
Không có ai mà không đạt những cấp thành tựu cao
Ai trông thấy cõi tịnh độ này
Sẽ không bao giờ lạc khỏi con đường giác ngộ.
Vậy hãy phát tâm thành kính và cảm thấy an lạc.
Giờ đây, không chậm trễ, con phải trở về Tây Tạng.
Hãy là người hướng dẫn giảng dạy về luật nghiệp báo
Hãy là bậc Thầy trình bày về giáo lý Đại Thừa.
Hãy là viên ngọc trên vương miện của tất cả dakini.
Hãy là tinh túy của trái tim, người duy trì giáo lý của Ta.
Phục hồi những truyền thống của Thầy tổ.
Người nào trông thấy mặt con hay nghe lời nói của con
Sẽ đạt đến giác ngộ. Đây là những lời của Liên Hoa Sanh.
Hỡi những trí giả đang tụ tập ở đây,
Xin hãy gia hộ với tâm của các vị cho đệ tử này”.

Sự gia hộ của Đại Sư

Ngay lúc đó, những luồng ánh sáng nhiều màu, trắng, đỏ, vàng, và xanh phóng ra từ ngực tất cả những vị thánh tề tựu nơi đó và hòa nhập vào ngực của Đức Liên Hoa Sanh. Với sự dẫn đầu của Đức Liên Hoa Sanh, tất cả các thánh giả đều trì niệm Thần Chú Kim Cương Sư ( Mantra Guru Vajra): OM AH HUNG VAJRA GURU PADMA SIDDHI HUNG. Âm thanh đó tràn ngập và vang vọng trong không gian. Sau đó, đặt tay lên đầu của Jetsun, Đức Liên Hoa Sanh nói:

“Nguyện cho thân, miệng và ý của con.
Được gia hộ với thân, ngữ, và ý của Ta!”.

Tức khắc, Jetsun cảm thấy một cảm giác kỳ diệu khắp toàn thân, và bắt đầu rung chuyển. Bà cất lời tán thán đến Đức Liên Hoa Sanh với giai điệu ngọt ngào và phát nguyện mang an lạc và hạnh phúc đến cho tất cả chúng sanh. Rồi với tấm lòng nặng trĩu lúc giả biệt, bà nói:

“Bạch Đức Đại Sư sanh ra từ biển
Hiện thân của tất cả chư Phật;
Các bậc trí giả của Ấn Độ và Tây Tạng,
Đang giảng giáo lý của chín thừa (ba thừa kinh điển, ba thừa mật điển ngoại, ba thừa mật điển nội)


Biển lớn các dakini, các bà Mẹ,
Đang thọ hưởng vinh quang và hỷ lạc
Trong Cung Điện Núi Màu Đồng Vinh Quang
Nơi các vị thành tựu đang tụ hội!

Con là một kẻ hành khất tên là Lochen
Cô độc lang thang đến đây từ xứ Tây Tạng đau khổ.
Than ôi, đây chắc là nghiệp quả xấu của con từ quá khứ
Để con phải trở về Tây Tạng.
Hỡi các bậc thánh đang tụ hội ở đây!
Các Ngài có thấy nổi đau của con chăng ?
Mọi đau khổ của chúng sanh trong sáu cõi luân hồi và tam giới (dục giới, sắc giới và vô sắc giới)
Xin hãy đổ lên con, để chịu thay thế cho họ

Đến đây, Thiên nữ dakini đã gặp Jetsun ở cửa cổng, Thiên nữ ban phước cho Jetsun với mũi tên trường thọ và nói:

“Hỡi người con gái may mắn, hãy nghe ta nói:
Ta là Dakini Hào Quang Xanh.
Con và ta là bất khả phân,
Giống như mặt trăng và bóng trăng trong nước.
Xin đừng buồn vì trở về,
Nhờ ơn gia hộ của Đức Liên Hoa Sanh,
Con sẽ làm lợi ích cho vô số sinh linh”.

Jetsun đặt đầu mình vào chân Đức Liên Hoa Sanh, Jetsun đã được Ngài ban cho bốn gia trì lực. Bà cũng được các bậc trí giả thành tựu khác gia hộ. Vị Dakini Hào Quang Xanh đưa bà ra cổng, gia hộ và ban những lời tiên tri. Ở đó, một lần nữa, vị Thiên nữ dakini một mắt xuất hiện và đưa Jetsun trở về.

Lòng từ bi trong những cõi đau khổ

Trong khoảnh khắc Jetsun đã đến Thiên giới. Ở đây những người nam và nữ đang giải trí bằng âm nhạc, nhảy múa, và thọ hưởng những thú vui nhục dục khác. Các chúng sanh trong cõi bán thiên A Tu La thì bị đau khổ vì hành hạ lẫn nhau. Sinh linh trong cõi bàng sanh đau khổ vì bị bắt làm nô lệ và ăn thịt lẫn nhau. Những sinh linh trong cõi ngạ quỷ bị hành hạ trong trạng thái đói và khát trầm trọng.

Sau đó Jetsun lại vượt qua một cánh đồng rộng lớn và đi lên một đèo núi cao. Trên đỉnh đèo bà thấy địa ngục đau đớn hãi hùng và lòng bà trĩu nặng với đầy nổi xót thương. Bà nghĩ, “Mình nên đi đến thỉnh cầu Đức Pháp Vương thả những tội đồ đang đau khổ này ra.” Những sinh linh ở địa ngục bị hành hạ bằng những đòn tra tấn bất tận. Họ bị thiêu đốt trên những cánh đồng sắt nóng đỏ bốc lửa. Họ bị cắt ra thành từng miếng, bị nghiền nát thành bụi, bị nướng trong phòng giam nóng cháy, bị đâm bằng những khí cụ nóng cháy và bị rót nước đồng sôi vào cổ họng. Vì đây là quả báo mà họ phải chịu, nên họ không bao giờ chết ở địa ngục mà sẽ ngất đi rồi tỉnh lại nhiều lần cho đến khi sự chịu tội ở địa ngục của họ chấm dứt.

Với khuôn mặt đẫm nước mắt, tâm trạng u buồn, và lòng bi mẫn, Jetsun cầu nguyện. Tức khắc, một dakini với Đức Phật Từ Bi xuất hiện và giảng giáo lý cho bà. Jetsun cũng thành tâm cầu nguyện, và bà cảm thấy mức độ đau khổ của các sinh linh đó đã giảm bớt. Tất cả các tội đồ của địa ngục nhìn thấy Jetsun, và một số họ còn có thể quy y Tam Bảo. Jetsun cất lời ca ngợi giáo lý sau đây cho họ nghe:

“Nếu muốn giải thoát khỏi những đau khổ này,
Hãy xem vị Thầy mà mình tin tưởng,
Là hiện thân của tất cả ba đối tượng quy y tối thượng: Phật, Pháp, và Tăng.
Cầu nguyện vị Thầy với lòng tôn kính vô biên.
Sám hối những nghiệp chướng mà mình đã tạo trong quá khứ.
Hãy hứa không tạo ác nghiệp như vậy nữa.
Phát nguyện nhận vào mình những đau khổ của người khác.
Hãy xem quân đao phủ địa ngục như Đức Phật Từ Bi.
Quán tưởng địa ngục là cõi tịnh độ của Phật Từ Bi
Hãy nghe những âm thanh đánh và giết như tiếng niệm OM MANI PADME HUNG.
Bản chất thật của đau thương là rỗng không
Năng lực tự nhiên của tâm thức là sự hiện diện một cách tự nhiên và bất tận.
Mọi sắc tướng phát sanh từ oai lực của chơn không và được giải thoát vào chơn không.
Sự phát sinh và sự giải thoát của chúng không liên tiếp nhau mà là cùng lúc.

OM: quán tưởng thân thể của mình là thân quang minh chơn không của Phật Từ Bi.
MA: Trong thân đó quán tưởng kinh mạch trung ương với bốn phẩm tính,
NI: Trong thân đó tâm thức có hình dạng quả cầu ánh sáng năm màu.
PAD: Với năng lực của ” hơi thở cái bình”.
ME: Vào trong tim của Đức Phật Vô Lượng Quang,
HUNG: Hãy phóng quả cầu ánh sáng và hợp nhất
HRI: Bằng cách niệm PHAT năm lần.

Pháp này có oai lực giải thoát thần thức cho các sinh linh, kể cả những người đã tạo ác nghiệp.

Hôm nay ta làm pháp phowa cho những sinh linh ở địa ngục.
Do lòng từ bi của các vị lạt ma và các vị dakini,
Nguyện cầu cho tất cả các vị sớm giải thoát khỏi những cõi thấp và đắc Phật quả.”

Vào lúc này, nhiều sinh linh thoát ra khỏi địa ngục.

Năng lực giác tánh nội tại của riêng bà

Khi Jetsun cảm thấy muốn gặp vị Pháp Vương, tức khắc bà thấy một luồng ánh sáng phát ra từ đầu của mình. Ở đầu kia của luồng ánh sáng, bà trông thấy một pháo đài sắt to lớn, đáng sợ. Trong pháo đài, trên một ngai tạo bằng xác chết, mặt trời, mặt trăng, và hoa sen là vị Đại Pháp Vương. Ngài có hình dạng phẫn nộ, mặc trang phục phẫn nộ với sắc diện màu tím đen. Ngài ở giữa một cơn bão lửa và những dòng máu. Ngài cầm một tấm bảng và một tấm gương, và đang gầm với âm thanh phẫn nộ: A-RA-LI. Đứng xung quanh Ngài là các vị Thần Chết.

Ngay lúc đó, Jetsun cảm thấy rằng vị Thiên nữ dakini đi cùng với mình nhập vào tim của bà và Phật Từ Bi đã hòa nhập vào đầu bà.

Bà kính chào vị Pháp Vương và đoàn tùy tùng của Ngài. Sau đó bà cầu nguyện, và hình như tất cả các vị đều lập lại lời nguyện theo sau bà. Khi bà nhắm mắt trong sự tôn kính, dường như tất cả họ đều bắt chước làm theo bà. Đến lúc này bà chợt hiểu ra rằng mọi sắc tướng này chỉ là năng lực biểu lộ tánh giác nội tại của riêng bà.
Vị Pháp Vương hỏi Jetsun, và các vị phụ tá của Ngài kiểm lại những hành vi quá khứ của bà trong tấm gương, trong sổ ghi chép và với cái cân. Khi thấy chỉ có những nghiệp tốt, các vị đã hướng dẫn bà đi vào con đường giải thoát.

Jetsun nói với họ, “Làm sao tôi có thể rời khỏi nơi này một mình, bỏ lại mọi sinh linh trong địa ngục này ? Xin hãy cho mọi người được giải thoát.”

Vị Pháp Vương đáp:

“Người không biết địa ngục chỉ là phản ánh của tâm tánh của con người hay sao ?
Ta không tạo ra nền sắt nóng cháy và những ngọn lửa địa ngục.
Chúng là những sản phẩm của tâm sân hận và tham dục
Mỗi đau khổ trong địa ngục
Được tạo ra bởi cảm xúc trói buộc của chính nó, thí dụ như cảm xúc sân hận.
Đối với tâm giác ngộ thì địa ngục là cõi Cực Lạc.
Chính chúng ta là những vị Phật hiền hòa và phẫn nộ.
Đau khổ chấm dứt là “lúc giải thoát phát sanh”.
Khi trở về thế gian của người
Hãy chuyển thông điệp này cho mọi người: “Luật nhân quả không bao giờ sai lạc”.
Ngươi, Jetsun, đã tận mắt chứng kiến.”

Jetsun quán tưởng chính mình là Đức Phật Từ Bi với một trăm vị Thần hiền hòa và phẫn nộ ở trong mình. Rồi bà niệm “OM MANI PADME HUNG “và an trụ trong trạng thái thiền chơn không. Kết quả là nhiều sinh linh đã được giải thoát khỏi địa ngục.

Không bao lâu sau đó Jetsun đã tái nhập về thể xác và hồi phục sức khỏe. Trước đó Mẹ và bạn bè của bà canh giữ cái xác của bà suốt ngày đêm. Đôi lúc họ cảm nhận mùi hương thơm, có khi là mùi của xác chết, có lúc mùi rất thơm, và đôi lúc mùi rất hôi. Những mùi này là tương ứng với thời gian và địa điểm mà Jetsun viếng thăm.

Không có gì để lấy hay bỏ: kinh nghiệm của Đại Sư Do Khyentse Yeshe Dorje

Do Khyentse (1800-1866), ra đời tại tỉnh Golok thuộc miền Đông Tây Tạng và là một trong những vị đại sư thành tựu, kỳ diệu và vĩ đại nhất của tông phái Nyingma của Phật giáo Tây Tạng. Những cuộc viếng thăm cõi tịnh độ của các vị Thầy thành tựu như Đại Sư Do Khyentse thường được các sách Phật giáo Tây Tạng xếp vào loại linh thị thanh tịnh hay các hành trạng giải thoát của quý Ngài, chứ không được xem là kinh nghiệm cận tử của một delog. Thêm nữa, Đại Sư Do Khyentse chỉ đề cập một cách không chi tiết về những chuyến du hành của Ngài đến các cõi thấp như địa ngục, vốn rất quan trọng cho những chuyện kể của delog để răn đe và gây cảm hứng cho mọi người. Vì vậy lời kể của Ngài về chuyến viếng thăm cõi tịnh độ không thực sự được xếp loại truyện delog.

Đại Sư Do Khyentse (1800-1866)

Tuy nhiên tôi vẫn cho vào cuốn sách này cuộc du hành đến cõi tịnh độ của Đại Sư Do Khyentse, vì chuyện kể của Ngài minh họa đề tài đi thăm những cõi khác sau khi rời khỏi thể xác, và chuyện này cũng kể chi tiết về cõi tịnh độ của Đức Liên Hoa Sanh.

Thời tuổi trẻ và như một ẩn sĩ, Đại Sư Do Khyentse đã vân du nhiều nơi ở xứ Amdo thuộc miền Đông Bắc Tây Tạng. Theo lời kể của vị Thầy chính của Ngài, Dodrupchen Rinpoche Đệ Nhất. Đại Sư Do Khyentse bỗng ngã bệnh đậu mùa, mà vào thời đó là một căn bệnh chết người. Sau đó vài ngày Ngài ngừng thở và ở trong trạng thái chết lâm sàng trong mười lăm ngày. Vì Ngài đã biểu lộ quyền năng huyền bí dị thường từ thời thơ ấu nên các đệ tử không đụng chạm vào nhục thân của Ngài, với niềm hy vọng Ngài sẽ sống lại.

Thân huyễn ảo bị phá hủy

Đại Sư Do Khyentse thấy mình có một người đồng hành là em gái của mình, Dakini Losal Drolma (1802-1861), cũng là một hành giả thành tựu và hai người đàn bà khác và một hành giả. Họ cùng nhau đi đến nhiều nơi, từ cõi địa ngục cho đến các cõi trời. Riêng Đại Sư Do Khyentse thì cảm thấy mình có bạn đồng hành, nhưng các vị kia thì không có cùng cảm nhận như vậy. Thí dụ, lúc đó em gái Ngài đang theo học với đạo sư Dodrupchen.

Vượt qua nhiều lục địa, họ đến Núi Màu Đồng Vinh Quang, cõi tịnh độ của Đức Liên Hoa Sanh. Trên đường đi họ gặp nhiều người ở những nơi khác nhau. Ngài không hiểu ngôn ngữ của họ, Ngài vẫn có thể giao tiếp với họ qua năng lực tánh giác nội tại của mình.

Ở đầu một chiếc cầu khổng lồ, nhóm của Ngài được mười vị Thần phẫn nộ đón tiếp. Các vị này làm lễ giải trừ những dấu của bất thiện nghiệp. Những người du hành vẫn mang theo những dấu vết của nghiệp xấu từ thói quen trần tục của họ, dù họ là những vị Thầy thành tựu đã rời khỏi thể xác.

Sau khi đi qua cổng bên ngoài và cổng bên trong, họ được một đại thành tựu hành giả cầm một chiếc bình đầy cam lồ đón tiếp. Vị này tịnh hóa cho họ bằng cách tẩy rửa những ô nhiểm của họ với giòng cam lồ trong chiếc bình.

Sau đó họ đi vào một cung điện trưng bày của cải nhiều vô lượng. Ở đó họ trông thấy Đức Liên Hoa Sanh trong hình dạng phẫn nộ với oai lực lớn đến mức làm cho Đại Sư Do Khyentse bất tỉnh một lúc vì quá sợ hãi. Khi tỉnh lại Ngài thấy các vị thần thọ hưởng cỗ thịt của một xác chết. Ngài thấy xác chết đó là thể xác của chính mình.

Lúc đó, hai vị dakini phẫn nộ đi đến chỗ người em gái đang ngồi bên cạnh Ngài. Hai vị này lột da cô ta và xếp thịt, xương, và nội tạng thành một đống để làm lễ vật. Một vị Thần phẫn nộ xuất hiện từ trên không và gia hộ cho xác thân của cô. Sau đó các vị dakini dâng trái tim cô cho vị Thần đứng đầu. Các vị Thần khác ăn tất cả những phần thân thể đó của cô không để lại một thứ gì cả. Đại Sư Do Khyentse cảm thấy thương xót và buồn khổ không thể chịu dựng nổi khi người em gái không còn nữa. Thông thường thì do thói quen chấp thủ, hay bám giữ, chúng ta mạnh mẽ chống lại sự ra đi hay mất đi thể xác vật chất của mình. Giải trừ được thói quen chấp thủ này là một kỳ công trong tu tập.

Tiếp nhận gia trì lực

Sau đó nhóm người đi lên một cầu thang lớn bằng pha lê. Đại Sư Do Khyentse thấy mọi người nổi bồng bềnh giống như những mảnh giấy trong làn gió, không còn thể xác nữa, vì những thể xác đó đã bị các vị Thần ăn hết trên đường. Họ đi vào một cung điện đẹp đẽ và vui mừng một cách đáng ngạc nhiên. Vẻ đẹp của kiểu kiến trúc, sự phong phú của những chi tiết, và những âm thanh hỷ lạc của Giáo Pháp giống hệt như đã được mô tả trong những lời cầu nguyện Màu Đồng Vinh Quang.

Ở giữa cung điện, Đức Liên Hoa Sanh ngồi trên một ngai quý báu, tỏa hào quang ra khắp nơi. Đất và trời tràn đầy những đấng giác ngộ trong hình dạng nam và nữ. Đại Sư Do Khyentse muốn tiếp nhận được sự gia hộ của Đức Liên Hoa Sanh bằng cách chạm vào Ngài, nhưng chợt nhận ra là mình không thể làm được, vì mình không còn thân vật chất nữa.

Rồi một dakini mặt trắng, tay cầm một sọ người đến gần chỗ của Đại Sư Do Khyentse và nói “Đức Liên Hoa Sanh là hiện thân của chư Phật trong ba thời quá khứ, hiện tại và vị lai. Ngài hiển lộ trong tất cả các cõi của vũ trụ, giống như một mặt trăng phản chiếu trong vô số chậu nước. Giống như bóng trong gương phản chiếu, ngươi cũng là biểu hiện của Đức Liên Hoa Sanh và được giao phó đến Tây Tạng để phụng sự loài người cũng như các loài phi nhân, và để khám phá và bảo tồn những giáo lý huyền bí ở đó. Vì ngươi trở nên vô minh do sự ô nhiễm từ trong bào thai của huyễn ảo nên thân xác của ngươi đã bị các vị thần ăn hết trong bữa tiệc đó. Bây giờ ngươi có thân ánh sáng với tinh túy của trí tuệ. Ngươi phải tiếp nhận bốn gia trì lực từ Đức Liên Hoa Sanh và gieo trồng hạt giống của bốn cấp của những bậc trí giả.”

Tất cả những người có mặt ở cung điện làm lễ trong bảy ngày. Đức Liên Hoa Sanh chủ tọa cuộc lễ như một vị Kim Cương Chủ. Vua Trisong Detsen làm phụ tá kim cương chủ, Guru Chowang làm trưởng ban tụng niệm, Nyinma Trakpa làm trưởng ban nghi lễ, Duddul Dorje và Karma Lingpa làm trưởng ban về giới luật, và Rigdzin Goddem làm trưởng ban gia hộ ban phước. Có vô số các bậc trí giả, daka, và dakini tham dự. Vào cuối cuộc lễ, Đại Sư Do Khyentse nhận được bốn gia trì lực, thanh lọc được những nhiễm ô thai bào của mình. Đại Sư Do Khyentse cũng được giao giữ một cái hộp nhỏ chứa đựng những văn bản giáo lý huyền bí cất giấu (terma). Sau cùng, Đức Liên Hoa Sanh ban những lời dạy sau đây:

“Khi con chứng ngộ sắc tướng là không,
Không cần lắm việc sống xa lánh mọi người.

Khi sự huyễn ảo của sắc tướng đã sụp đổ
Và chơn tánh đã được chứng ngộ
Không phân biệt, dù chỉ một chút nhị nguyên
Hay chấp thủ dù những đức hạnh nhiễm ô
An trụ trong trạng thái thanh tịnh nguyên thủy vững chắc.

Khi biết sắc tướng là mộng ảo
Hãy xem những đối tượng của giác quan chỉ là hư huyễn.
Trong luân hồi giả ảo, không có gì để lấy hay là bỏ.
Hãy làm những hoạt động cao cả của các bậc Bồ tát.

Hiểu rằng những nhận thức ban ngày là tánh quang minh của pháp thân.
Và những nhận thức ban đêm là năng lực của báo thân.
Hãy hợp nhất Mẹ và con, tức trí tuệ và chơn không.
Hãy tu tiến qua mười địa của Bồ tát và năm đạo (từ công đức đến Phật quả) với tốc độ của mặt trời và mặt trăng.

Khi con thành tựu đại lạc bất biến,
Con sẽ trong trạng thái nhất như với Ta.
Không di chuyển, không mô tả, và không biến đổi
Là những mô thức cuối cùng để đạt giải thoát – hãy nhận biết tất cả những điều này.”

Đức Liên Hoa Sanh cất tiếng cười ba lần, lớn đến nổi Đại Sư Do Khyentse cảm thấy toàn cả lục địa rung chuyển với tràng cười của Ngài. Sau khi được Đức Liên Hoa Sanh gia hộ và dạy giáo lý, Đại Sư Khyentse và các vị đồng hành rời khỏi cung điện. Vị dakini mặt trắng đến một lần nữa và nói:

“Giống như mặt trời và những tia sáng,
Ông là sự biểu lộ và Đức Liên Hoa Sanh là nguồn của sự biểu lộ, là bất khả phân với nhau
Nhưng vì nhân duyên
Bây giờ xuất hiện như người trên kẻ dưới.
Trong tương lai, ông sẽ lại hợp nhất, như nước với nước.”

Rồi một vị Thần với đôi mắt mở rộng nói với Đại Sư Do Khyentse:

“Không bám giữ một nơi nào hay một đối tượng,
Hãy hoàn tất mọi việc đã giao phó cho ngươi
Sự bảo hộ của ta đối với ngươi không thay đổi
Nguyện cho ngươi sớm đắc Phật quả để nhiếp phục ba cõi”.

Trở lại Thế Gian

Đại Sư Do Khyentse và những vị đồng hành đi ra khỏi cổng rồi họ du hành đến những cõi tịnh độ của Đức Phật Vô Lượng Quang, Bồ Tát Quán Thế Âm và Nữ Thần Tara. Cuối cùng, họ trở lại thế gian. Trước hết, khi thần thức vẫn ở bên ngoài thể xác, Đại Sư Do Khyentse đến chỗ vị Thầy của Ngài, Dodrupchen Rinpoche Đệ Nhất, ở Yarlung Pemako, một hẻm núi ở Thung lũng Ser. Ngài được Thầy dạy nhiều giáo lý và gia trì lực.

Rồi sau đó Ngài trở lại xác thân của mình. Ngài trông thấy một người đàn bà màu đỏ, vốn là người đang bảo vệ nhục thân của Ngài, xuất ra khỏi xác thân của Ngài và biến mất. Ngài cảm thấy mình chạm vào cái xác, và tức khắc Ngài ở trong thân vật chất của mình. Trong một lúc lâu, Ngài phải hết sức mới nhìn thấy, nói và cử động. Sau đó với một nỗ lực lớn, Ngài có thể vận động hai chân một chút, và các đệ tử đang chờ đợi đều chạy đến để giúp Ngài. Một y sĩ người Trung Hoa đưa thuốc cho Ngài và dần dần Ngài khỏi bệnh đậu mùa và phục hồi sức khỏe trong khoảng một tháng.

Theo những lời truyền khẩu thì Đại Sư Do Khyentse đã du hành đến nhiều cõi giới khác nhau. Có khi Ngài đi thăm các cõi tịnh độ để gặp các vị Phật và các vị Thầy. Có khi Ngài đến những xứ bí ẩn hay những cõi của những giống người khác nhau trên thế gian để giúp đỡ họ. Có khi Ngài du hành trong thể xác, bằng cách biến mất rồi lại xuất hiện, và vào những lúc khác Ngài rời khỏi thể xác, như đã mô tả ở phần trên.

CHẾT AN LẠC TÁI SINH HOAN HỶ
Nguyên tác Anh ngữ: Peaceful Death, Joyful Rebirth
của đại sư học giả Tulku Thondup
Việt dịch: HT. Thích Như Điển & TT. Thích Nguyên Tạng
Chùa Viên Giác Hannover, Đức Quốc
Tu Viện Quảng Đức, Melbourne, Úc Châu ấn hành 2011

Chương 06
Tái sanh

Không thoát khỏi vòng nghiệp lực

Bất cứ thói quen nào của nghiệp, dù thiện hay bất thiện
Mà chúng ta đã gieo trong tâm thức từ quá khứ,
Sẽ dẫn dắt chúng ta đi tái sanh
Với phẩm chất phù hợp là hạnh phúc hay bất hạnh.

Có nhiều lúc người ta khó tin đời này qua rồi còn sanh trở lại đời sau nữa không? Làm sao biết tái sanh là có thực ?

Tuy khoa học hiện đại có thể không đưa được bằng chứng chính xác nhằm trả lời câu hỏi này, nhưng ta không nên khinh xuất những dẫn giải từ những bậc có truyền thống uy tín trong lĩnh vực tu chứng tâm linh, những vị ấy đã từng thâm áo chân lý của vạn hữu. Tái sanh hay tiếp tục đầu thai là trụ cột chính đối với một vài tín hệ Đông Phương, một vài trường phái Do Thái thần bí cũng chấp nhận tái sanh khởi đầu cho vòng quay của cuộc sống kế tiếp. Nhiều vị đại sư Phật Giáo đã có thể thật sự hồi tưởng và tường thuật lại cuộc sống quá khứ của quí Ngài. Chính Đức Phật cũng đã kể lại hằng trăm câu chuyện về cuộc đời Ngài trong những kiếp quá khứ, bộ sưu tập nổi tiếng đó gọi là Jataka Tales (Túc sanh truyện – truyện tiền thân). Ngài cũng đã xác minh đời quá khứ của người khác.

Thậm chí có những người nam hay nữ rất bình thường – ở những quốc gia khác nhau, chủng tộc và tôn giáo khác nhau – đều tự nhiên nhớ lại tiền thân trong kiếp sống quá khứ, xuất thân từ những gia đình nào, ở đâu, thành phố nào. Thu hút chú ý đặc biệt là nhiều trường hợp của trẻ con, chúng đã kể lại rõ ràng chi tiết về thân phận của chúng trong kiếp quá khứ, cho dù trong kiếp này từ nhỏ đến lớn, chúng chưa bao giờ đến thăm nơi mà chúng đã sinh ra hay gặp một người nào đó trong kiếp trước. Công trình nghiên cứu nổi tiếng nhất về đời sống quá khứ từ ký ức trẻ con, do Ian Stevenson M.D thực hiện, ông là người đã sưu tập hằng ngàn trường hợp ở Nam Á và Trung Đông trong vòng 40 năm qua, nhằm cố gắng nghiên cứu đề tài này dưới cái nhìn của khoa học. Ở Tây Tạng, có không biết bao nhiêu thí dụ từ những người sắp lâm chung tiên đoán tên cha mẹ của họ trong tương lai, thành phố nơi họ sẽ sinh ra. Ngoài ra còn có những đứa trẻ từng nhớ lại những chi tiết về đời sống trước đây của chúng.

Theo truyền thống của Phật Giáo Tây Tạng, có hằng ngàn vị Tăng sĩ trưởng lão với tước hiệu Tulku (Skt. Nirmanakaya) là những hóa thân. Người ta tin rằng tước hiệu Tulku là một ứng hóa thân của một vị Phật đã hoàn toàn giác ngộ hay đó là tái sanh của một Thiền giả chứng ngộ cao cấp nào đó. Vào lúc chết, những vị lama thỉnh thoảng dạy cho đệ tử biết họ sẽ tái sinh nơi nào. Trong vài trường hợp, từ khi còn nhỏ những Tulku đã bắt đầu kể, họ là ai trong kiếp quá khứ, những gì họ mong muốn hoặc cần thực hiện.Tuy nhiên, ở Tây Tạng, công thức được chấp nhận thông thường nhất để nhận ra một hóa sanh là, sau khi kiểm tra qua nhiều triệu chứng, tiếp đến sẽ là một buổi công nhận chính thức từ một lạt ma cao cấp đáng tôn kính khác.Tuy vậy có nhiều người nhìn nhận lầm lẫn Tulku do ảnh hưởng của những bậc Cha Mẹ cao vọng hay từ những yếu tố ích kỷ hoặc đơn thuần chỉ là sự lầm lẫn.

Một số quí vị Tulku đã nhớ lại đời sống quá khứ của họ hoặc biểu hiện những phẩm chất của hóa thân trong quá khứ. Ví dụ Thầy của tôi (tác giả) tái sanh lần thứ tư của Dodrupchen Rinpoche, ở lứa tuổi 3 hay 4 đã làm ngạc nhiên nhiều người, bởi luôn tiếp tục nói về nơi mà vị Dodrupcher thứ 3 đã sinh sống, đọc những lời cầu nguyện mà Ngài chưa hề được dạy, đọc những vần thơ không hề hiểu từ ký ức và biểu hiện những phép lạ. Ngài cũng đã cho thuật lại cảnh giới Cực Lạc của Đạo sư Padmasambhava (Liên Hoa Sanh) như Ngài đã từng thấy.

Ngay tại Hoa Kỳ, nơi mà sự chấp nhận về tái sanh càng ngày càng gia tăng. Qua đánh giá của Gallup Poll thực hiện vài năm về trước, tường thuật có 25% người Hoa Kỳ tin có “sự đầu thai của linh hồn (tâm thức) vào một thân thể mới”. Tuy nhiên đa phần thuộc tín đồ Tây phương thuần túy bài bác ý tưởng tái sanh. Mặc dù vậy, trên tổng thể họ đồng ý với Phật Giáo trên 2 điểm quan yếu: nếu bạn vô ngã và luôn giúp người bằng tình thương, thì điều kiện tốt đẹp sẽ chờ đón bạn sau khi chết; và nếu bạn luôn tạo những hành động sân si, tổn thương chúng sinh khác, thì bạn sẽ phải đối đầu với những hậu quả bất thiện đó.

Không cần biết chúng ta đã làm gì tính đến thời điểm này, đa phần mọi tôn giáo đều nuôi hy vọng cải thiện hoàn cảnh trong tương lai. Dù những truyền thống khác biệt đó dưới danh nghĩa, hình thức nào sử dụng cho cuộc thay đổi cần thiết này như: hối cải, tha thứ, chuyển đổi, cứu rỗi, cứu tế hay giải thoát… thì ý nghĩa chung vẫn là bằng ý chí và nghị lực của riêng bản thân với sức nương tựa vào năng lực gia hộ thiêng liêng, phía trước vẫn mở ra con đường cho chúng ta vươn lên một cuộc sống hạnh phúc hơn, đời sống ý thức tâm linh cao hơn.

Giải thoát hay tái sanh?

Theo tinh thần Phật giáo, mọi người đương nhiên sẽ tái sanh sau khi chết, ngoại trừ vượt khỏi vòng sanh tử bằng con đường Thiền định chứng đắc quả vị giác ngộ. Khi giác ngộ viên mãn Phật quả, bạn sẽ không bao giờ phải tái sanh trở lại trong bất kỳ cảnh giới thế tục này. Bởi vì bạn không phải là chủ thể của vòng nghiệp lực dẫn đến tái sanh. Bạn sẽ an trụ trong đạo tràng miên viễn của Phật trí cũng như Phật độ, pháp thân cùng báo thân của Phật đạo. Đó là cảnh giới của an lạc tối thượng, hoan hỷ tuyệt đối và chứng ngộ Thánh quả. Sau đó, những người khác sẽ có thể nhìn thấy báo thân của bạn, điều mà sẽ được thể hiện trên quả địa cầu này trong một hình hài thực tế, rõ ràng cho những người cởi mở tâm linh và nghiệp lực để hướng tới bạn. Báo thân này như là một sự giác ngộ trọn vẹn, mà sẽ chẳng phải do nhân quả liên hệ và nghiệp tạo ra. Bởi vì, chẳng những thế mà còn khởi lên từ sự từ bi của bạn một cách mạnh mẽ để phụng sự cho các chúng sanh trong thế giới Ta Bà.

Chứng giác ngộ trong đời này (hay kéo dài một trong ba kỳ kiếp khác của vòng sinh tử luân hồi) là sự thành tựu của những Đạo sư tiến bộ về Thiền Định. Nếu bạn là một chúng sanh bình thường – chẳng phải là một Đạo sự thành tựu cao cả, chẳng hề giác ngộ hay hoàn toàn giác ngộ, thì sau khi chết đi bạn bị trói buộc một cách thích hợp với sự tái sanh, theo chính nghiệp lực tự thân của bạn. một lần nữa bạn sẽ bắt đầu lại với những lối đi khác của cuộc sống mà cục diện ấy chúng ta đã thảo luận ở chương 01 rồi. Trong chương này chúng ta sẽ khảo sát tại sao và chúng ta sẽ tái sanh như thế nào? Hoặc là ở Tịnh Độ hay một trong sáu vòng sanh diệt: vòng luân hồi của Chư thiên, A tu la, người, thú, ngạ quỷ và địa ngục.

Cho dù bạn không phải là một Đại sư có thành tựu cao và vẫn còn nằm trong vòng kiểm soát của nghiệp lực. Nhưng bạn đã từng tích lũy thiện nghiệp về giới hạnh hay công đức, thì bạn vẫn được tái sanh vào cõi Tịnh Độ hay cõi người với phẩm chất quí trọng. Như vậy, bạn sẽ có thể dụng ý một cách hữu ích để phụng sự cho những người khác. Dần dần mục tiêu tối hậu của sự giác ngộ cũng có thể đạt đến được.

Nếu bạn tái sanh vào cõi Tịnh Độ, thì sẽ là Tịnh Độ của hóa thân. Cõi Tịnh Độ hóa thân không giống cõi Tịnh Độ tối hậu của Phật quả. Bạn sanh vào thế giới Cực Lạc do nghiệp tích cực của bạn. Bạn sẽ vẫn có tâm thức nhị nguyên, vui với tình thức tích cực và với những cảm giác ấy. Thế nhưng sau khi sanh về thế giới Cực Lạc rồi bạn không còn trôi nổi trên hành trình hướng đến sự giác ngộ trọn vẹn. Sự đạt được Phật quả sẽ chắc chắn (chúng ta sẽ khảo sát một vài sự thuật lại về cảnh giới Tịnh Độ trong chương tới, nhan đề là: Đức Phật Vô lượng quang và Thế giới Tịnh Độ của Ngài).

Nếu bạn tái sanh vào một trong sáu đường thì bạn sẽ bị trói vào một thân thể vật lý (con người hay những loài khác), chung quanh ảnh hưởng bởi văn hóa xã hội. Khi nào bạn sống với thân thể kia, bạn có thể vẫn cải thiện được nghiệp lực từ từ để có được một đời sống trong hiện tại hay tương lai tốt hơn. Tuy vậy, gần như không thể chứng được trạng thái tối hậu của Phật quả miên viễn, mà chính trạng thái ấy là báo thân của Vô Thượng Phật quả. Đối với những hành giả đã sẵn sàng, sự chuyển biến này sẽ dễ dàng xảy ra hơn sau khi chết, lúc đó họ không còn bị vướng thân thể vật lý thô phù này nữa.

Nguyên nhân của sự tái sinh

Không bao giờ có tái sanh mà không có nguyên nhân. Nguyên nhân của sanh tử trong sáu cõi là do sáu cảm thọ phiền não. Đó là: tự tôn, chấp trước, dục vọng, si mê, tham lam và sân hận. Những cảm thọ đau khổ trở thành cội rễ phân biệt giữa phàm phu và giải thoát trong tâm thức. Khái niệm phân biệt nhị nguyên trỗi dậy ngay trong tâm thức, chấp ngã vào bất cứ về đối tượng nào, xem bản chất của đối tượng ấy thật sự tồn tại.

Khi chấp chặt vào tự ngã, chúng ta tự tạo một thói quen phân biệt giữa “cái này” và “cái kia” thay vì nhận thức được tính đồng nhất của vạn vật. Thói quen về sự phân biệt này đánh thức sự tác động, sự ưa thích hay việc chẳng ưa thích, sự mong muốn hay chẳng mong muốn, sự ràng buộc và hận thù. Chúng ta để những tình thức này vào âm thanh và cách nói năng một cách tự nhiên. Thường huân tập những tư tưởng hay hành động thiện dẫn đến hạnh phúc tái sanh ở cảnh giới cao hơn và ở cõi Tịnh Độ. Thường huân tập những tư tưởng hay hành động bất thiện sẽ dẫn đến những sự khổ đau và kết quả là sẽ tái sanh vào những cảnh giới thấp.

Tôi đã thưa rằng nếu bạn là những vị đạo sư thành tựu ở bậc cao thì bạn có thể giải thoát khỏi vòng sanh tử do thành tựu giác ngộ. Nếu bạn hoàn toàn thể đắc về trí tuệ rộng rãi – căn bản tánh không là sự tự nhiên của chúng ta, thì khái niệm của sự chấp chặt tự ngã sẽ được giải thoát và sẽ chấm dứt sự khổ đau như nhơn quả nghiệp lực, điều ấy có nghĩa là không còn tái sanh nữa. Khi đạt được sở chứng ấy, bạn đã có thể trở thành nguồn lợi lạc vô biên cho nhiều chúng sanh khác.

Tuy nhiên, đa phần chúng ta đều lao vào bám chấp những cảm thụ trong tâm thức và cho đó là những cảm thọ tồn tại chắc thật. Đồng thời chúng ta càng thúc đẩy những chấp trước này bằng những nguồn năng lượng của cảm thọ thích hoặc ghét. Ngoài ra chúng ta còn có khuynh hướng biểu tỏ cảm xúc của mình, không chỉ bằng suy nghĩ hay cảm xúc, mà còn bằng hành động hay lời nói, để tạo thành chủng tử. Những hành vi của thân, khẩu, ý như thế sẽ tạo thành nghiệp, đó là những thành tố huân tập thành thói quen của dòng tâm thức quyết định cho đời sống của chúng ta. Nghiệp kia sẽ kéo chúng ta vào nguyên nhân của sự tái sanh, hoặc vãng sanh Tịnh Độ hoặc trở lại một trong sáu nẻo luân hồi.

Lưu ý tất cả những khái niệm nhị nguyên cũng như cảm xúc của chúng ta- dù cho những xúc cảm đó của một con người tốt, như sự quan tâm, thương yêu và mong cho những người khác đạt đến những điều tốt đẹp – tất cả đều đi cùng với chấp trước của tự ngã. Vì thế, dù những cảm xúc tích cực là điều tốt, chúng vẫn còn rất xa so với cảnh giới của sự viên mãn, đó chính là căn bản trí tuệ vượt khỏi tư duy nhị nguyên và những cảm thọ xúc tình.Tuy nhiên, chấp vào những phẩm hạnh tích cực vẫn là những nấc thang để dẫn đến sự viên mãn, giúp cho chúng ta từ từ buông thả những chấp trước bám chặt vào tự ngã, hưởng được những cảm thụ của bình an và hỷ lạc. Như vậy sự biến thể từ phủ định sang khẳng định và từ tích cực sang viên mãn, là con đường lý tưởng để hướng đến Phật quả hay còn gọi là viên mãn tối thượng.

Lục đạo luân hồi

Sáu cảnh giới thế gian là một tập hợp gọi là luân hồi hay chu trình của Hữu. Trong biểu đồ Phật giáo, chúng được vẽ thành những hình ảnh được biết đến là Bánh xe luân hồi. Thế giới Ta Bà có ba cảnh giới thấp và ba cảnh giới cao.

Ba cảnh giới thấp là thế giới của nhiều sự khổ đau:

1. Trong địa ngục, những chúng sanh khổ sở chưa hề ngừng nghỉ bởi sự thiêu đốt của những ngọn lửa và bị tắm nước đồng sôi hay tuyết, đá đông lạnh.

2. Cõi ngạ quỷ, những chúng sanh đau khổ chưa hề dứt sự thống khổ của sự đói khát.

3. Cõi súc sanh, những chúng sanh đau khổ về sự sợ hãi, ngu si và nô lệ.

Những chúng sanh này sẽ chẳng chết đi từ sự thống khổ ấy, ngay cả nếu chúng bị đốt thiêu trong ngọn lửa của địa ngục. Ngoại trừ nghiệp lực, là nguyên nhân của sự tái sanh kia chấm dứt.

Ba cõi cao hơn là những thế giới có nhiều hạnh phúc hơn, nhưng họ cũng bị cuốn vào sự khổ đau không cùng tận.

4. Ở cõi A Tu La, những chúng sanh vui với đời sống vật chất đầy đủ, nhưng chúng luôn đau khổ vì chiến đấu với nhau liên tục cũng như đánh nhau.

5. Ở cõi trời, chúng sanh vui với hạnh phúc to lớn lâu dài và cảm thọ sung túc, nhưng những sự vui thú này đơn độc chẳng hề thay đổi về sự vui thú có tính cách nhục dục đó và rồi cũng sẽ chịu khổ đau. Họ sống đời sống dài lâu so với kiếp sống của con người ngắn ngủi, thế nhưng vì không hiểu đạo giác ngộ, nên họ cảm thấy đời sống ấy chấm dứt trong một thời gian ngắn ngủi. Thế giới Chư thiên hay các cõi Trời là một phần của thế giới không tránh khỏi sự chết như chúng ta, chẳng phải là một thiên đường hay vương quốc giống như các vị Chư thiên ở cõi Tây phương thần thoại. Chẳng bao lâu thì nghiệp lực của họ sẽ ra khỏi cảnh giới Chư thiên, rồi những chúng sanh ấy sẽ đau khổ bởi sự chết và họ sẽ đầu thai vào cảnh giới, nơi mà họ là chủ thể để cho nghiệp lực của họ ảnh hưởng đến.

6. Ở cõi người của chúng ta, ngay cả nếu chúng ta sống hạnh phúc với niềm vui lớn của năng lực trí tuệ, giàu có của cải và kinh nghiệm thực tiễn, chúng ta cũng không khỏi khổ đau bởi giây xích của sự tái sanh, sự đau ốm, già nua và sự chết. Chúng ta đau khổ bởi sự mất mát những gì chúng ta muốn và phải chấp nhận những gì chúng ta chẳng hề mong mỏi, không nhận được những gì chúng ta ước mong và luôn đề phòng những gì chúng ta đang có.

1

Vòng luân hồi theo PG Tây Tạng

Sáu tình thức:

Chủng tử của sự tái sanh trong lục đạo.

Thế giới nào trong sáu cõi này đang chờ đợi bạn sẽ tái sanh lần tới? Nó phụ thuộc vào những cảm xúc chiếm ưu thế hơn mà bạn đã ghi vào bộ nhớ tâm thức nghiệp lực của mình. Phải chăng những cảm xúc đó là sân, tham, si, dục, chấp và tự mãn? Hay những cảm xúc thiện lành như lòng bao dung, sự độ lượng, biết đúng chánh hay tà, sự tri túc, hỷ lạc hay khiêm cung chăng? Những thành tố tạo thành thói quen trong tâm tưởng ấy sẽ chuyển biến dưới dạng tái sanh, nơi tái sanh sẽ tùy thuộc vào những nghiệp đó, hoặc trong sáu cõi luân hồi hoặc là cõi Tịnh Độ.

Theo nhiều tài liệu, nghiệp lực là dấu ấn in vào trước tiên với sự tác động của sự sân hận và sự biểu hiện qua nhục thể cuồng nhiệt và những hành động qua lời nói sẽ đưa đến sự khổ đau của việc đốt cháy hay đông lạnh và chúng sẽ cũng hoạt động trở lại trong hình thức tái sanh ở cảnh giới địa ngục.

Ở chương một chúng ta đã nói về bốn phần của hành nghiệp rằng sự cần thiết ở yếu tố trọn đủ của nghiệp: đối tượng (hay căn bản), ý chí, sự thực hiện quyết định, thực hành. Trong ví dụ về nghiệp sân, sự hiện hữu của con người hay sự vật rằng bạn gắt gỏng thì đó là đối tượng. Có động cơ thúc đẩy sự giận hờn là cường độ của đối tượng. Hành vi thuộc về sự gắt gỏng của con người là sự thực hành. Kinh nghiệm về cảm giác của sự giận giữ là đã hoàn tất hành động. Hành động nghiệp như thế nào mà bạn đã thực hành, nếu hành động ấy có tất cả bốn yếu tố thì nó sẽ trở thành sự cấu tạo đầy đủ của nghiệp, điều mà sẽ không thể trốn khỏi kết quả ảnh hưởng trong tương lai.

Có rất nhiều người thể hiện sự tái sanh trong sự giận dữ và khổ não với cảm giác của sân hận đến với hầu hết những người khác. Rồi thì họ nói bất cứ cái gì hoặc bộc phát sự tức giận, điều mà khởi lên sự đau khổ và bạo động trong những đời sống cá thể và trong mọi cuộc sống, với những người mà họ sống chung cùng. Nếu đó là cuộc sống tự nhiên trong hiện tại của bạn, bạn dù chấp nhận hay không thì bạn sẽ chẳng có sự an lạc và hoan hỷ trong cuộc sống của bạn, chỉ là kinh nghiệm của sự khổ não, sợ hãi và sự bất hạnh. Dẫu cho bạn bây giờ ở trong hình hài của con người, sống trong vòng của nhân thế, kinh nghiệm của bạn cũng giống như trong địa ngục như bạn đã là chúng sanh trong địa ngục thuộc địa tầng thấp hơn.

Bạn phải diễn kịch như bạn đương mạnh mẽ, can đảm và anh hùng, nhưng trên thực tế bộ mặt này đơn thuần phủ lên trên sự bất an của bạn, dễ tổn thương và tình cảm tự ngã của bạn. Chẳng bao lâu khi bạn chết đi, bởi vì những thói quen thuộc về sự tức giận ấy, mà bạn đã mang nó xuyên suốt cuộc sống của bạn, kinh nghiệm tinh thần của bạn và những hiện tượng xuất hiện sẽ bừng dậy trong tâm thức của bạn như trong cảnh giới địa ngục. Trong thực tế không có sức mạnh của quan tòa nào sẽ phán quyết hay xử phạt được bạn, mà nó sẽ đơn lẻ chịu tác động của nghiệp lực trở lại, khắc sâu vào giòng chảy của tâm bạn bởi sự tác động của tự thân.

Trong số tài khoản dự trữ của trung ấm thân mà bạn đã được dự ngôn trong chương 5, chúng ta đã thấy một vài việc rất sống động và những thí dụ kinh ngạc của sự khổ đau ở địa ngục. Ở đó chúng ta phải nhớ lại bởi chính chúng ta rằng tất cả những tín hiệu, âm thanh, cảm giác của thân trung ấm và của những vòng quay khác chẳng có gì cả, thế nhưng sự trái ngược của kinh nghiệm tự thân đầy đủ tinh thần, giống như thể hiện trong một giấc mộng. Chúng là những dấu hiệu đơn thuần của sự tác động tích cực hay tiêu cực, rằng một người đã được ghi vào nơi giòng chảy của tâm thức bởi sự thăng hoa của tự ngã, sự nhận ra đối tượng như là sự thật. Ngài Shantideva nói rằng:

“Tất cả những sợ hãi và đau khổ tột cùng

Đều đến từ tâm thức

Những điều này được dạy cho ai đã thấy được chơn lý (Đức Phật)

Ai đã tạo ra khí cụ đặc biệt của vòng quay địa ngục?

Ai đã xây dựng nên tất cả những sự đốt cháy thép trong đất?

Những ngọn lửa này đã đến từ đâu?

Tất cả đều (trái lại với sự đơn thuần) là bất hạnh của tâm thức bạn”

Đức Phật đã dạy như vậy.

Trong trường hợp của sự sân si, nghiệp lời nói sẽ khắc vào chủ yếu bởi sự tác động khác, biểu hiện qua âm thanh, sự tác động vật lý, là những nguyên nhân của sự đau khổ phù hợp và việc tái sanh ở cảnh giới thấp hơn. Tóm lại như sau:

Sự tác động của sự sân si hay giận dữ là nguyên nhân của sự đau khổ bởi sự đốt cháy và sự lạnh giá, đồng thời sẽ tái sanh ở cảnh giới địa ngục.

Sự tác động của tham lam hoặc sự tham dục là nguyên nhân của sự khổ đau về đói khát và sẽ tái sanh vào cảnh giới của quỷ đói.

Sự tác động của sự si mê hay hỗn loạn là nguyên nhân sự khổ đau về vô minh và sợ hãi, đồng thời sẽ tái sanh vào loài súc sanh.

Sự tác động của dục vọng và sự lệ thuộc, là nguyên nhân khổ đau của sự sanh, già, bệnh và chết, đồng thời sẽ tái sanh vào cảnh giới của loài người.

Sự tác động của sự chấp trước là nguyên nhân đau khổ của chiến tranh và ganh tị, sẽ tái sanh vào cảnh giới của A Tu La.

Sự tác động của sự tự tôn và sự tự mãn là nguyên nhân đau khổ của sự hỗn loạn và sợ hãi sự chết, sau đó tái sanh về cảnh giới của Chư thiên.

Trình độ cao hơn phụ thuộc vào sự chấp trước, ganh tị và tự mãn sẽ trở nên sự tham lam. Những điều này, sự tác động ấy có thể giản dị ở ba sự tác động độc hại: sân hận, tham lam và si mê. Đây là nguyên nhân của sự khổ đau và tái sanh lại vào ba đường hạ liệt của vòng luân hồi. Như Ngài Nagarjuna đã dạy:

Tham lam sẽ dẫn bạn vào vòng quỷ đói
Giận dữ sẽ dắt bạn vào địa ngục.
Si mê sẽ hoàn toàn kéo bạn vào vòng súc sanh.

Nó chẳng đơn thuần là tính cách của sự tác động, mà chúng có khả năng sẽ quyết định nguyên nhân của sự tái sanh theo cảnh giới đặc thù. Theo Ngài Gampopa thì cho dù bạn tạo bất cứ nghiệp bất thiện nào:

Nếu bạn tạo nghiệp bất thiện với sự sân hận, thường lập lại vô số lần, và tiếp tục tạo nhân sân hận đó với một bậc đã chứng quả cao tột, hậu quả của nghiệp đó làm bạn phải tái sanh vào cảnh giới địa ngục.

Nếu bạn tạo nghiệp bất thiện với sự tham lam, thường lập lại nhiều lần, và tiếp tục tạo nhân tham lam đó với một bậc đã chứng quả bậc trung, kết quả sẽ bị tái sanh vào cảnh giới ngạ quỷ.

Nếu bạn tạo nghiệp bất thiện với sự si mê, thường lập lại vài lần, và tiếp tục tạo nhân si mê đó với một bậc đã chứng quả bậc thấp, kết quả bạn sẽ bị tái sanh vào cảnh giới súc sanh.

Hậu quả của nghiệp nặng hay nhẹ tùy thuộc vào tác động tâm thái nặng hay nhẹ, thường biểu hiện qua ngôn từ hay hành động khiếm nhã, đặc biệt ta càng khiếm nhã mang đau khổ cho người bao nhiêu, thì chính điều đó sẽ khiến bạn phải lãnh hậu quả do người khác đem đến y như vậy.

Giữa nhiều kết quả của nghiệp lực, quả báo nào sẽ chín trước? Đầu tiên bạn sẽ phải kinh qua hậu quả của nghiệp nào nặng nhất giữa tất cả các nghiệp đó. Nó xảy ra ngay sát cận tử nghiệp. Như vậy nghiệp nào gây tạo vào lúc cận, sẽ tạo thành sức đẩy lớn trong những bước tiếp theo ở đời sống tương lai. Tiếp đến bạn phải lãnh thọ những quả báo đã tạo nhiều nhất và sau cùng là những nghiệp gây tạo gần nhất.

Mặc dù nguyên nhân của nghiệp đã ăn sâu vào trong tâm thức của bạn, nhưng nay có một tin rất đáng vui, mặc dù vậy nhưng bạn vẫn có thể tránh được những tái sanh bất lợi như địa ngục chẳng hạn, nếu bạn thay đổi được tập quán lâu đời trong tâm thức.

Sự chọn lựa tái sanh kiếp sau nằm trong tầm tay của bạn.

Vào cuối cuộc đời, đến giai đoạn trung ấm thân có thể bạn sẽ phải đối diện với nổi sợ hãi khủng khiếp, cô đơn và khổ não. Lúc đó tâm thức sẽ phát sanh một áp lực lớn nhất là cần tìm một chỗ mới nào đó để tái sanh, vì thế lúc đó thần thức sẽ chẳng để ý đến phẩm chất nơi mà cuối cùng bạn sẽ đến đó. Ở vào tình huống ấy bạn đặc biệt phải cảnh giác, bởi vì cơ hội tốt để đóng lại cánh cửa tái sanh vào nơi sai lầm và chọn đúng nơi tái sanh thích hợp, việc đó sẽ nằm trong tầm tay của bạn. Để đạt mục đích này, bạn phải học cách công nhận ra tín hiệu của nơi sẽ tái sanh. Chúng ta đã thảo luận về một vài tín hiệu ở chương 4 về “Trung ấm thân” trong phần tiêu đề “Sự tâm đắc về việc chờ đợi chúng ta tái sanh” (xem trang 90 sách tiếng Anh).

Nếu nghiệp cực thiện hay nghiệp cực ác đưa đẩy, bạn không có cơ hội để chọn lựa nơi tái sanh, vì năng lực của những nghiệp mạnh mẽ đó đã làm chủ hoàn toàn. Việc bạn phải đầu thai nơi nào là điều tự nhiên sẽ diễn ra, không cần đến sự tác ý của tâm thức nữa. Nhưng nếu nghiệp lực của bạn không đủ sức mạnh, thì mọi cố gắng của bạn vào lúc đó sẽ mở ra cơ hội cao nhất để bạn chọn lựa một nơi sinh tốt đẹp. Để thành công trong trường hợp này, sự hiểu biết về phương pháp tránh những tái sinh lầm lẫn và sự chọn lựa một tái sinh đúng là một điều quan trọng.

Ở chương 9 phần “Nghi lễ phục vụ cho lúc lâm chung và người chết”. Chúng ta sẽ khảo sát những nghi lễ một cách tường tận cho việc dõi theo sự sanh trong bốn nẻo luân hồi và đặc biệt trong ba cõi thấp hơn. Ở đây tôi muốn tóm lược đơn giản về lời dạy cho việc đóng kín những dấu hiệu xấu của tái sanh và chọn lựa một trong những tín hiệu đứng đắn hơn.

Tránh tái sinh lầm lẫn

Nếu bạn là hành giả Thiền định thành tựu ở bậc cao, người như vậy đã thể đắc và hoàn toàn giác ngộ bản chất của tâm, bạn phải an trụ trong trạng thái tri giác đó mà không bị động. Làm được điều đó rồi, thay vì tái sanh, bạn có thể đạt thành nơi Phật quả.

Nếu bạn chẳng hề thể đắc hoặc chẳng được hoàn hảo về điều ấy, nhưng nếu bạn để tích tụ ruộng phước đức và đã quy y với một vài vị Phật riêng biệt ở các cõi Tịnh Độ thì bạn nên về nương tựa với vị Phật và cõi Tịnh Độ ấy. Đồng thời sự mong đợi mạnh mẽ kia về sự tái sanh sẽ làm việc đặc thù ở cõi Tịnh Độ. Càng nhiệt thành thì sẽ cứu vớt bạn từ vòng quanh tái sanh trong sáu cõi ấy và sẽ hướng bạn đến tái sanh theo ý muốn của bạn ở cõi Tịnh Độ.

Ví dụ nếu trong đời sống của bạn, bạn đã gieo trồng chủng tử của sự nương tựa về vị Phật Vô Lượng Quang (Phật A Di Đà), tin tưởng Ngài như một tấm thân có lòng từ không điều kiện, một trí tuệ toàn tri và một năng lực vô địch, và nếu trong thời gian quá vãng hoặc ở trong trạng thái trung ấm thân, bạn có thể giác ngộ về sự nương vào sự nhớ nghĩ về Ngài và cõi Tịnh Độ của Ngài, rồi thì sự nhận biết sẽ trổi dậy lập tức trong bạn như là sự hiện hữu của Đức Phật Vô Lượng Quang và cảnh giới Cực Lạc.

Nhưng bạn sẽ xây dựng như thế nào về loại tập quán của sự nương tựa nghiêm mật và tin tưởng ấy? Dần dần sẽ hướng về đức Phật, cõi Tịnh Độ và công đức kia nhiều lần như vậy, chẳng bao lâu thì tiếng nói hay lời cầu kinh của những người hộ niệm càng nhiều càng tốt. Vào lần đầu khi thực hành có thể chưa cảm nhận được gì, thế nhưng chẳng bao lâu sẽ trở nên thân thiện và chẳng thể đo lường được khi sẽ trở thành một phần trong mỗi hơi thở và cuộc sống của bạn. Rồi thì sau khi chết, tất cả những sự nhận biết sẽ tỉnh thức với hình ảnh của Đức Phật về tình thương, sự an lạc và trí tuệ cũng như cõi Tịnh Độ là cõi của sự an lạc và hạnh phúc (vấn đề chi tiết của phần thực tập này, xin xem phụ bản A).

Có thể có một vài nghiệp lực được tái sanh về Cực Lạc và bây giờ bạn phải sáng tạo nghiệp ấy như tình yêu, sự độ lượng, sự hiểu biết của những gì là đứng đắn, sự phân ly, sự hoan hỷ và sự tôn kính. Đặc biệt để biểu hiện trong việc phụng sự cho người khác. Nếu như vậy, bạn phải có sự chọn lựa của việc tái sanh của một trong những cảnh giới cao hơn với những tài sản tốt đẹp. Như vậy bạn phải nhớ lại rằng tín hiệu của nơi tái sanh đặc thù và sẽ chọn lựa nó.

Ví dụ như bạn đang thấy tín hiệu của cảnh giới Chư thiên, nhưng được báo hiệu để tái sanh trong cõi người thì bạn phải đóng kín ánh sáng trắng mềm mại lại, cái gì là tín hiệu nơi sanh ở cõi Chư Thiên mà thay vào đó sẽ nhớ lại cũng như chọn lựa ánh sáng màu sáng xanh để đi xa hơn nữa.

Trong khi bạn dựa theo trung ấm thân để di chuyển, bạn chẳng được phép nghĩ về tình yêu của bạn với một người nào đó và sự sở hữu của bạn về nhà cửa bởi vì những sự suy nghĩ này sẽ chỉ khiến bạn hướng đến ngược lại con đường phía bên phải. Bạn phải nhắm tiêu điểm của tâm bạn trên con đường nơi tái sanh mà bạn chọn.

Như chúng ta đã thấy nơi chương 4 cánh cửa đón nhận sự tái sanh của bạn vào một trong sáu đường có thể xuất hiện như là một vệt sáng màu xanh. Vệt sáng màu trắng cho biết là Chư Thiên và cõi người. Ánh sáng màu vàng dừng lại thông thường là cho A Tu La và cảnh giới súc sanh. Thay vào đó cảnh giới súc sanh có thể thay thế để cho biết bằng màu của máu và cảnh giới A Tu La bởi màu bão tuyết hay mưa gió nặng hạt. Màu sáng khói chỉ cho vòng ngạ quỷ và ánh sáng tương tự từng mãng tròn hay màu đen trôi nổi của thú, cho biết đó là cảnh giới của địa ngục. Ngay cả chính tự thân bạn, bạn phải thấy sự thay đổi ánh sáng của màu sắc, sẽ vẽ nên sự sanh của bạn trong tương lai.

Đây là lời dạy về năm con đường để đóng cửa vào, giúp hành giả không lộn trong cánh cửa tái sanh:

1) Nếu bạn đang thấy những ánh sáng, đó chính là dấu hiệu của nơi tái sanh trong tương lai, trường hợp đó bạn có thể thấy một đôi đang làm tình, đặc biệt nếu bạn có khuynh hướng sanh vào cõi người. Đôi này biểu hiện khả năng sẽ làm Cha Mẹ của bạn. Nếu việc ấy xảy ra, hãy đừng đi đến hay khởi niệm tham đắm hoặc ghen tương hướng đến họ. Hãy xem họ như là bậc Đạo sư phối ngẫu của bạn, cụ thể hóa vị đạo sư của bạn trong hình thể đàn ông và đàn bà. Hoặc bạn nên xem họ như là vị Liên Hoa Sanh (Padmasambhava) trong sự kết hợp với phối ngẫu tinh thần ấy. Yeshe Trogyal hay một vài cặp của phối ngẫu Phật. Khởi tâm kính trọng và cúng dường họ. Với sự nương tựa nghiêm mật, sẽ phát triển mạnh cường độ để nhận sự dạy dỗ và gia hộ từ họ.

2) Nếu chẳng thể đóng lại cánh cửa sinh được thì sẽ thấy một cặp vợ chồng như là phối ngẫu thần thánh, ngay cả như đức Phật Vô Lượng Quang (A Di Đà) và Phật Từ Bi (Đức Quán Thế Âm) trong thể thức người đàn ông và người đàn bà. Hãy kính trọng và dâng cúng vật dụng cho họ. Cảm tưởng mạnh rằng bạn sẽ nhận được sự gia hộ của họ.

3) Nếu bạn không thể đóng lại cánh cửa của việc tái sanh, thì ngược lại sẽ phụ thuộc vào sự sân hận. Thông thường, nếu bạn sẽ tái sanh làm đàn ông thì bạn sẽ trải qua kinh nghiệm khởi tâm đến những người đàn bà mà những cặp vợ chồng đang làm tình và sự ganh tị hay sân hận sẽ hướng tới người đàn ông ấy. Nếu bạn chọn đi đầu thai làm người nữ thì bạn sẽ cảm thấy sự khởi tâm hướng đến người đàn ông và sự ganh tị hay sân hận sẽ hướng đến người đàn bà. Cũng thế, khởi đi từ những tập nghiệp trong quá khứ, lúc đó có thể bạn nhìn thấy hai người, nhưng kỳ thực có thể bạn đã bị kéo lôi đến là một con chim trống và con chim mái. Nếu như vậy thì bạn sẽ tái sanh thành con chim con. Như vậy, lúc đó, bạn phải phát nguyện dõng mãnh rằng: “Tôi sẽ không bao giờ cho phép tâm thức tôi tham ái cũng như sân hận”.

4) Nếu chẳng đóng chặt cánh cửa của sự sanh thì với sự tin tưởng mạnh để thấy tất cả những kinh nghiệm rằng bạn không có một thực thể, giống như một huyễn cảnh. Những việc làm này sẽ phân giải sự chấp thủ trong tâm bạn ở kinh nghiệm như là một thực tế và điều kia sẽ đóng chặt về nơi tái sinh.

5) Nếu chẳng thể đóng chặt cánh cửa của sự sanh ra được thì ngay khi thấy mọi vật như là sự hấp thụ ánh sáng. Nghĩ rằng: “những hiện tượng phức tạp ấy là chính tự thân của tâm thức mình, mà tâm thì rỗng không” và rồi thì sự chờ đợi trong trạng thái tự nhiên không bị một biến đổi nào. Hãy để cho tâm thức trong trạng thái thiên nhiên của nó, lột trần giống như nước sẽ chảy trở lại nước và tất cả sẽ trở thành một của sự bất khả phân kia.

Ngài Jigme Lingpa khuyên rằng: “Khi chúng sanh đang ở trong trạng thái của thân trung ấm thấy một cặp vợ chồng đang giao hợp với nhau thì chúng ta sẽ tiến vào họ giống như những con ruồi ở trong thùng rác ấy. Sự đặc thù của chúng sanh đó là nếu người ấy có nghiệp để tái sanh thì sẽ nhập vào trong tử cung với sự chạy theo kia không cách nào tránh khỏi. Ở thời điểm ấy bạn phải mạnh dạn lên để nương tựa vào một vị giác ngộ hay phải xác định ý muốn chọn lựa ở lại trong tử cung. Điều ấy sẽ giúp cho bạn tìm ra được sự tái sanh cao quí ở cõi người.”

Chọn lựa nơi tái sanh đúng đắn

Nếu bạn đã quyết định tái sanh về cõi Cực Lạc thì thông thường bạn phải cảm nhận ngược lại với hướng tái sanh trong sáu nẻo luân hồi. Đừng nhận sự chấp trước vào một người nào đó hay thương yêu hay sự sở hữu của bạn. Hãy mạnh dạn hơn nữa và hãy tự tin vào năng lực của bạn sẽ đến được Cực Lạc, nơi mà bạn đã chọn, giống như cõi Tịnh Độ vậy và bạn nghĩ rằng: “Tôi sẽ sanh ra một cách mầu nhiệm nơi hoa sen ở dưới chân của Đức Phật Vô Lượng Quang (A Di Đà) tại thế giới Cực Lạc.”

Nếu tái sanh về cõi Tịnh Độ chẳng thể được thì bạn phải thấy nơi tái sanh của bạn là một trong sáu nẻo luân hồi ấy. Tuy nhiên bạn phải quan sát đây là sự mục kích về chỗ sanh của bạn, chẳng giống như thực tế, mà thay vào đó trong một tín hiệu thuộc về những hình dạng như sau:

Hài lòng với những ngôi nhà nhiều tầng và được biết rằng đây là dấu hiệu nơi tái sanh ở cảnh giới Chư Thiên.

Một rừng cây chung quanh là lửa hay nước mưa có thể là cảnh giới của A Tu La

Những người nói chuyện với nhau không có mục đích hoặc những ngôi nhà bình thường, đẹp đẽ cũng như vui vẻ là dấu hiệu tốt đẹp để tái sanh làm người.

Hang động, túp lều và sương mù là dấu hiệu của súc sanh.

Bờ sông khô cạn hoặc những nơi chốn đen tối, nhơ nhớp là dấu hiệu của cảnh giới ngạ quỷ.

Những căn nhà màu đỏ hoặc đất màu đen, hay hang tối hoặc con đường mờ mịt là những tín hiệu của địa ngục. (Tuy nhiên một vài tác giả cho rằng những điều này là kết quả của những nghiệp bất thiện có thể dẫn vào cảnh giới địa ngục, mà thân trung ấm khi trải qua kinh nghiệm bằng những hình ảnh hay ánh sáng.)

Khi bạn nhận thấy được những hiện tượng này bạn phải tha thiết nương vào trong một vài nơi này. Bởi vì khi bạn đã chẳng được bảo hộ lâu dài. Bạn phải mong mỏi được yên ổn ở một vài nơi trong ấy, bởi vì bạn cảm thấy kinh ngạc và khó khăn bởi những hiện trường huyễn cảnh hiểm ác của Thần Chết. Tuy nhiên bây giờ là lúc cố gắng để dụng tâm, bởi vì bạn chẳng nên đi về hướng trước bởi một trong những dấu hiệu của cảnh giới thấp hơn. Bạn phải cố gắng chọn lựa cảnh giới của loài người hoặc là cảnh giới của Chư Thiên nếu sanh về cõi Tịnh Độ là điều chẳng thực hiện được.

Rất khó khăn cho bạn để nhận ra nơi tái sanh đúng đắn, bạn sẽ thấy nơi tái sanh hoàn hảo cũng như bất hảo trong mỗi một ấy, hoặc nơi tái sanh không phù hợp lại là phù hợp, bởi vì con người mê hoặc nơi huyễn cảnh biểu hiện bởi cái nghiệp đen tối của chính tự thân của bạn. Nếu thật là như vậy thì điều quan trọng là nên xử dụng những kỹ thuật như sau: nếu bạn đã thực tập Thiền Định ở một vài vị Phật phẫn nộ giống như vị Vajirapanim, vị Phật của sức mạnh, bạn nên quán tưởng một cách đúng hơn cho chính bạn trong thể thức của thần linh. Thân hình của Ngài to lớn, uy nghiêm và sự dũng mãnh. Giọng của Ngài làm kinh ngạc và quả địa cầu rung chuyển. Tâm hồn của Ngài đáng yêu, toàn tri và an lạc. Nếu quán tưởng Ngài Vajrapani thì bạn phải xác chứng việc không sự hiện hữu của tử thần, sự kinh ngạc về việc hiểu biết ngụy tạo rằng điều ấy đã lôi kéo bạn đi xuống. Điều này sẽ cho bạn cơ hội tốt để xử dụng thiên lý nhãn tối thiểu để nhiều chúng sanh có trung ấm thân dễ tìm được phẩm chất thực tế của nơi chốn sẽ tái sanh và chọn lựa đúng một trong những nơi an ổn.

Bạn cũng phải phát triển trong cường độ mạnh rằng: “Tôi sẽ sinh lại trong một gia đình thành thật và những hành giả đức hạnh;Tôi sẽ tái sanh lại làm người, người mà có khả năng để phụng sự cho tất cả chúng sanh”

Ngoài ra trong khi nhập vào tử cung, chú nguyện nó như là cung điện của những vị Thần linh. Hãy nghĩ rằng cung điện này đuợc tràn đầy với những vị Thần linh, giống như Đức Phật Từ Bi và cầu nguyện nơi các Ngài. Rồi thì đi vào tử cung, suy nghĩ rằng bạn đang được gia trì bởi những vị Thần linh ấy. Hoặc thay vào đó, với sự cầu nguyện xem người đàn ông và người đàn bà trong sự kết hợp như là cặp phối ngẫu Thầy tinh thần của bạn.

Nếu một vài dấu hiệu của sự tái sanh xuất hiện nơi bạn, ngay cả nếu được thấy về một nơi tái sanh tốt đẹp, thì nó có tính cách quan trọng để đừng nhập vào trạng thái của tâm thức phụ thuộc về nó. Ngay cả nếu nó thể hiện về nơi sinh bất thiện đi chăng nữa thì đừng vào trong trạng thái của tâm thức giận giữ nó. Hãy vào nơi tái sanh có thể tốt nhất hay tử cung với sự bình tĩnh cao độ tự tại với sự tác động của việc miễn cưỡng hay sự thừa nhận.

Ngoại trừ ra bạn đã có kinh nghiệm về Thiền Định, nhưng đa phần khó khăn sửa đổi trong thói quen thường tình của bạn về sự khác biệt trong việc ra lệnh để thừa nhận một nơi tái sanh như sự mong mỏi, khi mà bạn chính là trung ấm thân. Tuy nhiên bạn có thể cố gắng để thực tập những việc sau đây:

Hãy đừng quên rằng bạn đang ở trong trạng thái của trung ấm thân, trên quá trình chuyển tiếp.

Hãy nhớ giữ bước đi và giữ đầu của bạn ở điểm hướng thượng.

Cầu nguyên liên tục bằng cách niệm danh hiệu Phật và hãy quy y với Ngài.

Hãy quy y Tam Bảo: Phật, Pháp, Tăng.

Cầu nguyện với Đức Phật Từ Bi giống như Đức Phật Vô Lượng Quang (Đức Phật A Di Đà) và chính vị Thầy tinh thần của bạn.

Hãy buông xả những chấp thủ đối với những người bạn yêu và sự sở hữu bởi vì họ sẽ dẫn dắt bạn đi sai con đường bạn muốn.

Hãy đi vào con đường của ánh sáng xanh cho cõi người hoặc ánh sáng trắng của cõi giới Chư Thiên.

Nếu bạn có thể đúng với một ít về sự giải thoát hay hy vọng để sanh vào cảnh giới người hay cảnh giới Chư Thiên thì bạn sẽ được trợ giúp một cách nhiệt tình bởi những người thân (hay người cầu nguyện) trong khi bạn chết hay sau cái chết của bạn. Họ có thể tiếp tục lặp lại những việc hướng dẫn cho bạn. Có nhiều người trợ tử thực tập giúp bạn nhớ lại, điều này có thể dễ dàng hơn cho bạn tự nhớ những việc kia, khi bạn đã thọ trung ấm thân. Ngay cả sau khi bạn đã chết, thần thức của bạn còn hiện hữu với thế giới của sự sống ngay trong khoảnh khắc ấy. Bởi vậy sự hướng dẫn yêu cầu bạn bởi những người đang trợ tử vẫn đến với bạn và làm lợi ích cho bạn. Chúng ta phải cố gắng thử những phương pháp tốt nhất để chúng ta có thể suy nghĩ và những việc làm đúng đắn nơi trung ấm thân.

Trong quyển sách này tôi đã gây sự chú ý đặc biệt về việc tái sanh ở thế giới Thanh Tịnh và an lạc sau khi lâm chung. Đối với một người Phật tử điều kia có nghĩa là thế giới Cực Lạc của Đức Phật Vô Lượng Quang (Đức Phật A Di Đà) (thế nhưng cũng có thể chọn lựa một vài vị Phật khác ở cõi Tịnh Độ). Bây giờ chúng ta sang chương thứ 7 để khảo sát về Đức Phật này và cảnh giới Cực Lạc của Ngài như là một năng lực gia trì đối tượng của sự chờ đợi và quay về, và cũng là một nơi mà chúng ta được phép mong đợi để sinh về đó. Khi nhớ nghĩ và cầu nguyện với Đức Phật Vô Lượng Quang cũng như tạo những phước đức, chúng ta có thể được tái sanh về cõi Cực Lạc, một cõi giới của sự an lạc lớn và hoan hỷ, nó sẽ giúp cho sự hồi tưởng sự mô tả về Ngài và cảnh Tịnh Độ của Ngài như trong kinh điển mà Đức Phật lịch sử Thích Ca Mâu Ni đã nói đến.

CHẾT AN LẠC TÁI SINH HOAN HỶ
Nguyên tác Anh ngữ: Peaceful Death, Joyful Rebirth
của đại sư học giả Tulku Thondup
Việt dịch: HT. Thích Như Điển & TT. Thích Nguyên Tạng
Chùa Viên Giác Hannover, Đức Quốc
Tu Viện Quảng Đức, Melbourne, Úc Châu ấn hành 2011

Chương 07

Đức Phật Vô Lượng Quang và cõi Cực Lạc

Một niềm tin tuyệt đối vào đức Phật Vô Lượng Quang
Chắc chắn tái sanh về Cõi Cực Lạc.
Một tâm thức giác ngộ với phẩm chất Phật Đà.
Bất cứ nơi đâu cũng chiêu cảm Tịnh Độ.

Vũ trụ quan Phật Giáo chỉ rõ một số lượng to lớn không thể nghĩ bàn hệ thống thế giới ngoài quả đất của chúng ta. Thế giới vũ trụ bên ngoài đó, ngoài cả sáu vòng luân hồi, nơi mà tồn tại nhiều cõi Tịnh độ không tính hết được, kéo dài trong mười phương của vũ trụ (gồm tám hướng chung quanh, bên trên và bên dưới). Những cảnh giới trong sạch này là những nơi chốn cư ngụ của những chúng sanh tình thức tiến bộ, kể cả những đức Phật của những cõi Trời và những vị đại Bồ Tát.

Trong vô số cõi Tịnh độ, phần nhiều là đặc biệt quan trọng bao gồm những cõi Tịnh Độ của những vị như Vairochana (Tỳ Lô Giá Na) Vjrasattva (Kim Cương Tát Đỏa), Tara (Bạch Y Quán Thế Âm) Avalokiteshvara (Quán Thế Âm Bồ Tát), Maitreya (Di Lặc) và Guru Padmasambhava (đạo sư Liên Hoa Sanh). Thế giới Cực Lạc là cõi Tịnh Độ được biết đến nhiều nhất, nằm về hướng Tây, ở ngoài rất nhiều vũ trụ khác. Thế giới lý tưởng đó là nơi trụ xứ của đức Phật Vô Lượng Quang (A Di Đà); Ngài giáo hóa vô số người tìm cầu đến để giác ngộ, gồm nhiều hành giả và những đệ tử khác. Bởi vì ánh quang minh của toàn thân Ngài đầy khắp tất cả các cõi Tịnh độ Phật chẳng có gì ngăn ngại; tên của Ngài tiếng Sanskrit gọi là Amitabha. Nghĩa là Vô Lượng Quang.

Đức Phật A Di Đà là trung tâm điểm của nhiều truyền thống tin tưởng vào cõi Tịnh Độ của Phật giáo như các dân tộc Trung Hoa, Đại Hàn, Nhật Bản và Việt Nam. Ở Tây Tạng, cõi Cực Lạc là đối tượng để mong mỏi cầu nguyện, quán chiếu và Thiền định, đặc biêt. Trong nghi lễ cho người chết. Trong nhiều kinh điển, đức Phật lịch sử Thích Ca Mâu Ni xác nhận một cách chắc thật rằng: đây là một cõi Tịnh Độ dễ dàng nhất để được tái sanh về đó, có nhiều niềm hỷ lạc và là nơi có nhiều năng lực hướng dẫn đến sự giác ngộ. Ai đã sanh về thế giới Cực Lạc rồi thì sẽ được hoàn toàn giác ngộ, trong một đời sống sau cùng. Bởi vì chất lượng của cõi Tịnh Độ được gia trì bởi đức Phật Vô Lượng Quang (A Di Đà) cũng như phước đức của những người được sanh về đó.

Khởi nguyên của truyền thống Tịnh Độ

Đa phần những kinh điển của Phật giáo là những nguồn gốc căn bản của những truyền thống về cõi Phật Tịnh Độ. Cả kinh (cộng với những lời giáo huấn) và Thần chú (giáo lý Kim Cang Thừa) bao gồm cả danh hiệu cũng như có nhiều kinh ghi lại về Tịnh Độ; nhưng đức Phật Thích Ca đã chỉ cho chúng ta chú ý nhiều hơn để mô tả về cõi Cực Lạc của đức Phật A Di Đà trong sự sống động và những chi tiết tuyệt vời.

Hai kinh đại thừa quan trọng có tính cách đặc thù được biết đến như là kinh Đại bản A Di Đà và kinh Tiểu bản A Di Đà. Những lời dạy này được nói bởi đức Phật ở những nơi sau: Ngài dạy kinh Đại bản A Di Đà tại đỉnh Gridhakuta (Linh Thứu) gần thành Rajagriha (Vương Xá) (ngày nay Rajgir thuộc tiểu bang Bihar, Bắc Ấn Độ ) cho Ngài Ananda (A Nan) và Ngài Ajita (A Thuyết Thi) cũng như số đông tập họp thuộc những người đệ tử khác. Ngài dạy kinh Tiểu Bản A Di Đà tại Jeta Grove (Cấp Cô Độc Viên) (Ngày nay thuộc nước Xá Vệ, tiểu bang Uttar Pradesh, Ấn Độ) cho Ngài Xá Lợi Phất và số đông đệ tử của Ngài.

Hai kinh này xuất hiện trong nhiều bản dịch kể cả tiếng Trung Hoa (kể từ thế kỷ thứ 3 sau Thiên chúa) Đại Hàn và Nhật Bản (kể từ thế kỷ thứ 7), riêng Việt Nam bản chữ Hán xuất hiện có lẽ vào thế kỷ thứ 4; đại dịch giả Tây Tạng vào thế kỷ thứ 9.

Chương này lấy phần căn bản chính của bản dịch tiếng Tây Tạng, đồng thời cũng có một vài tài liệu cũng như những bình luận khác nữa.

Ba nét riêng biệt về cõi Tịnh độ

Như chúng ta đã rõ là đức Phật Vô Lượng Thọ (A Di Đà) và cõi giới Cực Lạc của Ngài như đã thuật lại trong quyển sách này thuộc về ứng thân của một trong ba nét đặc thù hoặc là thân thể của Phật quả.

Đầu tiên là thân tối hậu (pháp thân): nó không có hình tướng, toàn là Phật quả tự nhiên, được nhìn nhận với tính chất thực tế của chính nó. Đây là thuộc về trạng thái tuyệt đối của sự quảng đại và rỗng không, tự tại khắp nơi, đặc thù và cực hạn.

Thứ hai là báo thân: nó ở trạng thái không phải nhị nguyên và đồng nhất tánh. Đây là cõi Tịnh Độ với hình thức của thân thể, trong sáng và không thể phân ly với chính trí tuệ của Phật. Nó rộng rãi, vĩnh viễn, chẳng hề thay đổi và niềm an lạc vô hạn.

Cõi Tịnh Độ tối hậu và cõi Tịnh Độ an lạc có thể chỉ gặp bởi những ai đã giác ngộ.

Nét riêng biệt thứ ba của Phật quả là ứng thân: Đây là một hình thức vật lý như ở đức Thích Ca Mâu Ni và những vị Phật khác có hóa thân ở trong cõi người của chúng ta. Cõi Tịnh Độ của ứng (hóa) thân là hình thể tương đối, mà có thể nhận ra bởi những chúng sanh bình thường hay có tính cách thế tục giống như chúng ta, nếu chúng ta chứa nhóm những hành vi phước đức. Nếu chúng ta được sanh vào một trong những sự hoan hỷ, hòa bình ở cõi hóa thân Tịnh Độ thì chúng ta sẽ tiến lên để đạt được trí huệ của chúng ta và sẽ đến tận cõi Tịnh Độ tuyệt đối.

Như tôi đã nhấn mạnh nhiều lần về sự nhận biết và kinh nghiệm chúng ta đã có khác nhau trong giai đoạn của cuộc sống, đặc biệt vào thời điểm lâm chung, là kết quả của sự hiểu biết thuộc thói quen mà chúng ta đã phát sinh và được cắm rễ sâu vào trong giòng chảy tâm thức của chúng ta trong quá khứ. Nếu tâm thức của bạn đã được đốt cháy và quay vào nung đốt những nguyên nhân của sự giận dữ, sân hận và sự nhận biết chẳng lành, rồi thì những sự xuất hiện và kinh nghiệm của cuộc sống cũng như đặc biệt về đời sống tương lai của chúng ta sẽ khơi dậy trong chúng ta về thế giới của địa ngục. Nếu tâm thức của chúng ta được gieo trồng bởi sự hòa bình, an lạc và mang tư tưởng cũng như những hành động tốt và nếu chúng ta đã vui với sự nhận biết thiện, giống như hình thức và sự cảm nhận về thế giới Cực Lạc, rồi thế giới ấy sẽ khơi dậy nơi chốn mà chúng ta sẽ tái sanh, có thể là ở thế giới tốt đẹp của sự hòa bình và an lạc, giống như cõi Cực Lạc vậy.

Tiêu điểm chính của sự luyện tập được tường thuật trong quyển sách này là sự tái sanh ở hình thức hóa thân của cõi Cực Lạc. Rất dễ dàng để sanh về đó hơn là một vài cõi Tịnh Độ khác, bởi do lời thệ nguyện sâu rộng của đức Phật Vô Lượng Quang (A Di Đà) mang đến cho tất cả chúng sanh trong cảnh giới Cực Lạc của Ngài và giúp cho họ đạt thành sự giác ngộ.

Năng lực lời nguyện của đức Phật

Trong kinh đại bản Di Đà kể về sự tích và cảnh giới Cực Lạc như thế nào? Vào một thuở xa xưa có một vị Tỳ kheo tên là Dharmakara (Pháp Tạng), Ngài đã được thọ ký để trở thành đức Phật A Di Đà – Phát Bồ Đề tâm và lập lời thệ nguyện trước vị Thầy của Ngài. Đó là Phật Lokeshvara (Thế Tự Tại) mà Ngài sẽ phụng sự cho tất cả chúng sanh. Ở vào thời gian ấy Ngài Pháp Tạng đã có năm mươi mốt lời nguyện hứa dẫn dắt những chúng sanh sanh về cõi Tịnh Độ mới của Ngài[1] Dưới đây là năm lời nguyện cho chúng ta một ý niệm về lời thệ nguyện tự nhiên ấy cũng như cõi Tịnh Độ của Ngài.

Ở lời nguyện đầu tiên, Ngài Pháp Tạng nguyện không thành quả vị Phật nếu một vài chúng sanh sanh vào nước của Ngài mà vẫn còn đau khổ bởi đường A Tu La, súc sanh, ngạ quỷ hay cảnh giới địa ngục. Như vậy để thí dụ ngay từ khi một chúng sanh trong địa ngục sanh về thế giới Cực Lạc, thì tất cả sự khổ đau của chúng sanh ở địa ngục ấy sẽ dừng lại và người ấy sẽ trở thành chúng sanh hạnh phúc của cõi Tịnh độ (xin nhắc lại rằng sự khác biệt giữa chúng sanh ở cõi thấp và chúng sanh ở cõi Tịnh Độ họ sẽ thấy và cảm thấy như thế nào về đối tượng của sự hiểu biết được khơi dậy bởi tâm thức)

Ở lời nguyện thứ hai của Ngài, Ngài phát nguyện rằng sẽ không thành Phật cho đến khi nào mà tất cả những chúng sanh sanh về cõi Tịnh Độ của Ngài thì sẽ đặc biệt hơn những nơi khác ở cõi người và Chư Thiên. Ngài muốn rằng cõi Tịnh Độ của Ngài hoàn toàn trong sạch, nhưng cũng có những chất lượng tương tự tốt đẹp như ở cõi người và cõi Chư Thiên.

Ở lời nguyện thứ mười chín của Ngài, Ngài phát nguyện rằng sẽ không thành Phật quả cho đến khi nào tất cả những ai mong mỏi được tái sanh vào cõi Tịnh Độ của Ngài và ai thực hành niệm danh hiệu của Ngài cũng như hồi hướng công đức cho việc vãng sanh, trên thực tế sẽ được sanh về cõi Tịnh Độ. Cầu nguyện cho điều này ngay cả nếu người ấy lập lại sự suy nghĩ sanh về thế giới Tịnh Độ của ta chỉ trong mười lần, mà người ấy chẳng hề phạm “năm tội vô gián hay bất tín nơi Phật pháp”. Những điều kiện này chẳng chọn lựa được ở đức Phật; nếu những chúng sanh ấy không mở ra cánh cửa tự giải thoát, thì đức Phật cũng không thể ra lệnh vớt họ lên được.

Ở lời nguyện thứ ba mươi, Ngài phát nguyện rằng sẽ chẳng ở ngôi chánh giác cho đến khi nào những chúng sanh của cõi Tịnh độ trong tương lai chẳng những được khỏi cảnh khổ mà còn có tài sản với phẩm lượng tinh thần như là trí tuệ không giới hạn và lòng tự tin.

Những lời nguyện của đức A Di Đà được thể hiện thật là mạnh mẽ. Thế nhưng chỉ riêng những lời nguyện không thể hứa cho chúng ta sanh về cõi Tịnh độ này. Chúng ta phải thực hiện bổn phận của chúng ta, chúng ta phải chắc rằng đừng đóng kín những cơ hội, do sự phạm tội ngũ trọng tội hay chẳng tin nơi giáo pháp và chúng ta phải mở ra con đường để đi đến cõi Tịnh độ với ‘bốn nguyên nhân’ của sự sanh về thế giới Cực Lạc này (xin xem thêm ở phần phụ lục A.)

Năng lực của danh hiệu Phật

Đức Phật A Di Đà đã lập lời thệ nguyện sẽ dẫn dắt tất cả những ai niệm danh hiệu của Ngài để cầu về Tịnh Độ. Tên của Ngài trở thành cánh cửa xuyên suốt mà chúng ta có thể quan sát được đức Phật Vô Lượng Quang và cõi Cực Lạc của Ngài.

Phật giáo Đại Thừa dạy cho chúng ta thể đắc được mọi vật như là hình tướng, âm thanh và những kinh nghiệm của sự giác ngộ. Tuy nhiên để đến được mục tiêu này chúng ta cần phải đi vào ngang qua cánh cửa quan yếu ấy như thế nào là hình ảnh của một vị Phật, sự cảm giác hòa bình hay âm thanh với tính chất tốt đẹp. Một cánh cửa như vậy chính là hồng danh A Di Đà; điều mà chính Ngài đã gia hộ để giúp chúng ta đến được với Ngài và có thể từ Ngài sẽ đến với chúng ta.

Hồng danh của đức A Di Đà là sự hiện hữu trong từng mỗi phút giây như trí tuệ, lòng từ bi và năng lực. Trong từng khoảnh khắc chúng ta sẽ trở thành ý niệm về danh hiệu Ngài, Ngài lúc nào cũng ở trong ta và đang ở với ta. Như vậy nếu chúng ta tập trung tư tưởng vào cũng như nối kết danh hiệu của Ngài ở một điểm và với sự hết lòng tin tưởng, chúng ta bắt đầu cảm nhận trong biển giác ngộ có chất lượng ấy. Sự quy y và sự tin tưởng ở đức Phật sẽ như một bông hoa đang nở tự nhiên. Chẳng bao lâu chúng ta sẽ không tìm được nơi nào để chứa sự hiểu biết bất thiện và sự cảm nhận giống như sự phiền não dục vọng, si mê và sự chấp trước.

Giống như chúng ta sẽ trở thành một cái lò chứa đầy năng lực của chư Phật. Chúng ta sẽ phụng sự cho người khác có tính cách tự phát. Bất cứ điều gì mà chúng ta thấy, nghe cũng như cảm nhận sẽ trổi dậy trong sự hiện hữu ấy. Sự tái sanh về cảnh giới Cực Lạc kia như là một bước tiếp theo tự nhiên. Rồi thì sự đạt thành Phật quả là mục đích cuối cùng, nơi mà trí tuệ đến được.

Nếu sự gia hộ trở thành tư tưởng và hơi thở của chúng ta cũng như sự quy kính và những lễ nghi thì ngay cả trong khi chúng ta nhận biết được những hình ảnh thông thường, tâm thức, hay cảm giác – ngay cả khi chúng ta sống, chết như thế nào hoặc ở trong thân trung ấm – chúng ta sẽ luôn luôn được tiếp cận với đức Phật xuyên qua danh hiệu cuả Ngài.

Đây là một năng lực đặc thù mà bạn có thể gọi tên hay niệm tên Ngài khi cầu nguyện bằng ngôn ngữ nguyên thủy bằng tiếng Sanskrit hoặc trong một ngôn ngữ nào mà đã được gia trì bởi nhiều bậc giác ngộ, như tiếng Sanskrit và Tây Tạng. Nhưng nếu sự cầu nguyện bằng chính ngôn ngữ của bạn thì rất là linh ứng cho bạn. Nên xử dụng ngôn ngữ của bạn, bởi vì việc quan trọng là mở cửa tâm hồn với sự quy kính Ngài cũng như phát triển sự tin cậy vào Ngài.

Chúng ta nên niệm hồng danh gia hộ của đức Phật Vô Lượng Quang càng nhiều càng tốt. Ở bản phụ lục A có hướng dẫn về cách xưng danh hiệu Ngài như thế nào.

Cõi Tịnh độ như thế nào?

Hóa thân của thế giới Cực Lạc được thể hiện ra trong nhiều cách giống như so với những tính cách cao nhất của loài người và cảnh giới Chư Thiên. Như vậy thì có thể so sánh rằng những chúng sanh sanh về nơi kia sẽ giống những hình dáng của những chúng sanh loài người và Chư Thiên ở đó?

Tuy rằng cõi Tịnh Độ hóa thân thể hiện như là một đối tượng của khái niệm nhị nguyên cùng với sự cảm nhận. Nó thực sự nở ra với sự mở cửa và những năng lượng tốt đẹp. Đây là một cảnh giới của Chư Thiên, tọa lạc nơi bầu trời ở trên hư không (không phải nằm trong biển hay trên quả đất) và chứa đầy những vật thể quý giá. Nhiệm vụ của thế giới kia với một vị Thánh và chia ra từng bực giữa các vị Thầy và đệ tử của Ngài. Tất cả chúng sanh ấy đã sanh vào được cõi Tịnh độ này đều là đệ tử và trong số những đệ tử này lại có các vị Bồ Tát, họ phụng sự cho kẻ khác như là một vị Thầy.

Cõi Cực Lạc thế giới giống như cảnh giới của con người và Chư Thiên được cấu trúc theo lối lập thể, riêng biệt của kích thước và khoảng cách cũng như trong vùng thời gian tương đối. Tuy nhiên không phải là sự khổ đau của con người như sự khổ về sanh, già, bịnh và chết. Lại cũng chẳng có cái khổ của Chư Thiên, để phải chết và rơi vào lại cảnh giới thấp hơn. Để giải thích tại sao được gọi là Cực Lạc, đức Bổn Sư Thích Ca nói rằng: “Ở nơi cảnh giới Cực Lạc ấy thân tướng chúng sanh không có khổ đau. Nơi ấy cũng không có cái khổ về tinh thần. Nơi đó cũng không thể tính đếm được nguyên do của hạnh phúc. Do vậy tại sao gọi nơi này là cảnh giới Cực Lạc’’.

Đất đai ở cõi Cực Lạc thì mềm mại và bằng phẳng giống như những bàn tay của trẻ thơ. Không có giới hạn, tươi trẻ, mát mẻ nhu nhuyến và rất dễ chịu khi sờ vào, không có gai sỏi đá hay đồi dốc. Cõi ấy thanh tịnh, an bình, vui vẻ và không ô nhiễm. Nó được cấu tạo bởi bảy chất báu (vàng, bạc, lưu ly, pha lê, trân châu, xa cừ, mã não) và được trang sức bởi những chất bằng vàng ở các lối đi thật trang nghiêm, vĩ đại, lồng lộng, bất nhiễm và chẳng khô héo. Cõi ấy được chiếu sáng bởi những màu sắc và những tia ánh sáng. Trong cõi giới thanh tịnh này có vô số vị Phật Tịnh Độ khác hiện ra giống như sự tương phản lại trên mặt những tấm kính sáng rỡ. Chúng sanh ở đó có thể nhìn thấy sự tương phản của các cõi Tịnh độ giống như là bạn đang xem một lục địa khác trên truyền hình ở trong phòng của bạn.

Cõi Tịnh độ này không có bóng tối hay những núi non thường tình, nhưng lại được trang sức với nhiều loại núi non bằng phẳng của những loại đá quý trên đỉnh và dưới chân núi. Đó đây ở những ngọn núi ấy được trang sức bởi sự chất chồng những ngọc thạch quý giá, những loại ngọc ngà và những hang động bằng cẩm thạch hiếm có cũng như những căn nhà được làm bằng những cây nho tuyệt đẹp.

Những hàng cây tuyệt diệu ấy nhiều màu sắc và được trang trí làm phong cảnh. Nơi đó có loại cây được tạo nên bởi một, hai hay ba loại vật thể quý hiếm. Nhiều loại cây khác được tạo nên bởi bảy loại đá quý như: rễ cây bằng vàng ròng, những thân cây bằng bạc, nhành cây bằng lưu ly pha lê, lá cây màu hổ phách, cánh hoa màu hồng ngọc, bông hoa màu trân châu và trái cây màu ngọc thạch. Những cây này mềm mại và dịu dàng khi va chạm đến, mùi hương ngọt ngào tỏa rộng đến mọi nơi. Âm thanh trong trẻo được chuyển đi khi bị gió lay động.

Cõi Tịnh độ được trang sức bởi những hàng rào chắn chung quanh và ở bên trên có ao, nước chảy, sông suối; nơi đó nhiều chúng sanh chơi đùa trong sự an lạc thoải mái. Những bậc thềm thoai thoải được làm bằng những loại đá quý báu dẫn bạn đến nơi khe suối đang chảy và hồ kia chứa đầy nước công đức. Mặt đất được tạo nên bởi những ngọc thạch quý hiếm được phủ lên đó một lớp cát vàng. Ao ấy cũng đầy nước với đầy đủ tám công đức đó là: trong sạch, mát mẻ, sáng sủa, hảo hạng, mềm mại, trong suốt, khoẻ khoắn cho cuống cổ, lành mạnh cho bao tử. Những hoa sen ở cõi này chiếu sáng, hương thơm bay khắp bầu trời cũng như trên mặt nước. Nhiệt độ của nước ấy thay đổi tùy theo ước muốn của bạn. Nước sông chảy với hàng trăm hàng ngàn những hình ảnh âm thanh mà âm nhạc của cõi Trời chẳng thể so sánh được. Bờ hồ và những dòng sông ấy đầy dãy những hương thơm lan tỏa bao phủ. Những con sông chấn động mạnh và những tiếng nói pháp vang lừng ở nơi bạn cư ngụ.

Những con chim ở đây được biến hóa bởi đức Phật ở cõi Tịnh Độ. Giống như núi sông và hình dáng của nước này cùng với những con chim ấy đều là do sự biến hóa của đức Phật, chúng cũng chính Ngài. Hơn thế nữa. Chúng là nguồn gốc của sự hòa bình, an lạc, trí tuệ và giác ngộ; chẳng phải là nguyên nhân của sự hổn tạp, chấp thủ, tham lam hay sân hận. Giống như con người ở cõi giới bình thường thì thường nghe chim hót và ở cõi Tịnh Độ bạn sẽ được nghe chim hót với tiếng của Pháp âm. Tuy nhiên nếu bạn thích sự yên tĩnh thì những gì mà bạn muốn nghe sẽ chỉ đơn thuần là âm thanh của sự yên tĩnh.

Tất cả những bông hoa đều được tạo nên bởi những vật thể giá trị trong những màu sắc khác thường. Chúng thường lớn bằng một nửa, một hoặc mười do tuần (1 do tuần bằng 4.000 tầm). Từ những hoa ấy phóng ra vô số ánh sáng màu vàng. Trong mỗi tia sáng ấy có vô số hóa Phật hiện ra. Sự xuất hiện của chư Phật đầy dẫy ở khắp các thế giới chẳng thể đếm hết được, tuyên nói tán dương những lời dạy đến với tất cả chúng sanh, cho những ai sẵn sàng để đón nhận những lời dạy ấy.

Những đệ tử ở cõi Tịnh độ không chú trọng những loại thực phẩm đầy dẫy ở đó. Tuy nhiên nếu họ cần, một vài đồ thượng thặng sẽ hiện ra trước họ như họ mong muốn và mời họ nếu cần thì có thể dùng đến. Đồng thời bất cứ cái gì họ muốn như: hương thơm, nước hoa, đồ xoa mình, cờ xí, dụng cụ âm nhạc, y phục hoặc đồ trang sức sẽ hiện ra trước họ giống như họ mong cầu. Thế nhưng những vật này sẽ chẳng hiện ra cho những ai mà không nghĩ đến chúng.

Với những vị này ai muốn có nhà ở thì ở đây sẽ hiện ra lầu các với nhà nhiều tầng được làm bởi những vật liệu quý giá, đầy đủ những chỗ ngồi giá trị, giường nằm với đồ trang sức của cõi Trời, đồng thời có những đồ trang sức thật là tuyệt vời. Cứ mỗi lầu các như vậy được chứa đầy cả hàng ngàn chúng sanh thượng thặng không dứt tiếng ca hát và vui với sự cung ứng ấy. Những chúng đệ tử ấy đi dạo xuyên qua các cõi trời khác cùng với những ngôi nhà phi phàm như thế, với vườn tược, rừng cây, sông ngòi và những ao nước.

Vào mỗi buổi sáng, trưa, chiều, chạng vạng, nửa khuya, gió thoảng từ bốn hướng thổi đến tận mọi người. Chúng mang đến những cơn mưa hoa từ những cây và được phủ lên trên đất với những hoa đang nở và mềm mại như lụa là. Nếu bạn sờ vào chúng thì có hương thơm nhẹ bay ra, bạn sẽ cảm nhận sự an lạc giống như bạn ở trong trạng thái Thiền định. Chẳng bao lâu thì tất cả những hoa cũ ấy nằm trên mặt đất và sẽ biến đi, hoa mới thay thế vào đó và trở lại tươi mát như cũ.

Rồi thì hương thơm khắp nơi bay đến bao trùm những hoa quý báu ấy như trang sức thêm, cộng vào đó là những điệu nhạc cùng sự nhảy múa bởi những chúng sanh cao quý ấy.

Ở nơi cõi Tịnh độ có tất cả mọi hình thức, âm thanh và những cảm giác về hình ảnh; âm thanh ấy là những sự thể hiện kinh nghiệm của giáo pháp. Điều này không có nghĩa là những hình thức ấy trở thành hình ảnh của chư Phật hay âm thanh ấy trở thành ngôn ngữ của những kinh điển Phật Giáo. Tuy vậy trên tất cả đều là căn nguyên hay sự hiện hữu của sự hòa bình, an lạc và giác ngộ.

Trục chính của cõi Tịnh độ là cây giác ngộ. Cây này cao 600.000 Do Tuần. được bao phủ với cành lá sum sê, hoa, trái và được trang trí bởi những chất liệu quý giá cũng như những tràng phan hoa bằng vàng. Khi chúng bị lay động bởi gió thì chúng phát ra những âm thanh của tiếng ca hát bay đến cả nhiều thế giới khác nữa. Tất cả những ai nghe được, thấy được hay ngửi được cây giác ngộ này hoặc ai nếm được mùi vị của trái cây, rờ vào ánh sáng hay suy nghĩ về sự hiểu biết thì sẽ được miễn trừ những khái niệm trôi nổi và những sự cảm nhận khổ đau nữa.

Kích thước và hình thức của cây giác ngộ được ghi lại ở đây một cách phù hợp cho con đường của những người bình thường phải gặp nó, thế nhưng trên thực tế không thể suy nghĩ được. Ở dưới chân của cây này có những hoa sen thật lớn. Đây chính là tòa ngồi của đức Phật Vô Lượng Quang (A Di Đà), từ đây Ngài dạy dỗ và giải thoát cho tất cả.

Đức Phật Vô Lượng Quang (A Di Đà) và những vị đệ tử của Ngài như là vị vua của núi rừng phủ trùm lên tất cả những đồi núi, đức Phật A Di Đà vượt qua tất cả những vị vua chúa trong hiện tại. Thân thể của Ngài trong suốt và không nhiễm ô, được trang trí với ba mươi hai tướng tốt cùng tám mươi vẻ đẹp tuyệt vời của bậc đại nhân. Thân thể của Ngài trong suốt và không giới hạn, cao lớn như bầu trời. được chiếu sáng với ánh sáng không thể nghĩ bàn được, chiếu sáng đến nhiều cõi Tịnh độ khác trong mười phương. Ánh sáng của Ngài là những đức hạnh, sự thể đắc và trí tuệ. Sự tỏa ngời ánh sáng này đẹp đẽ và tròn đầy giống như ánh sáng của pha lê, chiếu toàn thân thể và tâm hồn của bất cứ ai mà va chạm đến ánh sáng ấy thì sẽ được trí tuệ và nhiều niềm an lạc. Như thế đó, Ngài được biết đến là vị Phật Vô Lượng Quang. Bởi vì thọ mạng của Ngài không thể suy lường được, Ngài cũng được biết như là vị Phật Vô Lượng Thọ (A Di Đà – Amithayus).

Lời giáo huấn của Ngài mang đến khắp nơi những âm thanh bất tuyệt của giáo pháp. Tâm thức giác ngộ của Ngài là biển cả bao la, sâu thẳm an bình và trí tuệ. Ngài hiểu rõ tất cả những chủ tể xuyên qua trí tuệ toàn tri của Ngài không có giới hạn. Tâm nguyện của Ngài chứa đầy tình thương và lòng từ bi cho tất cả những ai đau khổ, giống như một người Mẹ chỉ lo cho đứa con duy nhất của mình. Với sự tự tin to lớn Ngài vô cùng hoan hỷ với mọi tâm thức của chúng sanh, và những sự thành tựu mà họ cần đến với sự lưu xuất liên tục của những thức ăn của Chư Thiên không bao giờ hết, giống như những lời giáo huấn của Ngài. Với nhiệt tình hồi hướng, Ngài đã chia sẻ với mọi người những chất cam lồ ấy, giống như sự đạt được tuyệt đối những điều mà Ngài đã thệ nguyện. Như là một vị chủ chăn cừu, Ngài dạo đi chậm chạp nhưng rất vững chắc, hướng dẫn sự nhóm họp của các đệ tử nhiều như biển cả mênh mông.

Nơi cõi Tịnh độ của Ngài, đức Phật Vô Lượng Quang là chủ nhơn của vô số đệ tử không thể tưởng tượng hết được. Họ là những người thân đến tham cầu sự giác ngộ cho chính mình và sự giác ngộ cho kẻ khác nữa. Trong những vị Bồ Tát có 8 vị Bồ tát quan trọng như: Avalokiteshvara (Quán Thế Ấm), Mahasthamapata (Đại Thế Chí), Manjushri (Văn Thù Sư Lợi), Kshitigarbha (Địa Tạng) Sarvanivaranaviskambini, Akashagarbha (Hư Không Tạng), Maitreya (Di Lặc) và Ngài Samantabhadra (Phổ Hiền) Những vị Bồ Tát nầy sở hữu gấp năm lần sự hiểu biết phi thường như sau đây:

1) Các Ngài sở hữu những việc bất khả tư nghì như dạo chơi trong khoảnh khắc mà có thể xuyên qua được nhiều thế giới để đến dạy cho những chúng sanh khác tại đó. Cứ mỗi sớm mai những vị đệ tử này du hành qua nhiều cõi Tịnh độ để gặp gỡ và đảnh lễ các đức Phật ở tại đó và nghe những vị Phật này thuyết pháp, trước khi trở về lại thế giới Cực Lạc.

2) Các Ngài có khả năng nhớ lại những sự kiện từ những kiếp trong quá khứ để dùng cho mục đích là tu học và giáo hóa.

3) Những cặp mắt thần của các Ngài là những cái nhìn hiền minh về vô tận thế giới để đoái hoài đến những chúng sanh bị nhiễm ô, được các vị Bồ Tát phụng sự.

4) Những lỗ tai thần của các Ngài có thể nghe được lời dạy của vô số những vị Phật giống như những chúng sanh đang cầu nguyện.

5) Các Ngài được biết đến những trạng thái thuộc về những chúng sanh trong vô số cõi nước và thuận theo giúp đỡ họ.

Qua những năng lực bất khả tư nghì này những vị Bồ Tát ấy dụng ý vui vẻ và hữu ích cho vô số chúng sanh ở trong nhiều thế giới khác nhau.

Không phải tất cả chúng sanh được sanh về cõi Cực Lạc đều đủ những năng lực như những vị này. Bởi vì họ đã có sự nghi hoặc về việc tái sanh ở thế giới Tịnh Độ; hoặc thiếu sự tin tưởng về năng lực của đức Phật Vô Lượng Quang và lời thệ nguyện của Ngài.

Những chúng sanh khác khi sanh về cõi Tịnh độ này có thể còn sanh lại vào lòng của hoa sen trong năm trăm năm nữa và chẳng thể gặp được Phật suốt cả trong thời gian ấy. Họ sẽ an ổn và hạnh phúc ở trong những bông hoa bất khả tư nghì ấy. Thế nhưng vì họ là những người còn nghi ngờ, phức tạp, cho nên những cánh hoa ấy đóng lại sau khi tái sanh và họ chưa thấy được cảnh giới Tịnh Độ cũng như đức Phật.

Không phải tất cả những vị đệ tử ở cõi Tịnh Độ đều là những vị Bồ Tát Thập Địa hay cao hơn nữa. Nhưng cho tất cả những đệ tử nào muốn kiếp sống sau cùng của họ sẽ đạt được Phật quả, và cho tất cả mọi người ở đây sẽ được giác ngộ. Ngoại trừ họ chọn mục tiêu khác và nhờ năng lực lời nguyện của đức Phật.

Không có những chúng sanh nào tại đó là những người hướng dẫn cho gia tộc về con đường của cuộc sống với người phối ngẫu và gia đình bởi vì tất cả đều tự do từ những sự phụ thuộc để cho đối tượng của nhục thể. Ở đây chẳng có một người nào rời khỏi từ chánh niệm, sự cảm kích và sự huấn luyện vật thể con đường của cuộc sống là sự hoàn hảo nơi Tịnh Độ. Những chúng sanh ở cõi Cực Lạc là những người trí thức, có tình thức và tính cách vật lý được tinh luyện nhiều hơn những chúng sanh ở những cảnh giới có tính cách thế tục. Họ vượt qua khỏi sự phân loại về đàn ông và đàn bà. Tuy nhiên theo các kinh điển và giáo lý về cõi Cực Lạc thì ở đó chẳng có những người đàn ông hay những người đàn bà bình thường giữa những chúng sanh ấy khi họ được sanh về cõi Tịnh độ, nơi mà giống cái hay giống đực thuộc về ứng hóa thần kỳ của đức Phật Vô Lượng Quang để phụng sự cho những chúng sanh ấy.

Đây không phải là sanh vào tử cung, mà tất cả những sự tái sanh này bởi sự quảng đại bất khả tư nghì, cao quý, hương thơm ngào ngạt ở giữa những bông hoa đủ màu sắc. Chẳng một người nào sản xuất ra nước tiểu, bài tiết hay nước giải. Vì những chúng sanh ở đây không có những thân thể to lớn và ăn những thức ăn như ở quả đất này.

Theo những bài vở trong A Tỳ Đạt Ma (Xem N.183a2 và CND 3018) ở buổi ban sơ của thời đại chúng ta, những kiếp số trước, loài người có mặt trên quả địa cầu này không phân biệt những người đàn ông hay những người đàn bà nổi tiếng. Họ không làm tình với nhau và mọi người được sinh ra qua những cách huyền bí. Con người chẳng cần phải ăn nhiều thực phẩm, lẫn việc họ chẳng cần đến ánh sáng của mặt trời hay mặt trăng, mà họ có ánh sáng tự chiếu ra bởi những tia sáng nơi chính thân thể của họ. Họ bay đi trong bầu trời như những con chim, họ không có cánh. Dần dần qua thời gian con người bắt đầu vui với những vật thể trên mặt đất và rồi qua kinh nghiệm to lớn của những tình thức. Đây là nguyên nhân làm cho họ mất đi khả năng bay và chiếu sáng của tự thân họ. Chẳng bao lâu họ bắt đầu trở nên những người đàn ông và những người đàn bà nổi tiếng và có sự sinh ra từ tử cung của người Mẹ.

Đức Phật dạy rằng:

Ở cõi Cực Lạc của đức Phật Vô Lượng Quang

Đã từ lâu tất cả vui với sự hấp thụ thực phẩm mặc nhiên

Ở đây ngay cả tên của loại thức ăn bình thường cũng không có nữa.

Mọi người đều hoan hỷ ở cõi Tịnh Độ và nhan sắc họ giống như nét đẹp của vàng ròng. Thân thể của tất cả những vị đệ tử ở cõi Tịnh Độ rất mạnh mẽ và đầy đủ năng lực được biểu hiện qua ba mươi hai tướng tốt tuyệt vời của những bậc đại nhân. Ánh sáng trí tuệ của thân thể họ chiếu sáng trùm khắp cõi địa cầu. Đức Phật nói tiếp:

Ở cõi Tịnh Độ của đức Phật Vô Lượng Quang

Ánh sáng trí tuệ của một bậc chân nhân là luôn luôn được lưu xuất.

Ở đây không có bóng tối

Và cũng chẳng có sự khác nhau giữa ngày và đêm

Tâm thức của họ luôn an lạc như họ được chứa đầy bởi sự tự tin và trí tuệ. Họ hoan hỷ bởi vì bất cứ cái gì họ cũng vui; họ vui vẻ tự nhiên, không có sự chấp thủ, bị phiền não bởi những sự khổ sở. Ngay cả với những ai vẫn chưa vượt khỏi sự khổ đau. Nguyên nhân của sự khổ đau nhưng họ vẫn cảm nhận được niềm vui, chính mình tạo ra sức mạnh của thế giới Tịnh Độ. Chẳng có ai là chủ thể của sự già hay bệnh hoạn. Cuộc đời là vô hạn, bởi vì sức mạnh của phước đức. Khi họ sanh về cõi Tịnh Độ. Tất cả những kinh nghiệm của sự khổ đau sẽ được dừng lại. Ở nơi đó không là hiện trường của sự khổ đau tại Tịnh Độ.

Tái sanh về thế giới Cực Lạc

Sự mô tả về cõi Cực Lạc đơn thuần cục bộ về ánh sáng được thấy ở đó là giàu chất lượng bất khả tư nghì. Trong thực tế, ngay cả con mắt thần cũng không thể thấy được tất cả mọi chất lượng, mà điều ấy là vô hạn. Ngay cả đức Phật Ngài cũng chẳng thể giải thích được tất cả về chúng. Ngôn ngữ thì chẳng đầy đủ được.

Theo nhiều kinh sách thì lời nguyện của đức Phật Vô Lượng Quang có một năng lực phi phàm, nếu bạn luôn nhớ nghĩ đến Ngài, bạn sẽ chẳng những được sanh về thế giới Tịnh Độ của Ngài mà bạn sẽ được gặp Ngài như là một con người trong cuộc đời của bạn ngay cả trong giấc ngủ hoặc dưới cái nhìn cũng vậy. Vào thời điểm bạn qua đời đức Phật Vô Lượng Quang sẽ hiện ra trước bạn ở giữa số đông đệ tử nhiều như biển cả. Đặc biệt nếu bạn nhớ đến đức Phật Vô Lượng Quang ở trong tình trạng trung ấm thân thì sự tưởng nhớ ấy sẽ là nguyên nhân để bạn được sanh về thế giới Tịnh Độ của Ngài. Bởi vì chính điều ấy trong khi ở trung ấm thân sẽ dễ dàng thay đổi tình huống của bạn.

Để được vãng sanh về thế giới Tịnh Độ bạn chẳng cần phải đạt thành ở một vài sự thể đắc mặc nhiên cao cả. Bởi vì với năng lực của những lời thệ nguyện của đức Phật, những gì bạn cần là sự thực hành bốn nguyên nhân để mở cánh cửa tâm linh của bạn và hãy thể hiện nó ở sự cảm thọ càng nhiều càng tốt. Điều kiện duy nhất là bạn chẳng phạm vào một trong năm tội ngũ nghịch hay chẳng tin tưởng nơi Phật pháp. Đức Phật Thích Ca đã dạy về bốn nguyên nhân ấy như sau:

“Nầy A nan! Có những hạng người một là suy nghĩ chi tiết về đức Phật (Vô Lượng Quang và cõi Tịnh Độ của Ngài) cứ lập đi lập lại mãi như vậy; hai là những người ấy sáng tạo ra vô lượng phước đức và chân thành cầu nguyện vãng sanh về thế giới Cực Lạc. Khi họ mất họ sẽ được tái sanh về cõi giới Cực Lạc ấy’’.

Việc gieo trồng sự quy hướng về và sự tưởng niệm đến đức Phật Vô Lượng Quang, chúng ta xác nhận được sự tái sanh của chúng ta vào cảnh giới bất khả tư nghì của Cực Lạc, một cõi giới hoàn toàn hòa bình và an lạc tuyệt đối và trở thành nguồn gốc của sự bình tĩnh và sự chờ đợi của những người khác. Cơ hội vi diệu này là lời hứa của đức Phật Vô Lượng Quang đối với mỗi chúng ta vậy. Sự thật của lời nguyện này đã được tuyên bố bởi chính đức Phật lịch sử (đức Phật Thích Ca Mâu Ni). Đây chính là con đường đã được xác nhận để du hành bởi những người Phật tử hiền minh và sự nương tựa xuyên qua thời đại.

Một vài người Phật tử nhìn những việc này như là “vô thần’’ phải phụ thuộc vào cảnh giới Cực Lạc, chỉ là sự quy kính với nhiều vị Thần tiếp cận. Tuy nhiên khi khảo sát kỹ nên để ý ví dụ của Ngài Nagarjuna. Ngài chính là vị chủ xướng quan trọng nhất về nguồn gốc tánh Không của Phật Giáo Đại Thừa rằng: Trường phái vô thần ấy là cự tuyệt sự hiện hữu các cực đoan, vô trụ; cả sự hiện hữu và không hiện hữu; chẳng tồn tại lẫn không tồn tại. Bây giờ thì đức Phật lịch sử đã huyền ký rằng: “Sẽ có một vị Tăng tên là Naga (rjuna)… sẽ được tái sanh về cõi Cực Lạc, khi ông ta lìa khỏi tấm thân của ông ấy’’. Như vậy thì, nếu một vị đại sư quan trọng, to lớn về truyền phái tánh Không (vô thần) mà còn được sanh về cõi Tịnh độ, thì một vài người theo Phật Giáo, hữu thần hay không thần, bất cứ cái nào cũng sẽ có thể được sanh về nơi cõi kia.

Để sự tái sanh dễ dàng về cõi Tịnh độ là điều quan trọng cho người sắp chết, phải nên giúp đỡ cả hai hệ thống ấy trong và chung quanh họ. Chương tới sẽ nói đến sự giúp đỡ như thế nào của người trợ tử.


[1] Tiếng Sanskrit có 46 lời nguyện và được dịch ra tiếng Trung Hoa 48 lời nguyện

CHẾT AN LẠC TÁI SINH HOAN HỶ
Nguyên tác Anh ngữ: Peaceful Death, Joyful Rebirth
của đại sư học giả Tulku Thondup
Việt dịch: HT. Thích Như Điển & TT. Thích Nguyên Tạng
Chùa Viên Giác Hannover, Đức Quốc
Tu Viện Quảng Đức, Melbourne, Úc Châu ấn hành 2011

Chương 08

PHƯƠNG CÁCH GIÚP ĐỠ NGƯỜI SẮP LÂM CHUNG
VÀ NGƯỜI CHẾT

Khi tâm thức lơ lững một mình vào cõi trung ấm, thật không khác sợi gòn bay trước gió,Tâm thức ấy cố tìm niềm an ủi từ những vòng tay dũng mãnh, từ những ai mang trí huệ và an lạc,Chính lúc này là nhân duyên tiếp dẫn hương linh vãng sanh Tịnh Độ, giải thoát khỏi sợ hãi và than khóc đau buồn,Nhiệm màu thay, trong thoáng chốc hương linh đã được tiếp độ khỏi những cảnh giới lang thang vô định.

Khi có người mất, chúng ta có cơ hội tốt để cúng dường vô số lãnh vực tinh thần qua sự trợ giúp. Những vị Lạt Ma, những tín đồ đến cầu nguyện và những người thực tập đều có thể lo cho lễ lạc cầu nguyện, Thiền định; những nghi lễ giúp đỡ hướng dẫn cho người chết và lúc lâm chung cũng như trong trạng thái sau khi chết. Cũng là những điều đơn giản, nhưng là những việc làm đầy đủ ý nghĩa cho người giúp đỡ, sự quan hệ cũng như bạn bè có thể trợ lực được.

Luôn nhớ tưởng đến những tư duy và hành động thiện

Chúng ta thực hiện như thế nào cho chính chúng ta qua sự ra đi của một người, hoặc kế theo sau sự chết ấy có thể tạo nên những dấu hiệu khác nhau với kinh nghiệm của người kia của sự biến đổi có tính cách quyết định ấy trong khi có người chết và những ngày mất ấy. Điều vô cùng quan trọng cho những người còn lại là cố gắng để dừng lại những suy nghĩ cảm giác của những sự phụ thuộc mà còn ngược lại với người chết nữa.

Ngay cả nếu chẳng thể tránh được những sự suy nghĩ này và thái độ của tâm, từ sự trổi dậy, thì chúng ta sẽ nên tránh sự biểu hiện trong lời nói hay những hành động. Chúng ta sẽ cố gắng đừng buồn rầu, hốt hoảng hay sự bi ai. Nó cũng rất quan trọng cho việc chẳng nên đào xới những hạt bụi về người quá cố, để nói về sự yếu đuối của họ, hoặc những hành động bất thiện mà họ đã gieo trồng hay ngay cả sự suy nghĩ nhiều tư tưởng trong tâm thức của chúng ta.

Phần sau trong việc trở về từ sự chết ở trong chương 5 đã bộc lộ như thế nào về sự buồn thương và khóc lóc bởi những người còn lại, có thể là những nguyên nhân để làm cho người chết phải trải qua chốn tối tăm, chỗ sấm sét, sự kinh ngạc của tâm thức và cảm giác khổ sở như họ đang kinh qua ở thân trung ấm.

Những người thân của người đã ra đi nên cố gắng giữ gìn sự hài hòa và trạng thái yên tĩnh của tâm hồn cũng như không khí bên ngoài càng nhiều càng tốt. Chúng ta nên làm lễ, tạo niềm vui, sự tôn trọng và xưng tán người ấy cho sự thành tựu của họ.

Chúng ta không nên nghĩ rằng: “bây giờ người ấy đã chết rồi, ta sẽ trở nên giàu có’’; hoặc “cuối cùng, khi người này qua đời rồi, ta sẽ được tự do’’.

Tâm thức của người quá cố ở gần đó có thể đang nổi trôi chung quanh đâu đây hằng giờ, hằng ngày và ngay cả hằng tuần sau khi mới lìa khỏi thân xác. Họ có thể làm chủ được một vài khả năng như đọc được tâm thức của người còn sống nữa. Nếu họ nhận ra được rằng người đang suy nghĩ và những hành vi xấu hướng về họ thì điều ấy sẽ trở nên những yếu tố mạnh mẽ khiến họ bị chìm vào những cảm thức xấu xa và điều này có thể là nguyên nhân mang lại sự khổ não trong sự hiện hữu tương lai của họ.

Như vậy thì cuối cùng trong khoảng vài ngày đến nhiều tuần lễ sau cái chết của một người, chúng ta là những người còn sống nên cố gắng bảo tồn những tư tưởng lành mạnh và những hoài niệm về người mất cũng như giữ gìn một cách thích hợp.

Cảm giác buồn thương của người mình thương mến vào lúc ra đi là chuyện tự nhiên. Thế nhưng qua sự buồn rầu của bạn, bạn sẽ chẳng nên làm xấu thêm sự buồn tủi ấy. Đồng thời cố gắng giảm thiểu ít nhất hay nên yên lặng. Việc đầu tiên là cố gắng đừng xem cảm giác của sự buồn thương là không tốt và bắt đầu một cuộc chiến đấu với sự cảm kích ấy. Thay vào đó bạn nên suy nghĩ rằng: “Vâng tôi buồn! Nhưng đó chỉ là sự khởi dậy về tình thương yêu của tôi và tôn trọng đối với người mất.” Thật là tốt đẹp và chuyển nó thành một đối tượng của sự an lạc. Tất cả những việc khổ não đau buồn ấy sẽ tạo thành năng lượng trị liệu để được sự an lạc kia. Thỉnh thoảng bạn phải cần hồi tưởng lại bởi chính bạn rằng: “Nếu tôi nương vào vào cảm giác buồn thương và riêng biệt với những sự suy nghĩ như vậy đối với hình ảnh của người tôi thương thì điều ấy sẽ ảnh hưởng đến những điều xấu tệ giống như đã có trong những lời dạy và hãy nói những câu chuyện cho người chết đang nằm đó rằng: tôi phải dừng lại ngay”. Hiểu được như vậy và việc tùy thuận kia sẽ giúp dừng lại được những cảm giác buồn thương kia đang tiếp diễn.

Điều quan trọng là nhớ lại những gì mà người chết không phải chấm dứt đối với mọi người. Cuộc sống vẫn luôn tiếp diễn. Nếu họ đã từng bị khổ sở, bịnh tật hay già nua. Đây là một cơ hội tốt cho họ để chấm dứt sự khổ đau và an ổn với sức khỏe cũng như một đời sống tốt đẹp hơn. Đặc biệt nếu một vài phần trăm trong cuộc sống yêu thương của bạn đã được tốt đẹp thì bạn nên nhớ lại những điều ấy, hãy gom chúng vào tâm thức của bạn những gì mà thời gian trên quả địa cầu này bạn đã vui với nó. Đó chính là những năng lượng chữa trị sẽ được phát sinh cho bạn và là nguồn bảo trợ tinh thần cho người bạn thương yêu.

Sự thực tập hiệu quả nhất là thay vì sống trong sự buồn rầu và lo lắng nó sẽ tiêu phí đời bạn. Hãy đóng khung tâm thức bạn bằng sự cầu nguyện, thiền định và hãy an lạc với sự gia trì từ nguồn gia trì của chính bạn.

Tiến hành cầu nguyện và những nghi lễ

Bất kỳ người cầu nguyện hay sự thiền định nào của những người đang sống và đặc biệt giúp đỡ chọn lựa để thực hiện cho người quá cố, việc đầu tiên của họ là tọa thiền và trải kinh nghiệm của chính họ ra cho sự hít thở ấy, đồng thời kéo theo sự lợi ích từ những nguồn gia trì ấy. Rồi họ chia sẻ những điều ấy ra cho người đang hấp hối hoặc người đã quá vãng. Nếu bạn chẳng có nhiều kinh nghiệm về nhiều sự cảm nhận của chính bạn thì nên chia sẻ một ít gì đó với người đã qua đời.

Với sự quyết tâm những gì của người cầu nguyện, thiền định hoặc thực hiện những lễ nghi, luôn luôn quan trọng cho một sự chọn lựa với cả người giúp đỡ và người quá cố. Chính đó là những sự nối kết hoặc quen thuộc.

Sự tôi luyện hoàn hảo không kém phần quan trọng cho người đang hấp hối hoặc người quá cố. Điều này rất là quan trọng để tin tưởng vào sức mạnh của nguồn gia trì kia. Nguồn gia trì của bạn có thể là đức Phật hay giống như đức Phật Vô Lượng Quang (A Di Đà); đức Phật ở cõi Tịnh Độ như cõi Cực Lạc, các vị Bồ Tát, các vị Thánh, những bậc thông thái, hoặc chính tự thân vị Thầy tinh thần của bạn.

Người hộ niệm phải thấy, cảm nhận và tin tưởng rằng nguồn gia trì ấy là nguồn suối của vị Thần trí tuệ, tình thương không điều kiện và năng lực không giới hạn. Nếu bạn có thể vẽ tâm mình như một con đường, thì nguồn gia trì ấy sẽ hiện thực ra trước bạn. Bởi vì có sức mạnh của sự nhận biết tinh khôi bởi chính bạn vậy.

Tạo công đức

Giá trị phụng sự cao cả nhất mà bạn có thể thực hiện cho người đang hấp hối và người quá vãng là tạo ra những phước đức và nguyện hồi hướng, bởi đó là cái nhân của hạnh phúc và sự giác ngộ cho người đã quá vãng.

Phật Giáo dạy rằng để đạt được quả vị Phật bạn phải tập trung cả hai điều chứa đựng là phước đức và trí tuệ, xuyên qua những tư tưởng tốt đẹp, những sự cảm kích và những hành vi thực hiện với tâm thức nhị nguyên, chúng ta sẽ tích lũy được phước đức hoặc những nghiệp thiện. Xuyên qua sự thể đắc của thiên nhiên sau rốt, tự do từ những khái niệm nhị nguyên và những sự cảm kích, chúng ta chứa nhóm được trí tuệ và là phạm vi của sự chuyển hóa nhơn quả nghiệp lực. Để có sự hòa bình và an lạc hoặc tái sinh, chúng ta phải tích chứa phước đức. Để đến được Phật quả chúng ta phải thể đắc được trí tuệ.

Có rất nhiều hình thức để tạo ra phước đức, gồm những điều tiêu biểu như sau:

– Vun bồi tư tưởng và những hành động của việc bố thí huấn luyện đạo đức, kiên nhẫn, sự siêng năng và sự kỳ đãi.

– Ứng dụng những tư tưởng này và những sự hồi hướng trong những sự hoạt động tích cực, kể cả những sự tụng kinh của những người cầu nguyện, sự thực hành thiền định, sự phụng sự cho những người khác, chăm sóc cho người bịnh và cứu giúp chúng ta.

– Phát triển sự tin cậy và nương tựa vào nguồn lực gia trì, lòng từ bi cho tất cả chúng sanh và sự chờ đợi một vài đối tượng thuộc về việc tích cực; bất cứ những hình ảnh như thế nào (ví dụ như hình Phật), những bậc Thánh, tâm hồn thánh thiện, những cảm giác (sự quy y, lòng từ bi, an hòa và an lạc), sự gia trì, tịnh độ và những việc tương tự như vậy.

– Tuân thủ những giới luật, làm trong sạch những hành vi sai trái (những điều này phải xuyên qua một vài tư tưởng thánh thiện cũng như những hành vi này sẽ tẩy rửa được những nghiệp bất thiện mà bạn đã tạo ra); hãy giảng pháp, cúng dường những vị thần linh, tặng quà cho những người cần đến, cúng dường cho những công việc từ thiện, giúp cho người tỵ nạn, bảo trợ những nghi lễ Tôn Giáo, bảo trợ hoặc sáng tạo những đối tượng của Tôn Giáo (như những hình tượng, họa tượng, chùa viện, cũng như những bia đá kỷ niệm) xây dựng đường xá và bảo hộ cho những người đơn chiếc.

– Bạn cũng có thể chứa nhóm tích tụ những phước đức của một trong những sự phục vụ đầy năng lực mà bạn có thể hy hiến cho người chết là hiến dâng tất cả những công đức của những hành vi đức hạnh của bạn như là cái nhân của sự hòa bình và an lạc cho người liên hệ hoặc cho tất cả chúng sanh. Có rất nhiều quyển sách cung ứng cho người cầu nguyện về những bài vở của đạo Phật. Trong khi cầu nguyện một điều cần yếu là hồi hướng tất cả những công đức có được đến với tất cả chúng sanh (đặc biệt cho người chết thì được an lạc và hạnh phúc) ngoài sự chờ đợi một cái gì đó trở lại.

Điều tốt đẹp là nếu chính bạn có thể thực hành một vài hành vi tích chứa công đức ấy trên danh nghĩa cho người chết. Thế nhưng điều ấy sẽ tích chứa được công đức nếu bạn đơn giản linh hoạt cho những người khác để thực hành chúng hoặc bạn bảo trợ sự thực hành ấy của những việc làm phước thuộc nghi lễ bởi các vị Lạt Ma hay những tín đồ.

Nghi lễ Phật Giáo cho những người không phải Phật tử

Như chúng ta được biết nhiều người họ sẵn sàng đón nhận những tư tưởng của Phật Giáo mà họ chẳng phải là những người với hình thức là một người Phật tử. Họ cũng là những người thừa nhận Phật Giáo chính thức, nhưng chẳng phải dễ dàng để chấp nhận những hình tượng của Phật Giáo hoặc những quan điểm phức tạp về cái chết cũng như sau khi chết. Rồi cũng có nhiều người khác hoàn toàn đóng cửa lại với đạo Phật hoặc giả đối lập lại với việc này cũng như những ý nghĩ về sự chết.

Trong truyền thống của Tây Tạng hầu như dân chúng đều tôn kính đạo Phật, do vậy, có nhiều câu hỏi chẳng hề được đặt ra. Nhưng bây giờ Phật Giáo được phát triển ở Tây Phương, nó đã trở thành một vấn đề mà mọi người chú ý. Chúng ta có nên đưa ra một phương pháp để giúp họ theo phương cách của Phật Giáo, ngay cả những người ấy khi họ còn sống đa phần đã không chấp nhận điều ấy?

Có nhiều vị Thầy trả lời rằng những chúng sanh ấy bị trôi nổi nơi thân trung ấm, nên họ cần một sự giúp đỡ đặc biệt. Họ sẽ trông đợi vào một vài năng lượng của sự Từ Bi, những hình ảnh của sự an lạc, những tâm thức và những sự thông cảm để bảo trợ cho họ. Ở trong trạng thái tắt thở thì họ sẽ tha thiết tìm cầu tất cả những gì có thể cung cấp cho họ và những nơi trú ẩn bớt khốn khổ.

Như vậy là họ đã có ý mong chờ sự cầu nguyện, Thiền định hay tạo những công đức của nhiều người và những việc phục vụ ấy sẽ giúp cho họ được rất nhiều điều. Ngay cả nếu họ chẳng thừa nhận Phật Giáo trong lúc họ sanh tiền.

Thế nhưng cũng có nhiều vị Thầy khác thì nghĩ rằng nếu người quá vãng có những tư tưởng ghét bỏ Phật Giáo hay phản đối những ảnh tượng Phật và những khái niệm trong khi họ còn sống thì họ phải mang vào khuynh hướng tương tự như vậy nơi trung ấm thân. Bởi vì những thói quen của tâm thức không phải dễ dàng để tháo gở. Nếu quả thật là như vậy thì trong tâm thức của những người này, sự phục vụ của Phật Giáo thực hiện cho họ, sẽ là nguyên nhân của sự giận dữ và phẫn nộ, điều ấy chỉ để làm cho họ tổn hại mà thôi.

Theo quan niệm của tôi thì điều an toàn chắc chắn và hữu ích là nên cụ thể hóa hoặc sáng tạo sự hòa bình những cảm giác an lạc cũng như bầu không khí chung quanh của những người đang hấp hối hoặc đã chết. Bạn có thể nghỉ ngơi trong sự chờ đợi của bầu không khí ấy, nghĩ và cảm nhận rằng bạn (người trợ niệm), người mất ấy và bầu không khí kia có được tất cả sự hòa nhập với cảm giác về hòa bình cũng như sự an lạc kia. Chính bạn là người trợ niệm, bạn cũng có thể tưởng tượng như thấy được những hình ảnh tốt đẹp; còn nghe được sự ủy thác của tâm thức hay những lời nói; cho phép những ấn tượng này sáng tạo ra bầu không khí an toàn của hòa bình và sự an lạc. Rồi nghỉ ngơi trong trạng thái thoải mái của sự cởi mở. Những sự thực tập như thế là điều căn bản cho bản chất trung thực của đạo Phật và làm chủ được phẩm chất tích cực của vũ trụ, không cần đề cao đến phẩm chất Phật Giáo hoặc văn hóa Á Châu.

Ngoài ra điều này cũng rất quan trọng để thực hiện một vài hình thức của việc làm phước với tính cách tổng quát và hồi hướng những phước đức ấy đến cho người chết như là con đường gieo trồng chủng tử của hòa bình và hoan hỷ trên đường đi tái sanh.

Thiền định tổng quát cho tất cả

Ngay cả nếu người chết hay sắp lâm chung chẳng phải là Phật tử hay họ cũng chẳng mở cửa để đón nhận đạo Phật, thì những hình thức sau đây sẽ rất hữu ích cho sự lợi ích và sự an toàn. Người trợ tử có thể xử dụng đến chúng tất cả hay áp dụng cho họ một phần nào mà thích hợp với nhu cầu của người mất. Đây là những nguyên tắc của Phật Giáo chủ trương có tính cách tổng quát và kêu gọi:

-Trên bầu trời kia, những hình ảnh mà bạn thấy là nguồn lực gia trì trong hình thức của những chúng sanh của ánh sáng. Những chúng sanh này quá đẹp, có tình thương không điều kiện, sự an lạc không giới hạn; sự hòa bình vi diệu một năng lực sâu thẳm và hầu như được mở ra để gởi những tia sáng của sự ấm áp và hoan hỷ trong mọi phương hướng với tình thương.

-Hãy nhìn những năng lực của ánh sáng gia trì kia là nơi phát ra ánh sáng từ nguồn năng lượng của sự gia trì ấy. Những tia ánh sáng từ nguồn năng lượng của sự gia trì ấy. Những tia ánh sáng gia trì này được chứa đầy bởi những bầu không khí to lớn với cảm giác hòa bình thật sự và an lạc với điều kia và làm tan đi tất cả những bóng tối của sự hỗn loạn, buồn tủi và sợ hãi.

-Hãy lắng nghe tiếng hát của tâm thức trong ngôn từ của những lễ nghi, hay tâm hồn người trợ tử, sẽ đong đầy một bầu không khí giống như một buổi trình tấu. Hãy cảm nhận sự không giới hạn của hoan hỷ, sự an bình vi diệu và cộng chung với sự cởi mở của sự sáng tạo bởi sự chấn động của âm thanh.

-Hãy nghĩ về cảm giác rằng người quá cố ấy đang ngắm nhìn ánh sáng gia trì kia.

-Cuối cùng hãy cảm nhận rằng bạn và người quá cố chìm vào trong trạng thái không thể phân ly; ở trong tử cung ấy của vô số ánh sáng gồm toàn sự hòa bình và hoan hỷ. Nghỉ ngơi thoải mái trong ấy càng lâu như bạn có thể. Hãy thực hành nhiều lần như vậy.

-Bây giờ và ở đây, chuyên chở thật mạnh bạo bởi sự suy nghĩ và nói năng. “cầu nguyện (tên của người quá cố) được ở với ánh sáng gia trì và hoan hỷ với sự bình an cũng như vui với thân trung ấm, đồng thời trong tất cả cho tương lai sự sống của cô hoặc cậu”

Hướng dẫn cho người Phật tử và những ai sẵn sàng đến với đạo Phật.

Ngoài ra sự cầu nguyện và Thiền định, người trợ tử có thể hiến dâng những lời nói trong sự hướng dẫn cho những người Phật tử và cho những ai mà họ đã sẵn sàng đón nhận những lời dạy của Phật Giáo.

Với cảm giác của sự quy y về nguồn lực gia trì và lòng từ bi cho người quá vãng; dùng ngôn ngữ của sự hướng dẫn thật lớn tiếng hoặc âm thầm. Trong tâm thức của bạn, hãy nói tất cả hoặc một vài phần của một vài điều hướng dẫn như sau đây. Bạn có thể áp dụng những điều mà chúng thích hợp với người quá vãng.

Bạn phải bắt đầu với những ngôn từ hướng dẫn thật mạnh bạo, nhưng theo lối giản đơn của người trợ tử càng nhiều như OM AMITABHA HRI (An A Di Đà Hồng), là Thần chú của đức Phật Vô Lượng Quang; hoặc OM MANI PADME HUNG (Án Ma Ni Bát Di Hồng) là Thần chú của Bồ Tát Quán Âm. Ngoài ra hãy chọn một vài người trợ tử mà bạn và người quá cố là những người thân thuộc với nhau.

OM AMITABHA HRI ‘John’’ (thường để gọi người chết bằng tên của cô hoặc cậu ta), hãy yên nghỉ và lắng nghe tôi với tâm hồn tĩnh lặng. ‘’John’’ bạn đã chết và bạn bây giờ đang ở thân trung ấm, đang bước qua một lối khác. Điều này rất quan trọng với bạn đây, để thể đắc và chấp nhận rằng bạn đang chết. Hãy lắng nghe tôi đây! Bây giờ bạn phải cố gắng về những gì mà bạn cần nghĩ đến và cần làm. Bạn đang ở ngả tư của sự chọn lựa cho tương lai an lạc hay khổ não đấy!

Với tâm hồn trong sáng và hoàn toàn chú tâm, hãy nhớ lại việc thiền định của bạn và hãy ở đấy với những kinh nghiệm thật là mặc nhiên. Hãy hình dung lại vị Thầy tinh thần thân thiện của bạn và tất cả những nguồn năng lượng gia trì. Nếu bạn nhớ lại được thì họ sẽ luôn ở bên bạn. Hãy nghĩ rằng họ luôn chăm sóc cho bạn với con mắt trí tuệ và quả tim yêu thương. Hãy giữ lại điều suy nghĩ này về họ, cứ thế và cứ thế. Họ sẽ dõi theo bạn để được an toàn trên con đường hòa bình và tái sanh hoan hỷ.

Ngày nay bạn đang ở trong tình huống quan trọng nhất để quyết định cho cuộc đời của bạn. Tương lai của bạn được quyết định bởi tâm thức như thế nào đó của bạn sẽ tác dụng hỗ tương với ngày hôm nay. Tóm lại xin hãy nhớ lại những kinh nghiệm của thiền định mà bạn đã thực hành, đó là nguồn năng lượng gia trì để cho bạn có thể nương tựa vào những vị Thầy dạy giáo lý cho bạn, đối với những người mà bạn gần gũi và hãy suy nghĩ nhiều lần như thế.

OM AMITABHA HRI! Trên đường đi xuyên qua thân trung ấm của bạn, bạn phải gặp những hình tượng đầy phẫn nộ, ở hình thức ác ma hay ở tình trạng kinh ngạc. Thế nhưng bạn phải nhớ rằng những điều xuất hiện ấy là không thật. Chúng là những hình ảnh được sáng tạo đơn thuần và là phản ảnh trái ngược lại của chính tâm thức bạn; đồng thời đó là những thói quen, giống như những huyễn giác và những đồ dơ uế. Hãy đừng phụ thuộc vào chúng, đừng nắm bắt chúng, sợ hãi chúng và cũng đừng gây hấn với chúng.

Xin hãy nhớ rằng tất cả những hình ảnh là những hình ảnh của ánh sáng với chất lượng tin tưởng. Đó là dấu hiệu của hòa bình, hoan hỷ và hãy mở cửa cho sự tự nhiên chơn thật này. Trong bản thể tự nhiên thực tại ấy và có chất lượng, là những nguồn năng lượng gia trì tồn tại và những vị Thầy tinh thần của bạn.

Nếu bạn nhìn thấy được một vài hình ảnh đẹp đẽ hay phẫn nộ. Nếu bạn chỉ định nó như là hình ảnh của ánh sáng và sự an lạc thì nó sẽ trở thành hình ảnh của ánh sáng và sự an lạc. Nếu bạn nghe một vài âm thanh nào đó, nếu bạn ra lệnh cho nó như là âm thanh của sự hòa bình và nó sẽ trở thành như vậy. Ở thân trung ấm, nếu bạn nghĩ đến con đường đứng đắn thì bạn có thể thay đổi và hãy biến hóa bất cứ tình trạng nào một cách dễ dàng. Bởi vì tất cả mọi vật chỉ là sự trái ngược và sự tác động hỗ tương của chính tâm thức bạn. Hãy nhớ lại nhiều lần (lặp đi lặp lại) rằng những gì xuất hiện mà bạn chẳng hài lòng, đấy là những điều chẳng thật, giống như một giấc mộng và tất cả là những sự hòa bình trong tự tánh thiên nhiên vậy.

OM AMITABHA HRI! ‘John’, ở nơi trung ấm thân là bước chuyển tiếp, bạn có thể quan sát và nhớ lại những gì là sở hữu của bạn, như bạn bè hoặc những người bạn thương yêu. Bạn cũng có thể nghe mọi người gọi bạn và khóc lóc vì bạn. Nếu như vậy thì bạn nên nhớ rằng bạn bây giờ đang chết đấy! Bạn đã phải chia tay với họ. Những người đang gọi bạn đó hãy đừng lệ thuộc vào họ và những người mà bạn cảm động để phụ thuộc vào đó cũng chẳng thể giúp đỡ bạn đâu, bởi vì những hình ảnh và âm thanh ấy đúng là một sự tương phản trong sự buồn rầu của chính bạn cũng như sự sợ hãi và sự hỗn loạn. Chẳng có cái gì có thể theo được bạn cả mà cũng chẳng thể giúp bạn ở lại với chúng được. Nếu bạn lệ thuộc vào chúng thì đó chính là do sự lệ thuộc của bạn mà chúng sẽ trở nên trở ngại con đường mà bạn sẽ hướng tới sự an lạc và giải thoát. Điều ấy sẽ chỉ nối kết bạn với thế giới của sự khổ đau và nhọc nhằn. Do vậy chẳng nên lệ thuộc vào chúng, hãy đừng hướng về chúng, hãy đừng nắm chặt chúng, hãy đừng đắm đuối chúng, hoặc giả hãy đừng chiến đấu với chúng.

Hãy xem chúng như là những hình ảnh tương phản mà trong ấy chẳng có vật thể nào cả. Hãy nghe chúng như là âm thanh của sự dội ngược lại mà chẳng có cái nào là thực thụ cả. Thế rồi những sự phụ thuộc của tâm thức bạn đó cũng như sự sợ hãi sẽ chẳng hiện ra, giống như sương dần tan ra trước khi mặt trời mọc.

Hãy nên nhớ lại những kinh nghiệm của thiền định và sự tồn tại những nguồn năng lượng gia trì với bạn và ở nơi bạn. Nếu tâm hồn bạn có thể thấy và cảm nhận được nguồn năng lượng gia trì ấy cũng như những kinh nghiệm về thiền định, rồi chúng sẽ trở thành nguồn năng lượng hòa bình vĩ đại và sự hoan hỷ – con đường giải thoát cho chính bạn đó!

Như vậy thay vì bạn bè hay địch thủ, hãy luôn nhớ về sự thiền định của bạn và nguồn năng lượng gia trì kia, hãy lập lại mãi như vậy.

OM AMITABHA HRI! ‘’John’’  nơi thân trung ấm bạn có thể nghe tiếng sấm sét và những ngôn từ khủng khiếp. Nếu như vậy thì bạn nên nhớ rằng những tiếng sấm sét của tâm thức đó, những ngôn từ khủng khiếp kia chỉ đơn thuần là sự xuất hiện công phu bởi tâm thức của bạn, chúng là những âm thanh ngụy tạo bởi chính tâm thức của bạn, giống như huyễn giác và những âm vang dội ngược lại. Hãy đừng kinh ngạc về chúng, hãy đừng bám víu chúng, hãy đừng trở nên chấp chặt vào chúng hoặc đừng chiến đấu với chúng.

Hãy lắng nghe những âm thanh ấy như là âm thanh của làn sóng tình thương, sự hòa bình và những hơi thở. Hãy nhớ lại những âm thanh ấy như là làn sóng của sự nương tựa đến những nguồn năng lượng gia trì ấy. Rồi thì hãy nhớ lại những âm thanh như là những làn sóng của tình yêu và lòng từ bi ấy sẽ đến với bạn từ những nguồn năng lượng gia trì ấy. Hãy lập lại một lần, thêm một lần nữa!’’

OM AMITABHA HRI! ‘’John’’ ở nơi trung ấm thân, là nơi chuyển tiếp, bạn phải cảm nhận những tri giác không hài lòng của sự hoảng sợ và cô độc. Nếu như vậy thì bạn phải hồi tưởng lại rằng những cảm giác đơn thuần ấy được sáng tạo ra bởi chính tâm thức của bạn. Chúng không là những thực thể, tâm hồn bạn vừa ngụy tạo ra chúng giống như cơn ác mộng. Hãy đừng lệ thuộc vào chúng, vượt lên khỏi chúng, hãy đừng chấp chặt chúng hoặc đánh nhau với chúng.

Hãy suy nghĩ bởi chính bạn rằng cảm giác ấy là chẳng thực tế. Chúng giống như những gợn sóng trên mặt hồ. Hãy để cho chúng đi khỏi, đừng giữ chúng lại. Nếu bạn để cho nó đi khỏi thì chúng sẽ phân tán ra giống như những bong bóng nước. Như vậy bạn sẽ hoan hỷ với tâm hồn chân thật tự nhiên gồm toàn là sự hòa bình, hoan hỷ, sáng sủa và sự toàn tri.

Một lần nữa hãy nhớ lại sự hiện hữu của nguồn năng lượng ấy ở với bạn và trong bạn. Hãy nhớ lại những cảm giác của Thiền định. Hãy vui với những cảm giác ấy về sự an bình và niềm vui kia là những kinh nghiệm trong sự hiện hữu ấy. Hãy giữ lại cảm giác của sự cởi mở, trạng thái thiên nhiên trong tâm hồn của bạn – lập lại nhiều lần như vậy.

Thiền định cho những người Phật tử và cho những người hành Thiền khác.

Nếu người đang lâm chung hay kẻ đã qua đời là một Phật tử hay một hành giả thực tập Thiền và nếu bạn, người trợ tử đã thực tập về thiền định, thì bạn có thể xử dụng những hình thức lễ bái cầu nguyện trong phần phụ lục A và B về Nghi lễ đơn giản của Phật giáo. Hoặc bạn cũng có thể xử dụng cách thiền định đơn giản như dưới đây, thích hợp một phần của chúng nếu cần thiết để áp dụng cho tình trạng này.

Hãy nhớ lại rằng đây luôn là bản chất thuộc về người trợ tử để hi hiến cho việc giúp đỡ tinh thần cho người chết hay quá vãng một cách phù hợp với trạng thái của kinh nghiệm mặc nhiên rằng người quá cố ấy và những người trợ tử thực tế là làm cho hoan hỷ.

Thiền định giúp cho những người thực tập cao

Nếu bạn, người trợ tử đã thực tập thiền định nhiều hơn người chết hay người quá vãng, hoặc là cả hai đều thực tập ngang nhau, thì bạn phải thực tập thiền năng nổ hơn nữa, hãy nói những lời cầu nguyện và thực hiện những nghi lễ. Thêm vào đó bạn phải cho người chết tất cả những sự khuyên bảo cần thiết trong sự chết và trải qua thân trung ấm, nhưng phải ở trong tỉ suất đúng đắn. Điều ấy với sự khuyên bảo chẳng phải là quá nhiều thì người chết có thể chẳng đầy đủ năng lượng, thời gian và sức bao dung để nhận một vài sự lợi ích từ chúng (ngay cả khi vẫn còn sống). Như vậy bạn phải suy nghĩ kỹ là nên nói bao nhiêu và nói về những gì. Bạn sẽ cho một vài yếu điểm và sự cổ vũ rằng điều ấy là việc đúng cho người này nghe. Như vậy họ sẽ hiểu và nhớ lại nó trong hành trình lâu dài sau khi chết. Ở đây bạn có một cơ hội tốt để hướng dẫn người chết xuyên qua quá trình chết cũng như thân trung ấm và giúp họ đạt đến bến bờ của hòa bình cũng như sự hoan hỷ và cũng giống như nếu bạn mang một người bệnh hướng về phía tốt đẹp hơn.

Bạn nên hiến tặng tất cả hoặc một vài phần của những việc hướng dẫn đến với người đang hấp hối hoặc người đã qua đời. Sự hướng dẫn này nên rõ ràng, đơn giản và lời nói đến từ chơn tâm. Người sắp chết hay người quá vãng hoặc có thể hay chẳng thể ý thức hay hiện tại thi hành việc thiền định hoặc cầu nguyện cùng với bạn, như vậy bạn có thể phải thực hiện những điều này một mình. Tuy nhiên bạn nên suy nghĩ rằng người đang lâm chung hay người quá vãng ấy đang nghe bạn và đang cầu nguyện cũng như thiền định với bạn đó. Hy hiến những hướng dẫn như dưới đây cho cô hoặc cậu ta thật lớn tiếng hoặc ở trong tâm thức của bạn.

Trên bầu trời ở trước mặt bạn, cụ thể hóa những sự vi diệu thành tươi đẹp và Tịnh Độ to lớn giống như cảnh giới Cực Lạc. Ở chính giữa đó gặp ngay nguồn năng lượng gia trì tồn tại như đức Phật Vô Lượng Quang (A Di Đà) (hay bất kỳ đức Phật nào, các vị Thánh hoặc những vị thông thái tương đương cũng tốt) dõi theo đó bởi vô số của những vị giác ngộ khác. Ví dụ như những vị Bồ Tát, A La Hán, và vị Thầy hướng dẫn tinh thần của bạn. Hãy xem họ là một trong những vị đầy đủ giác ngộ. Vị ấy phát ra tình yêu thương vô điều kiện, trí tuệ toàn tri, sự an lạc vô biên, hoàn toàn hoan hỷ và sức mạnh vô địch.

Nguồn năng lượng gia trì ở đây sẽ bảo hộ cho bạn, chăm sóc bạn và ủng hộ bạn trong hành trình của trung ấm thân. Ở đây vị này sẽ hướng dẫn bạn hướng đến cõi Cực Lạc vậy.

Hãy cảm nhận sự an lạc vô song và vui với sự tồn tại trong ấy. Hãy cảm nhận sự ấm áp của sự hiện hữu kia. Hãy cảm nhận thật an toàn nơi sự tồn tại kia. Hãy cảm nhận được chúng đây bởi tất cả những gì bạn cần đến trong sự hiện hữu kia. Hãy tin rằng với sự tự tin ấy ngay từ bây giờ ở nơi bạn và đang được bảo hộ cũng như hướng dẫn bạn bởi một trong những biển giác ngộ ấy.

Hãy đọc lời cầu nguyện hoặc tụng Thần chú! Hãy suy nghĩ và cảm giác về những âm thanh của những người đang cầu nguyện như là làn sóng của sự cầu nguyện hướng đến những nguồn năng lượng gia trì, cho sự giúp đỡ và gia hộ kia. Như vậy hãy suy nghĩ và cảm giác rằng âm thanh của những người cầu nguyện là những làn sóng của năng lượng quy hướng về nguồn lực gia trì ấy.

Bạn có thể nghe những âm thanh tổng thể và những âm điệu của sự cầu nguyện như là những làn sóng của tình yêu thương, trí tuệ và năng lực từ nguồn năng lượng gia trì kia. Hãy cảm nhận những âm thanh ấy như là sự chấn động của chính trái tim hay tâm hồn hoan hỷ của bạn, hãy hướng về người cầu nguyện với tình yêu vô lượng và trí tuệ vô biên, năng lượng phi thường cũng như sự mở cửa đón nhận sự an lạc ấy.

Hãy nhìn điều ấy và cân nhắc nhiều về sự an lạc lớn trong ánh sáng gia trì kia và những niềm hỷ lạc ấy đang đến với bạn từ nguồn năng lượng gia trì. Những ánh sáng gia trì này lấp đầy cả thân thể bạn và tâm hồn cũng như không khí ấy hoàn toàn đang ở chung quanh bạn. Những ánh sáng ấy với tình yêu thương không điều kiện, biển tuệ giác mênh mang và năng lực phi thường, hoàn toàn nồng ấm hỷ lạc vô biên và an lạc khắp vũ trụ.

Những hình ảnh nào mà bạn gặp, những âm thanh nào mà bạn nghe, hoặc những cảm giác nào mà bạn đã trải qua kinh nghiệm thì bạn phải gặp, phải nghe, phải cảm nhận và hãy tin rằng chúng là những hình ảnh tinh khiết, những âm thanh của sự ủy thác và ánh sáng trí tuệ giác ngộ của nguồn năng lượng gia trì kia.

Cuối cùng hãy thư giản trong sự tỉnh thức của sự an lạc đã sẵn có và sự gia trì của những nguồn năng lượng được gia trì. Hãy cảm nhận bạn sẽ nhận được một trong tất cả những việc ấy.

Hướng dẫn cho những người trợ tử của những hành giả hành Thiền đang qua đời.

Nếu kinh nghiệm mặc nhiên của những người chết mà cao hơn bạn là người trợ tử thì bạn sẽ thiền định, đọc lời cầu nguyện và thực hiện những nghi lễ; tuy thế vẫn yên lặng hoặc ở một khoảng cách xa, nhưng vẫn thực hành thiền định cho người chết cho được hoàn hảo. Bạn hãy để cho người thiền định đang chết đó giương cánh bườm đến những bến bờ khác bởi sự hiến dâng chỉ trong sự trợ duyên gián tiếp, lặng lẽ.

Trong trường hợp này điều quan trọng nhất là hãy tập trung vào sự ra đi của người mất, đi theo con đường của chính họ và ở tốc độ nhanh của chính họ muốn. Tránh gợi lên một vài âm thanh hay cử động chung quanh họ. Như vậy trong chẳng bao lâu việc tiến hành của người chết chưa được hoàn tất thì chẳng nên sờ vào thân thể của hành giả hành thiền. Những âm thanh va chạm hay sự bất cẩn của những người bình thường và sự si mê ám thị có thể sẽ làm hỗn loạn người đang trên con đường trầm tư của tiến trình có tính cách quyết định của họ.

Đến khi tiến hành cho việc chết của người đó hoàn hảo, thiền định, cầu nguyện và những lễ nghi sẽ được thực hiện thông thường trong yên lặng hay ở một khoảng cách xa. Khi tiến trình của sự chết được hoàn thành thì sự cầu nguyện và nghi lễ cho người chết có thể được thực hiện lớn tiếng hơn, cả hai trong sự hiện hữu hoặc không hiện hữu của thân thể (người chết).

Khi giúp đỡ cho những người khác là chúng ta tự giúp cho chúng ta.

Sự cúng dường bảo trợ cho người sắp chết và người chết là cơ hội tốt cho việc học hỏi và thực tập trong hành trình của sự sống và việc chết. Khi chúng ta chứng kiến một vài người chết, chúng ta sẽ nhận được sự biểu thị hoạt phát của sự vô thường tự nhiên và sự chiến đấu vô ý vị của sự tồn tại ở cõi Ta Bà này. Đây là một công cụ đầy sức mạnh cho sự linh ứng của mỗi người để thực hành trong sáng cho tâm linh.

Tuy nhiên, nếu chúng ta chẳng dùng đến tình trạng mạnh mẽ như bài học kinh nghiệm, dầu sao đi nữa chúng ta chứng kiến xác nhận người chết và sự chết trong thời gian dài lâu, chúng ta lập tức trở thành người mất cảm giác cho kinh nghiệm này. Rồi chúng ta có thể sẽ trở nên vô cảm giống như một cục đá. Như vậy chẳng có vật gì có thể linh ứng hay tạo ra một vài sức đẩy cho chúng ta được.

Với người trợ tử phục vụ cho những người khác ở thời điểm cực độ nhất của họ của sự cần thiết là không những một cơ hội tốt để học hỏi, mà cũng là một cách tích cực của việc làm phước. Hơn thế nữa, người qua đời cũng làm phước là việc tốt, bởi họ là nguyên do của người trợ tử để làm việc phước thiện ấy. Với con đường này cả hai người trợ tử và một người nào đó được giúp đỡ cũng lợi ích. Như vậy chúng ta phải chú ý và hãy đón nhận cái chết ấy của người khác là một bài học và là một cơ hội để thực tập về tâm linh. Nếu chúng ta tự cho phép bởi chúng ta về kinh nghiệm của việc sắp chết và người quá vãng giống như họ đang là, thì trong tự nhiên thực tại đó sẽ không có lý do để cho chúng ta cảm nhận một vài sự giận dữ, sự phụ thuộc hoặc chấp trước về một người nào đó. Như vậy sẽ chẳng phải có cảm giác bất hoàn hảo để đưa đến nguyên nhân của sự khổ đau, sự sợ hãi hoặc sự hỗn loạn. Rồi thì chúng ta có thể đón nhận có tính cách tự phát về sự hiểu biết của sự vô ngã trong tâm của chúng ta, sự hiểu biết của tự do từ sự chấp thủ. Điều này có thể hướng dẫn chúng ta đến sự thể đắc của sự an lạc và hoan hỷ tự nhiên ấy.

Một vài nguyên tắc quan trọng

Chúng ta nên nhớ những điều quan trọng đối với thành viên trong gia đình, là người trợ tử và người chăm sóc ở bên giường của người chết để tạo ra sự an lạc, yên tĩnh và kính phục. Hằng ngày trong điều kiện cá thể, không nên có người nào đó nói về hoặc ngay cả suy nghĩ đến một vài việc thường tình sẽ tạo nên sự bất an cho người ấy. Tâm thần của người mất đang trôi nổi chung quanh đây hoặc thăm viếng lại ngôi nhà xưa của những người thương yêu và bạn bè. Đồng thời nếu họ nghe hoặc thấy được một vài việc chẳng hài lòng, bất chánh hoặc vô lễ thì điều ấy sẽ bất an cho tâm hồn họ. Nếu tâm thức họ trở nên giận dữ, buồn bã hoặc kinh ngạc thì điều ấy giống như xô đẩy người kia vào nơi hành trình khổ ải và một sự tái sánh ở cảnh giới nhiều đau khổ hơn. Những người bao quanh người chết hoặc thi thể đó là bạn bè, đặc biệt là những người bạn tinh thần. Điều quan trọng là không nên cho những ai có mặt ở đây, mà người đó nếu không có tinh thần vững chắc, hoặc người quá cố hay giận dữ người đó.

Hãy đừng sờ vào phần phía dưới của cơ thể cho đến khi việc tiến hành cho người chết được đầy đủ hoàn toàn. Khi mà ở đó chẳng có nóng mà tim và mạch máu ngưng chảy; sự hiểu biết của người chết từ giả thân thể vật lý và tiến hành việc chết đã được hoàn hảo.

Khi người đang trong quá trình đến cái chết thì chẳng nên ngồi gần bên dưới thân thể của họ hoặc ở hướng nơi đầu những ngón chân. Chẳng những với bạn mà ngay cả một vài đồ vật của tôn giáo cũng không nên đặt ở chung quanh phần phía dưới của cơ thể hoặc nơi hai bàn chân. Dựa theo những lời dạy rằng nếu bạn gây sự chú ý cho người mất khiến họ tập trung ở bên dưới của cơ thể, tư tưởng của họ phải xuyên qua ra khỏi một trong những tĩnh mạch dưới thấp ở thời điểm tắt hơi. Phần tĩnh mạch thấp hơn có thể trở thành cánh cửa cho sự tái sanh vào cảnh giới thấp kém. Vì vậy, điều nên làm là giúp cho người ấy dẫn cô ta hoặc cậu ta được tập trung về phía trên. Điều này có thể thực hiện bởi sự rờ nhẹ ở đỉnh đầu (nếu nó chẳng phải là việc chẳng tốt trong văn hóa của bạn); hãy ngồi bên cạnh của người mình thương yêu ở một bên của cái đầu (bên vai chẳng hạn) và đặc biệt để những vật dụng của tôn giáo hoặc bàn thờ sau cái đầu và hãy tụng kinh cầu nguyện ở phía bên trên hoặc hướng về hướng của cái đầu hơn là hai bàn chân.

Sau một vài ngày đã quá vãng, hãy giữ những vật sở hữu của người ấy trong chỗ chính xác mà thường thường họ thích để nó ở đó. Như vậy bạn sẽ tránh theo sự hiểu biết của họ, khi những đồ vật ấy còn ở chung quanh gần thân thế họ trong một thời gian.

Điều rất quan trọng là không nên để cho người chết, thân thể của họ hoặc ngay cả kỷ niệm của họ trở nên phụ thuộc của đối tượng giận dữ và ghét bỏ hoặc sự phẫn nộ trong tâm thức của bất cứ ai, kể cả những người trong gia đình, bạn bè và những người láng giềng. Nếu người ấy trở thành nguồn gốc của những tư tưởng xấu tệ và những sự cảm kích hay góp phần để tạo ra vòng nghiệp lực tệ hại, thì chúng sẽ khổ đau từ những hiệu quả bịnh hoạn ấy.

Nếu bạn có một vài vật được gia trì mà có thể ăn, có thể uống, hay có thể mặc, hãy đem những đồ này cho người chết ăn, uống hoặc bỏ vào đấy trong khi họ vẫn còn ý thức. Trong truyền thống của Phật giáo Tây Tạng những vật gia trì này (vật ngon, mỹ vị) trong hình thức của chất bột hay đồ thô sơ được làm từ thảo mộc trộn lẫn nhau với những vật liệu được gia trì cũng như cúng bái trong nhiều ngày với lễ nghi của những người cầu nguyện hay thiền định. Nhiều vật dụng ấy được tin rằng để giúp cho người chết đạt thành sự giải thoát, nếu chúng được nếm, ngửi hoặc sờ vào với sự tin tưởng và tin dùng. Những người Tây Tạng cũng xử dụng những hình vẽ của Thần Thánh cùng với hình ảnh của chư Phật hoặc những đồ hình Mạn Đà La bằng giấy, phụ thêm vào bên cạnh việc cầu nguyện và thiền định. Những vật này được chú nguyện và được xếp nhỏ lại và giữ trong thân thể trong khi người chết vẫn còn sống và rồi đem hỏa thiêu cùng với thân thể của người ấy sau khi chết. Nhiều hình vẽ được vẽ trên giấy và với sự xác tín, tin tưởng, người ta cho rằng sẽ giúp đỡ cho người quá cố đạt đến sự giải thoát.

Phụ thêm vào đó những người trợ tử có thể bỏ những vật được chú nguyện vào trong miệng của người quá cố hoặc phun vào hay đặt chúng vào thân thể của người ấy sau khi chết. Tuy rằng thần thức đã ra khỏi thể xác và thân thể này vẫn còn là một dấu hiệu chính qua nghiệp lực của người ấy kết nối với thế giới vận mệnh của người chết. Cái nhìn về thi thể ở lãnh vực tinh thần – bởi sự sám hối dạy cho nó và gia trì nó – bởi vì muốn giúp trực tiếp hay gián tiếp cho người quá cố. (Nếu tâm thức của họ còn ở gần đó và đón nhận sự lợi ích ấy). Ở Tây Tạng những thi thể thường giữ lại trong nhiều ngày; trong khi những người trợ tử vẫn tiếp tục thực hiện những lễ nghi thanh tẩy cho tử thi như là sự biểu hiện của người quá cố (nếu tử thi không thể giữ lại được thì thay vào đó được xử dụng một tấm hình của người mất).

Trong truyền thống văn hóa của Tây Tạng tử thi được gìn giữ lại trong nhiều ngày hoặc nhiều tuần lễ (có trường hợp để đến 49 ngày) trong khi những Lạt Ma thực hiện tiếp tục những buổi lễ cầu nguyện và những lễ nghi khác (như chúng ta có thể thảo luận ở chương tới về nghi lễ phục vụ cho người chết và người quá cố). Nhưng nếu tử thi đã được thiêu rồi sau một ngày, tử thi ấy sẽ chẳng có tác dụng gì về tâm thức của người quá cố. Tuy rằng tâm thức của người quá cố được trong sáng hơn hay nhạy bén hơn ngay khi họ còn sống; có một vài điều mà họ không thể thấy được; hay điều kia được nhìn thấy ở những hình thức khác. Thân xác của họ được xem là có tính cách tuyệt đối trong dạng này. (ví dụ như trong chương mục của người trở về từ cõi chết, Denma đã nhìn thấy tử thi của ông ta như là một cái tháp bằng lưu ly; Chokyi thấy cô ta như một con rắn và Changchub thấy ông ta như một tử thi của một con chó). Tuy nhiên nếu tử thi ấy có thể giữ lại trong nhiều ngày có thể là một sự trợ lực lớn, vì sự sống với thân thể hữu cơ nhiều như những vi khuẩn và năng lượng của sức mạnh đời sống sẽ có một cơ hội cho việc chết đi có tính cách tự nhiên. Đây là việc quan trọng đặc biệt không thể xử lý của thân thể nếu một vài tín hiệu nóng ở trên đầu. Nếu như vậy thì sự nhận thức của người ấy vẫn còn ở tại tử thi kia. Nếu bảo quản tử thi ấy trong vài ngày mà thấy có những trạng thái thay đổi xấu đi trong tâm khảm của những người khác và có sự thay đổi bất thường hoặc tranh luận giữa những người liên hệ hoặc láng giềng, thì đó chính sẽ là nguyên nhân rõ ràng về cái nghiệp không tốt lắm, hơn là sự lợi ích cho người mất. Nếu quả thật như vậy thì phải chứng minh bằng sự xử lý tử thi ấy càng sớm càng tốt. Sự quyết định tiêu biểu ấy không phải là câu hỏi cá biệt của sự đúng đắn hay việc chọn lựa, thế nhưng đó là những gì tốt hơn và hữu ích hơn cho người đã quá cố và cho chính bạn giống như khi còn sống.

Điều tối ư quan trọng là nên giữ sự yên lặng, an lành nội tâm và không khí trong việc thuận theo sự thăng tiến an lạc và hoan hỷ nhiều hơn. Sự an lạc và hoan hỷ ấy sẽ mang đến nhiều sự an lạc và hoan hỷ hơn. Đây chính là định luật của nghiệp lực, là chủ trương tự nhiên của nhơn quả vậy.

CHẾT AN LẠC TÁI SINH HOAN HỶ
Nguyên tác Anh ngữ: Peaceful Death, Joyful Rebirth
của đại sư học giả Tulku Thondup
Việt dịch: HT. Thích Như Điển & TT. Thích Nguyên Tạng
Chùa Viên Giác Hannover, Đức Quốc
Tu Viện Quảng Đức, Melbourne, Úc Châu ấn hành 2011

Chương 09

NGHI THỨC CHO NGƯỜI HẤP HỐI VÀ NGƯỜI CHẾT

Con đường tới phát nguyện hồi hướng và an địnhDo những bậc chứng ngộ với tâm đại trí huệ soi sángQua đại dương vô lượng chư vị Tổ sư và hành giảMãi là con đường an toàn đến Tịnh Độ Lạc Quốc.

Phục vụ nghi lễ cho người sắp mất và người quá vãng là những nhu cầu thông thường của các tôn giáo trên thế giới. Chúng thường thường phục vụ cho cả hai mục đích. Đó là cho sự buồn tủi của người còn ở lại, chúng dụng ý là giúp đỡ trong sự tiến hành của việc nhập lễ tiễn biệt với người thân yêu của họ, trong khi đối với người quá cố, họ hy hiến bảo trợ và giúp đỡ trên tiến trình sau khi quá vãng, xuyên qua sự cầu nguyện và hình thức của nghi lễ.

Sự phục vụ của Phật Giáo và những lễ nhạc mà tôi mô tả trong chương này cũng sẽ là sự lợi ích cho cả hai, người quá vãng và người còn lại. Những điểm chính yếu hướng tới kia chẳng phải là điều cần thiết để giúp cho người quá cố đạt được sự giác ngộ hoặc là vượt khỏi thế giới Ta Bà này. Thay vào đó, chúng là những sự cố ý có tính cách căn bản để giảm thiểu hoặc để dẹp bỏ khái niệm xấu tệ cũng như sự cảm kích kia. Những điều ấy là những nguyên nhân đơn độc của sự khổ đau, sợ hãi và tái sanh vào cảnh giới thấp hơn. Nghi lễ của Phật Giáo cho người quá vãng (lễ cầu siêu) cũng để giúp cho những hành vi về sự tích chứa công đức được thành tựu cho người đã quá vãng, xuyên qua năng lực của những khái niệm tốt đẹp và những sự cảm kích, những điều này là nguồn năng lượng trực tiếp về sự an lạc, hoan hỷ và tái sanh ở cảnh giới hạnh phúc (ví dụ như cảnh giới người và cảnh giới Chư thiên) hoặc là cõi Tịnh độ sáng sủa.

Truyền thống về nghi lễ cho người chết

Lễ cầu siêu của Phật Giáo Tây Tạng được thực hiện bởi những vị Lạt Ma và những tín đồ tùy theo từng trường phái của Phật Giáo và theo từng vùng tại Tây Tạng. Lễ cầu siêu được trình bày trong chương này là căn bản của truyền thống Nyingma (Cổ mật) thực hiện ở tỉnh Golok thuộc miền Đông Tây Tạng, nơi mà tôi (tác giả Tulku Thondup) đã được sinh ra và được huấn luyện tại đó.

Lễ cầu siêu thường được thực hiện bởi những vị Lạt Ma, những vị Tăng sĩ cao tuổi hay những vị Thầy được mật truyền về Tôn Giáo tương đương với một Giám mục hoặc những giáo sĩ ở truyền thống văn hóa Tây phương. Nếu vị Lạt Ma ấy được huấn luyện tốt thì sự thực hiện nghi lễ cho người mất sẽ có nhiều hiệu quả. Người mà với danh nghĩa là Lạt Ma hay với danh xưng gì đó không mang đến nhiều năng lực hơn là bất cứ một người nào. Thay vào đó bất cứ người nào cũng có thể thực hành nghi lễ được đề cập trong quyển sách này là những vị có những sự thực tập trong sự thiền tập và cầu nguyện.

Trong một vài nơi và trong một vài truyền thống của Tây Tạng lễ cầu siêu làm rất yên lặng, đơn giản. Những Lạt Ma hay những tín đồ trợ tử đọc kinh cầu nguyện, cúng dường dâng tiền của, thực phẩm, đồ trang sức hay thú vật cho Tu Viện, chùa Ni hay cúng dường trực tiếp cho Tăng Ni hoặc những người nghèo khó. Tử thi thì được thiêu hay đem làm thức ăn cho kênh kênh như là sự cúng dường cho đức Phật và những vị Thần linh (tuy vậy Phật và Thần linh chẳng ăn). Sự thực tập này là một sự thiền định và thực hiện lễ nghi để huấn luyện tâm thức của chúng ta, để có một sự nhận thức tốt đẹp, xem tất cả như sự trong sạch và gieo trồng sự khoan dung, quy ngưỡng cũng như để buông xả. Một trong những lễ nghi Tôn Giáo quan trọng là hạn định nhiều sự lặp lại của sự hăng say cầu nguyện như: “hăng say cầu nguyện cho vua chúa, hăng say cầu nguyện cho những hành vi tốt đẹp’’ cùng với việc cúng dường phong phú về đèn, hương, hoa quả.

Ở một vài địa phương khác của Tây Tạng, lễ cầu siêu được phong phú nhiều hơn. Những vị Lạt Ma được mời đến nhà của người quá vãng để chủ trì những nghi lễ cầu nguyện cả tuần lễ trước khi qua đời và sau đó cả bảy tuần lễ hoặc vẫn còn tiếp theo sau khi mất nữa.

Thời gian kéo dài và sự tưởng niệm của những lễ nghi ấy được quyết định bởi tài sản cuả gia đình người quá cố. Để bảo trợ cho lễ cầu siêu, nhiều gia đình đã xử dụng nhiều việc qua sự phân chia tài sản của gia đình về vật sở hữu của người quá vãng.

Nghi thức Tôn Giáo cho người sắp lâm chung

Điều có tính cách quyết định là chúng ta đang thực hành giáo pháp trong khi vẫn còn sống, bởi vì điều này sẽ là nơi chốn của chúng ta trong con đường tinh thần của chúng ta và gieo trồng sự tự tin vào đó. Rồi thì chúng ta sẽ sẵn sàng ứng dụng vào những kinh nghiệm mặc nhiên của chúng ta cho sự ra đi của mình khi mà ngày ấy sẽ đến. Vị Rinpoche Dodrupchen thứ 3 đã viết.

‘’Khi mà thời điểm của cái chết hiện ra, lúc đó có thể rất khó tập trung cho một vài sự hiểu biết để khởi đầu cho việc thiền định. Như vậy bạn phải chọn một sự thiền định trong sự thăng tiến và kết chặt tâm bạn với điều ấy, càng nhiều càng tốt như bạn có thể. Thiền định có thể hồi tưởng lại một vị Phật, cảm nhận một lòng từ bi, năng lượng của việc quy y hoặc là thể đắc về tánh Không.

Như thế cứ lặp đi lặp lại nhiều lần rằng: “ở vào thời điểm tắt hơi, tôi sẽ chẳng để cho chính tôi bị cuốn hút vào một vài tư tưởng xấu ác”. Thành tựu sự trong sáng mặc nhiên và sự an lạc trong tâm thức của bạn, điều quan trọng là hãy hành Thiền nhiều lần, tốt nhất là trước khi cái chết đến với bạn. Rồi thì khi mà thời gian lâm chung đến, bạn có thể chết với sự hiểu biết đúng đắn. Một vài hành vi đức hạnh mà bạn đã thực hiện như thế nào đó thuộc về hoặc là vật lý trong thiên nhiên – trong khi bạn còn sống và đặc biệt là trong khi bạn còn nằm trên giường ở trạng thái lâm sàng – sẽ là một sự lợi ích lớn lao đối với cuộc đời tương lai của bạn. Những nghi thức nhiều cho sự tẩy tịnh, làm phước, quyền năng và sự hồi hướng là những việc quan trọng để thực hiện trước khi chết, thế nhưng ngay cả sau khi chết cũng tốt.

Tẩy tịnh

Để đạt được cuộc sống của bạn trong hiện tại, hay trên hành trình tương lai sau khi quá vãng và sự tái sanh của bạn được tự do từ những sự khó khăn cũng như sự chướng ngại. Điều ấy thật là quan trọng để tẩy rửa kết quả những nghiệp lực bất thiện của bạn trong quá khứ. Tất cả những điều khuyết điểm trong đời sống của bạn và ngay cả cuộc sống trong tương lai sẽ là nguyên nhân để sản sinh ra những nghiệp lực bất thiện ấy. Chỉ có cách duy nhất là tẩy tịnh những nghiệp lực khổ não này. Chúng là những nguyên nhân có thể làm cho cuộc đời của bạn thăng tiến hơn. Đây chính là việc có thể so sánh được để sửa đổi lại sức khoẻ có tính cách vật lý của bạn bởi việc Tẩy tịnh cho những hệ thống độc tố ấy. Xuyên qua sự tẩy tịnh, bạn sẽ vô hiệu được những hành vi sai trái và những kết quả kia.

Một vài phương cách của những việc làm thiện hoặc là những sự thực tập có thể đưa đến kết quả với ý nghĩa của sự tẩy tịnh. Thực hiện việc tẩy tịnh ấy bao gồm cả thiền định với đức Phật và cầu nguyện cho sự lợi ích của tất cả chúng sanh. Những điều ấy có thể đòi hỏi nói ra trong khi cầu nguyện và thực tập một vài việc hành thiền cho việc Tẩy tịnh từ nơi sâu thẳm trong đáy lòng của bạn. Một vài phần trong nghi lễ cầu siêu cũng là sự tô bồi thêm để thành tựu cho sự Tẩy tịnh ấy.

Giữa những sự thực tập đặc biệt của Phật Giáo là để trang bị đặc thù cho việc Tẩy tịnh . Đó là: ‘cáo bạch trước 35 vị Phật của việc sám hối’. Và sự cầu nguyện cũng như thiền định với đức Phật vajrasattva (Kim Cương Tát Đỏa). Việc thực tập sau cùng là hòa quyện vào bốn ‘năng lực’. Năng lực đầu tiên là nguồn năng lượng của sự sám hối với đức Vajrasattva (Kim Cương Tát Đỏa) ở bên trên bạn, trong bầu trời, bạn tin tưởng vào Ngài như quán tưởng bậc giác ngộ tự nhiên và những chất lượng của tất cả mọi việc. Thể hiện sự giác ngộ ấy như là nguồn năng lượng của sự sám hối. Thứ hai là năng lực của việc ăn năn hối cải. Nếu bạn cảm thấy hối hận nhiều cho những việc làm sai trái mà bạn đã tạo ra trong quá khứ thì sự sám hối của bạn sẽ được lắng xuống sâu trong tâm thức của bạn. Điều thứ ba là năng lực của phạm hạnh. Nghĩa là làm cho những phạm hạnh được mạnh hơn ngăn ngừa không cho lặp lại những điều sai trái trong tương lai nữa. Điều thứ tư là sức mạnh tự thể của việc sám hối. Sự cầu nguyện nên hành trì Thần chú như OM VAJRASATI VA HUNG (hoặc HUM), “Bạch Ngài Vajrasattva (Kim Cương Tát Đỏa”), sẽ rửa sạch để xa rời tất cả những việc nhơ bẩn của những hành vi bất thiện thuộc thân thể và tinh thần của bạn, mà nó không còn lại những vết tích nào phía sau. Cũng như vậy, bạn có thể sám hối cho người quá cố hay những chúng sanh khác. Hãy luyện tập tâm hồn của bạn bởi nhiều sự tiến hành cho việc sám hối với những hình ảnh tốt đẹp và thánh thiện, cảm giác sâu thẳm và sự tin tưởng mãnh liệt sẽ giúp cho việc Tẩy tịnh để có kết quả về những nghiệp bất thiện của bạn ở nền móng căn bản ấy.

Thế nhưng nhiều sự thực tập đặc biệt có hữu hiệu trong việc sám hối; một vài hành vi tốt đầy đủ ý nghĩa của việc sám hối; đặc biệt nếu bạn nghĩ như vậy, hoặc giả hồi hướng những công đức cho mục đích ấy. Ví dụ như một vài ví dụ khác của sự thực hiện sám hối là giúp đỡ cứu mạng sống và bảo bọc tình yêu thương cho kẻ khác từ sự hiểm nguy; hãy cho một vài món quà cho kẻ cần đến, hay những chương trình Tôn Giáo với tấm lòng độ lượng; hãy bảo trợ những chương trình có tính cách lợi ích xã hội từ thiện hoặc phục vụ Tôn Giáo với thái độ trong sáng của tâm thức. Đồng thời xây dựng những căn nhà bảo hộ hoặc những tấm bia kỷ niệm thuộc về Tôn Giáo với ý chí để làm lợi ích cho kẻ khác.

Chúng ta cũng có thể giúp đỡ tẩy sạch những hành vi sai trái và tạo nên phạm hạnh cho những người khác. Nếu chúng ta nói là cầu nguyện, thực tập Thiền quán hoặc tổ chức thực hiện những việc riêng biệt cho sự tẩy uế cho những người khác; hoặc giả hồi hướng những phước đức cho việc Tẩy tịnh về những việc làm sai quấy của những kẻ khác, thì chúng ta có thể đạt được thành tựu cho việc này. Nhưng mà sự cố gắng của chúng ta sẽ đưa đến kết quả như thế nào? Nếu những hành vi ác độc của một người là quá đổi thì sự nỗ lực trong giới hạn của chúng ta chẳng thể làm xóa nhòa vết tích được. Nếu người ấy chẳng sẵn sàng hướng đến chúng ta, xuyên qua niềm tin hoặc ngay cả những thái độ của tâm để được cảm mến. Nếu họ và chúng ta chẳng hề cộng nghiệp tiếp nối như là con đường thủy lưu để cần sự giúp đỡ nhiều; hoặc giả nếu sự cầu nguyện của chúng ta yếu kém hay không thanh tịnh, thì sự thực tập tẩy uế của chúng ta chẳng có một kết quả nào cả. Tuy nhiên chúng vẫn giúp đỡ được người mất một phần nào nếu những hành vi sai trái của người ấy “có thể tẩy rửa được’’, nếu họ tin tưởng vào chúng ta hoặc ít nhất cảm mến chúng ta và những gì chúng ta làm, nếu chúng ta liên hệ nghiệp lực với họ và nếu những sự thực hành của chúng ta là đủ mạnh thì chúng ta sẽ chắc chắn có thể tẩy sạch được những hành vi sai trái tội lỗi của người kia. Nếu một vị Thầy gương mẫu thực hiện bởi sự cầu nguyện đặc biệt, thiền tập hay những nghi lễ thì dù người mất có phạm hạnh mạnh mẽ về những hành vi tệ hại thì tất cả sẽ được tẩy trừ và người này sẽ được giải thoát, bởi năng lực của những vị Thầy và nhờ vào sự Tẩy tịnh của thiền định. Như vậy ở đây không có một câu trả lời đơn giản và tất cả lần lượt được quyết định bởi nhiều nhân quả và điều kiện, giống như trong mọi bộ mặt của cuộc đời. Ngay cả nếu chúng ta hoàn toàn chẳng thể làm sạch cho một vài người và ngay cả chỉ làm sạch được một ít thôi cũng sẽ giúp gia tăng lớn lao ở vào tình huống của sự ra đi ấy. Như vậy thì, nếu một người qua đời là sự linh ứng cho chúng ta thực hiện sự sám hối cho họ với sự quy y vĩ đại với đức Phật, thì chúng ta sẽ tạo ra một công đức lớn và điều ấy quay lại sẽ là nguyên nhân của phước đức để làm cho một người mà họ tạo sự linh ứng cho tất cả. Xin lập lại một lần nữa là: nếu chúng ta làm việc phước đức, những phước đức này sẽ tăng trưởng với tính chất tốt đẹp của chúng ta và sự giảm bớt, hay Tẩy tịnh của những phẩm chất kém của chúng ta.

Tạo công đức

Để hưởng được an lạc về sự hòa bình và hạnh phúc của đời sống cũng như sự tái sanh, điều quan trọng là tích tụ những phước đức và gieo trồng vào đấy những phẩm chất của thiện nghiệp. Bất cứ hạnh phúc nào và sự hòa bình gì mà bạn đang vui vẻ đón nhận ngày hôm nay là kết quả trực tiếp từ những sự tích chứa công đức của những hành vi trong quá khứ. Để cải thiện hơn nữa cho đời sống tương lai của bạn, bạn phải tiếp tục thực hiện nhiều việc phước đức hơn nữa bởi sự thực hiện những hành vi đức hạnh. Ngay cả như bạn đạt được một trạng thái vật lý tốt đẹp của một chúng sanh do nhờ thân thể của bạn với sự thích đương như ăn uống đầy đủ và sự thực tập. Như vậy bạn phải để ý đến lãnh vực tinh thần qua sự làm phước.

Bất cứ những thiện nghiệp nào hoặc việc phụng sự sẽ thể hiện ý nghĩa của việc tạo phước đức. Bạn sẽ chứa nhóm phước đức bởi qua lời kinh cầu nguyện và sự thực tập thiền định. Bạn thể hiện việc phước đức ấy qua sự phục vụ cho người nghèo, thực hành hạnh cúng dường cho những chương trình Tôn Giáo, cứu trợ và sự tô bồi cho cuộc sống (ví dụ như mua và phóng sanh những thú vật gia súc), xây dựng cũng như chùi rửa đường sá, xây dựng và tu bổ chùa viện và lập những bia kỷ niệm, bảo trợ hay thực hiện những buổi lễ cầu nguyện và thiền định với tình yêu thương, sự kính trọng cũng như sự quy ngưỡng.

Truyền pháp

Truyền pháp hoặc mật truyền là những hiệu quả cao như là ý nghĩa của sự Tẩy tịnh về những việc làm và hành động sai trái, bổ sung mạnh hơn những hành vi đức hạnh, nhớ lại những kinh nghiệm tinh thần trong quá khứ và những việc đạt thành, nhìn xem con đường giải thoát hoặc cõi Tịnh độ, giới thiệu đến chư Phật và cõi Tịnh độ, trao tặng sự gia trì của chư Phật và giác ngộ trí tuệ có tính cách căn bản; hoặc Phật quả, của sự thọ lãnh. Việc truyền pháp giống như là: “sự giải thoát khỏi sáu cõi”có thể tổ chức cho những người nào đang qua đời. Nhiều nghi thức này Tẩy tịnh những nghiệp bất thiện cho người chết, những chủng loại ấy sẽ Tẩy tịnh nghiệp bất thiện của người mất. Nếu không sẽ là nguyên nhân khác tái sanh vào những cảnh giới đau khổ. Chúng sẽ giúp cho việc tích tụ phước đức, là nguyên nhân của sự tái sanh vào cảnh giới an vui.

Chúng sẽ mang đi xa hơn những sự gia trì của chư Phật để đánh thức tâm thức giác ngộ hay việc sanh về cõi Tịnh độ. Dĩ nhiên điều ấy sẽ rất là quan trọng cho người hướng dẫn hoặc người thực hiện của những lễ cầu siêu và sẽ được thành tựu trong thiền định hoặc ít nhất là rèn luyện tốt cho những nghi lễ đặc thù này. Như vậy nếu đây là sự liên hệ những tinh thần tốt đẹp giữa người thực hiện và người quá cố, thì sự lợi ích sẽ có được nhiều kết quả. Ít nhất cũng sẽ được điều hòa nối kết lại giữa chúng với nhau.

Nếu nghi lễ tinh xảo cũng như sự truyền pháp chẳng thể thực hành được, thì một vài sự cầu nguyện hay thiền định được tổ chức với tình thương yêu của tất cả chúng sanh cũng như cho người chết; hoặc giả với sự quy ngưỡng về chư Phật, sẽ là sự hữu ích cao cả. Đặc biệt nếu những phẩm hạnh ấy được hoàn thành bởi những hành giả hành thiền. Một việc phụng sự thích nghi phải khảo sát kỹ càng nơi người tụng kinh cầu nguyện, niệm danh hiệu của chư Phật hoặc chư vị Bồ Tát, lập lại những câu Thần chú hay tổ chức một vài lễ nghi đơn giản. Hiện nay có rất nhiều bản văn nghi lễ và nghi thức cầu nguyện bằng tiếng Tây Tạng. Tôi sẽ giới thiệu một nghi lễ rất ngắn về cõi Cực Lạc, có nơi bản phụ lục A. Ngoài ra việc thực hiện một phowa (chuyển di thần thức) bởi một vị Thầy hoàn hảo sẽ là một sự lợi ích đặc biệt cho người thực hành, cả hai kéo dài sự tiến hành cho người chết và sau khi chết. Một bài tụng về phowa ngắn với sự giải thích có sẳn nơi phụ lục B.

Sự hồi hướng và lòng thành của người cầu nguyện

Sau khi thực hiện một vài việc làm có tính cách đức hạnh như cầu nguyện, điều quan trọng là hồi hướng những phước đức ấy cũng như tạo ra một lòng thành khẩn. Việc hồi hướng những phước đức được gia tăng với sức mạnh của chỉ số, sự vĩ đại của phạm vi hồi hướng, sự vĩ đại của sức mạnh. Như vậy việc hồi hướng những phước đức không hẳn chỉ để hồi hướng cho họ mà còn cho tất cả chúng sanh, bởi vì đây là nguyên nhân của hạnh phúc và sự giác ngộ của họ. Rồi những phước đức to lớn ấy sẽ trở ngược lại với họ.

Sau đó sẽ làm việc dâng tấm lòng thành. Đây là một cách để đến được công đức cho một mục đích riêng biệt và xa hơn làm cho sáng tỏ điều ấy. Xử dụng sự hồi hướng về công đức của bạn như là một chủng loại để tạo ra sự nhiệt vọng đối với tất cả chúng sanh có thể an lạc với thành quả của hạnh phúc và tái sanh về cõi Tịnh độ.

Đặc biệt chúng sanh ở trung ấm thân cần chúng ta hồi hướng những công đức và tạo ra lòng thành cho họ. Nếu chúng ta lặp lại sự hồi hướng bằng bất cứ công đức gì mà chúng ta và người chết chứa nhóm được chẳng cần biết ít hay nhiều, đều cần cho sự tái sanh của người mất và tất cả chúng sanh về cõi Tịnh Độ. Chúng ta có thể chắc chắn rằng phước đức ấy sẽ là nguyên nhân của thành quả kia.

Bạn cũng có thể tụng kinh và thiền tập với sự cầu nguyện đức hạnh cho sự hồi hướng và lòng thành, ví dụ như kinh Bhadracharya – pranidhanaraja sutra (kinh về vua của nhiệt vọng của những hành vi tối thiện). Bản kinh Đại Thừa này, lấy một phần của kinh Buddhavatamsaha (Kinh Hoa Nghiêm) dạy cho chúng ta hồi hướng phước đức như thế nào và tạo ra lòng thành như là Samantabhadra (Kinh Phổ Hiền) đã thực hiện. Những người chết có thể được tùy hành bởi sự ban cho sự gia bị trên đồ vật được nếm giống như vị cam lồ và việc còn sót lại của Thần Thánh hay những đối tượng có tính cách lễ nghi được gia trì, hay những đồ này được đặt trên tử thi. Những thành viên của truyền thống Nyingma sở thuộc riêng biệt vào dấu hiệu nơi chốn gia trì bí mật, biểu đồ của Thần Thánh về những âm điệu được viết bởi chữ Ấn Độ cổ đại hay tiếng Tây Tạng, được biết như ‘giải thoát bởi sự va chạm’’ và những biểu đồ Thần Thánh ở nơi quả tim hoặc ở những bộ phận khác của thân thể.

Phục vụ Tôn Giáo trong thời gian của người chết.

Vào thời gian qua đời, có nhiều việc phục vụ thuộc về Tôn Giáo như cầu nguyện và thiền định, điều ấy là dụng ý của sự an lạc, tình thương yêu và không khí gia trì, những điều này rất là lợi ích. Những nghi lễ dưới đây là một vài việc phục vụ có ý nghĩa mà những vị Lạt Ma Tây Tạng hay cúng hiến.

Hướng dẫn cho người bình thường.

Thời gian tốt nhất để đón nhận sự hướng dẫn, cố vấn hoặc dạy dỗ là trong khi chúng ta vẫn còn sống. Như vậy chúng ta có thể nghe và hiểu những gì mà người hướng dẫn nói cho mình. Những người hướng dẫn phải cho những lời khuyên bảo, những điều nào làm cho tâm mình được mở ra và những gì chúng ta có thể tiêu hóa hấp thụ được. Nếu một người qua đời kháng cự lại việc chấp nhận tiếp cận của sự chết thì không nên hướng dẫn trong thời gian này. Thay vì phải dùng những điều tốt để giảng dạy những việc thông thường hay về sự trị liệu. Điều ấy sẽ chẳng làm cho người ấy lo sợ, mà sẽ dụng ý cho một vài cảm giác của sự an lạc và sự hiểu biết.

Nếu người qua đời cũng sẵn sàng nghe được về sự chết của chính họ thì họ sẽ hồi tưởng lại về sự thiền định cũng như những năng lượng gia trì của họ. Những người hướng dẫn nên cho họ biết những gì chờ đợi trong hành trình đi đến sự chết, tự nhiên sau cùng và trung ấm thân phải đối xử như thế nào với những kinh nghiệm này.

Ngài Dodrupchen Rinproche toát yếu những điều quan trọng cho người chết, thâu tóm ở thời gian chết như sau:

Bạn phải nghĩ về những điều sau đây nhiều lần. Hãy nghĩ về việc chết ấy! Cái nào bây giờ đã đến với bạn, sẽ xảy ra cho tất cả. Hãy để cho tất cả những gì phụ thuộc rời khỏi như yêu mến một người nào ngay đến cả những sự sở hữu và năng lực. Ở trước đấng Giác Ngộ hãy ăn năn những tội lỗi và Tẩy tịnh tất cả những hành vi sai trái mà bạn đã tạo ra trong đời sống hiện tại hay những đời sống thuộc về quá khứ. Cả hai là biết hoặc chẳng biết. Hãy tự phát nguyện cho chính bạn và với đấng Giác ngộ rằng bạn sẽ chẳng tạo những hành vi sai quấy ấy một lần nữa. Đối với việc ấy đã thực hiện với tâm thức của bạn,với sự cảm nhận của sự hoan hỷ ấy, sau đó bạn chẳng cần phải lo lắng nữa. Hãy nhớ lại tất cả những hành vi đức hạnh mà bạn đã thực hiện trong quá khứ và hãy nên vui vẻ, bởi vì chúng hay lặp lại nhiều lần, không phải một vài sự tự hào hay ngã mạn và Ngài còn dạy thêm rằng: Hồi hướng những công đức và tạo nên những sự nhiệt tâm trong nhiều lần; hãy suy nghĩ và nói rằng: ở giữa cuộc đời liên tục của tôi, mong rằng tôi có được sự thực hiện bởi bản chất của con đường giác ngộ. Nguyện rằng tôi được hướng dẫn bởi những vị Thầy đức hạnh. Cầu nguyện cho tôi có được tài sản của sự xác tín, siêng năng, hiểu biết và sự tỉnh thức. Cầu nguyện cho tôi chẳng hề bị khổ sở bởi những người bạn thiếu đức hạnh cũng như những hành vi khổ não’’.

Điều vô cùng quan trọng là có được những tư tưởng đạo đức ở vào thời điểm quá cố. Ngài Dodrapchen nói rằng:

“Trong nhiều kinh điển đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã dạy và kể nhiều câu chuyện để giải thích tại sao mà một vài người đã trở thành đệ tử của Ngài. Trong nhiều trường hợp, nguyên nhân chính yếu mà Ngài đã đưa ra, bởi vì những gì mà những người này đã tạo ra những nhiệt vọng đức hạnh khi họ đã chết. Như vậy những gì mà bạn mong mỏi thực hiện vào lúc tắt hơi thở sẽ có một sức đẩy rất lớn cho sự tái sanh của bạn’’.

Như đã nói bên trên, nghi lễ, Thiền định quan trọng gọi là phowa (chuyển di thần thức), có thể thực hiện cả hai cho trước hoặc sau khi chết (tham cứu trang 265 sách tiếng Anh). Sẽ được lợi lạc cho việc qua đời nếu bạn có thể hồi tưởng lại chính vị Thầy tinh thần của bạn, trong người bạn đã có sự tin tưởng về những lời dạy của họ và những vị Thần linh cũng như những kinh nghiệm về lãnh vực tinh thần mà bạn đã có lần quen thuộc. Như vậy thì với lòng từ bi phát triển nhiệt vọng để mang đến cho chúng sanh tiến đến Phật quả.

Sự hướng dẫn và phục vụ sự chết cho sự hoàn thành của người thiền định

Nếu người mất là một hành giả thực hành thiền định ở bậc hoàn hảo thì với Thiền giả có kinh nghiệm ấy hoặc bè bạn nên sẵn sàng hướng dẫn. Trong sự hướng dẫn này bạn hồi tưởng lại vị Thầy đã quá vãng của bạn để nhớ lại và thừa nhận sự thiền định cũng như sự liên hệ với họ và để làm sống lại những điều này. Nếu ở đấy không có những người trợ tử hoàn hảo, điều tốt nhất là phải cho phép những hành giả thiền định ấy ra đi trong tĩnh lặng, không nên có một vài sự quấy rầy. Những người học trò hay bạn hữu của Thầy mình nên hành thiền tụng đọc những lời cầu nguyện trong yên lặng. Hoặc giả ở khoảng cách xa với nhục thể ấy. Điều vô cùng quan trọng là hãy giữ gìn không khí với sự an lạc chung quanh sự ra đi của Thầy bạn, trong điều kiện có thể trong nhiều giờ hoặc nhiều ngày như thế.

Một vài vị Đại sư vẫn còn thiền định trong hơi thở nhiều giờ hay nhiều ngày sau khi đã tắt thở. Ở đó chẳng còn sự hoạt động của hơi thở hoặc tim mạch nữa; nhưng ở đấy sẽ còn một hoạt động nhỏ của hơi ấm nơi phạm vi của quả tim. Đây là dấu hiệu cho thấy rằng Đại sư bây giờ chưa rời khỏi thân thể và đang tiếp tục sống trong thiền định. Nếu như vậy thì tốt nhất nên giữ gìn thân thể yên ổn và giữ gìn không khí an lạc chung quanh đó. Nhưng nếu bạn cần phải di chuyển thi thể ấy, một vài người khác nên sẵn sàng giúp đỡ hoặc ít nhất một vài lễ nghi Tôn Giáo, thì điều này sẽ đánh thức Đại sư từ trạng thái tự nhiên yên tĩnh ấy. Nếu ở đây chẳng có một vị nào có thể giúp cho những hình thức nghi lễ, thì ngay cả tiếng linh của lễ nhạc hoặc tiếng chuông cầu nguyện hay thực hiện một vài bản nhạc Tôn Giáo, hoặc ngâm vịnh, những điều ấy sẽ đánh thức Đại sư từ sự tắc thở kia. Rồi thì bạn có thể chăm sóc nhục thể ấy một cách thích hợp với khả năng của bạn. Một vài người có thể dụng ý để bảo quản tử thi ấy với sự thay đổi thích hợp; trong khi những người khác thì có thể chỉ được bảo quản đơn giản hơn. Đối với một vị đại sư, đơn giản hay bảo quản một cách thích nghi sẽ không có gì khác biệt.

Tuy nhiên Tsele đã viết rằng: ‘Theo một vài học giả và những người đã thục luyện thì dẫu cho những giả định thông thường ấy là điều mà tất cả mọi người ai bảo lưu tử thi được trong thời gian dài lâu hơn sau khi chết trong thiền định thì điều này cũng chẳng phải chắc chắn đúng như vậy. Đôi lúc cũng có những vị có thể chấp trước vào thân thể của vị đó ngoài sự phụ thuộc ấy’’.

Đứng về phương diện truyền thống, những người đệ tử của vị đại sư ấy có thể thực hiện “sự nương tựa thiền định về đại sư’’ và nhận được bốn lần năng lực (như đã tường thuật ở trên về thiền định với Ngài Vajrasattva (Kim Cương Tát Đỏa). Hoặc họ cũng có thể tập trung lại vào “nghi lễ về sự sùng kính đại sư’’ và nhận được quyền năng bởi chính mình. Họ cũng có thể thực hiện những Tẩy tịnh và làm phước đến các vị Thần linh cho đại sư. Ngay cả nếu việc sám hối và phước đức chẳng là điều cần thiết cho những đại sư ở bậc tu chứng cao. Chúng sẽ lợi lạc cho những ai mà vị Thầy ấy liên hệ với những nghiệp lực. Điều quan trọng hơn cả là những người đệ tử nên Thiền tập cho những tâm thức của họ thống nhất với tâm giác ngộ của vị đại sư và hãy nghĩ tâm của họ là một. Nếu chẳng có một hình thức lễ nghi nào có thể, thì hãy nói một vài lời cầu nguyện, hãy thực hiện một vài sự thiền định mà bạn quen thuộc, điều ấy sẽ hữu ích hơn nhiều. Điều quan trọng nên nhớ rằng; có những điều ngược lại với người bình thường cần đến lễ cầu siêu thì những đạo sư chẳng cần đến hoặc có thể chẳng muốn có chúng. Điều ấy là lý do tại sao mà nhiều vị đại sư đôi khi cao hứng để ‘chết giống như con chó’’ mà họ hay nói. Ngay cả như một con chó hoang cũng có thể hít thở ở bên cạnh lề đường mà chẳng có một người nào đó lưu tâm đến. Vậy thì các vị đại sư cũng hy vọng rằng chẳng có một người nào lưu tâm đến sự chết của họ, như vậy họ sẽ được tự do để di chuyển từ kiếp sống này trong một phương pháp mà họ sẽ an lạc.

Phục vụ Tôn Giáo sau khi chết.

Nghi lễ trong mười ba nấc thang của sự chết là lễ nghi mà chúng ta xử dụng để thực tập khi mà tôi đã được lớn lên tại miền Đông xứ Tây Tạng. Việc thực hiện cho người chết bởi những hành giả luyện tập Thiền hay những tín đồ đã quy y, cũng có thể thực hiện trước khi qua đời hay trong khi người ấy mất. Lễ nhạc nầy thường thường có tên gọi khác nhau ở Tây Tạng. Được giới thiệu như là ‘Lễ nghi tử thể” mà nó có thể thực hiện bởi những vị Lạt Ma trong khi tử thi còn tồn tại Cũng còn gọi là : “Nghi lễ ngẫu tượng’’. Bởi vì lễ cầu nguyện này có thể được thực hiện với những ngẫu tượng thay vì tử thi. Một vài sự quy hướng về nghi lễ giống như “giải thoát từ các cõi’’. Trong ấy những vị Lạt Ma làm lễ Tẩy tịnh cho những chủng tử nghiệp lực của người quá cố mà điều ấy sẽ là nguyên nhân của sự tái sanh vào sáu cõi luân hồi. Tên gọi khác ở đây một cách đơn giản là: “Nghi lễ cho người chết’’.

Lễ cầu siêu của Tây Tạng thực hành giới hạn ở hình thức lễ bái của một trong nhiều thể thức của nghi thức hay chư Phật và những Mạn Đà La của họ hay Tịnh độ. Chúng bao gồm cả nghi thức của đức Phật Vô Lượng Quang (A Di Đà Phật); đức Phật của lòng từ bi (Quán Thế Âm Bồ Tát); đức Phật của sự Tẩy tịnh (Ngài Kim Cương Tát Đỏa); hằng trăm sự bình an và những vị Thần linh phẫn nộ, đức Phật của sự thanh khiết của cõi hạ cấp (Sarvavid Vairochava) và trừ khứ Thần chết (Vajrabhaivara). Tuy nhiên nghi lễ sẽ mang đến nhiều kết quả nếu như những người thực hiện chọn lựa một đức Phật và một vị thần linh với vị nào đó mà các Ngài cũng là quyến thuộc cũng như có sự liên hệ.

Sự tóm lược của mười ba nấc thang về nghi lễ cho người chết. Đầu tiên, ở phần có tính cách dự bị cho nghi lễ của người qua đời những vị Lạt Ma hay những người trợ tử tụng kinh và thiền tọa và quy y Tam Bảo rồi thì phát Bồ đề tâm.

Thứ hai, những điều này nên quán tưởng và hãy cho rằng họ là một vị Thần Linh, của đức Phật Từ Bi, ở nơi cõi Tịnh độ được chứa đầy vô số chúng sanh giác ngộ. Hãy trì tụng thần chú của đức Phật – Om Ma Ni Padme Hum (hoặc HUNG). Họ thấy, nghe và cảm nhận sự gia trì về sự hiện hữu cùng năng lượng của những vị Thần linh cùng cõi Tịnh độ. Rồi thì các Ngài phân chia ra gia trì ở thể thức của ánh sáng và đạt đến khắp nơi trên hoàn vũ. Điều này được thể hiện qua sự quán tưởng và nên suy nghĩ rằng ánh sáng gia trì ấy chứa đầy nơi tất cả chúng sanh, giống như toàn thể vũ trụ và điều ấy đã đạt được sự chứa đầy nơi tất cả; sự biến hóa của mỗi vị vào nơi trí tuệ của chúng sanh, lòng từ bi và năng lực.

Điều thứ ba, họ quán tưởng nơi bàn thờ của các vị Thần Linh và cảnh Tịnh Độ trong những bình nước Thánh chứa đầy nước cam lồ làm phước thiện, họ cúng dường những điều tốt đẹp và xử dụng những vật ấy như hoa đẹp, hương thơm thực phẩm và âm nhạc (thực chất hoặc cụ thể hóa). Đồng thời niệm kinh tán thán những vị Thần linh với những tư tưởng của sự cung kính vĩ đại. Hay tụng Thần chú, họ quán tưởng các vị Thần linh. Vị Thần gia trì vào bình nước cam lồ và trút vào đó giòng chảy của ánh sáng trí tuệ. Rồi sau đó các vị Thần linh chìm vào trong bình nước cam lồ rồi thì họ trở thành một thực thể.

Điều thứ tư, họ nhận được từ các vị Thần Bổn Mạng của ngoại hộ Mạn Đà La trong bình nước Thánh. Ở ngôn ngữ khác, nói một cách khác qua việc thiền định nơi bình chứa đầy nước cam lồ giống như là một vị Phật Tịnh độ với hình tướng trong suốt, âm thanh và kinh nghiệm, chứa đầy với sự hiện hữu của sự vân tập các vị Phật và những vị Phật chất lượng; bình Mạn Đà La là nguồn năng lượng gia trì to lớn.

Bước thứ năm, với năng lực mặc khải và những ngôn từ chơn thật, họ triệu tập sự hiểu biết của người quá cố (nếu người ấy đang chết) vào trong một ngẫu tượng (hoặc vào thân thể nếu vẫn còn hiện hữu) và an định nó. Rồi thì họ ban những lời giáo huấn đến người quá vãng trong sự thâu nhiếp quan trọng cho tâm thức của cô hay cậu kia đến với các vị Thần linh và con đường tâm linh, những đức Phật và cõi Tịnh độ, cùng giáo pháp và những vị Thầy dạy đạo. Họ chỉ dẫn cho người quá cố đừng duyên theo tình yêu của thế gian với một người nào đó hay từ bỏ sự sở hữu ở lại phía sau lưng bởi vì chúng chỉ là những sự cảm kích khổ sở thông thường đồng thời làm trở ngại sự phát triển hơn giữa con đường tâm linh.

Bước thứ sáu, họ thực hiện nghi lễ “giải thoát khỏi các cõi”. Đây là một lễ nghi hoàn hảo mà tiêu điểm kia là sự giải thoát cho người quá cố từ vòng quay của sự tái sanh trong sáu cảnh giới bởi sự Tẩy tịnh cho sáu tình thức khổ sở ấy ở từng cõi một. Rồi sau đó sự quan hệ sẽ cho quyền năng hoặc gia trì nơi thân thể, lời nói và tâm thức của chư Phật.

Thứ bảy, rồi thì họ cúng dường những đồ tốt đẹp như thực phẩm đã được nấu chín hay thức uống. Theo nhiều tài liệu thì hầu hết những chúng sanh ở thân trung ấm không thể vui với thức ăn cứng; họ sẽ cảm thấy đầy đủ với những thức ăn đã được nấu chín có mùi.

Trong kinh Ayushpatti – Yathakara – Paripriccha (Kinh nói về hạnh phúc như thế nào khi chết), đức Phật đã giải thích rằng ở đây không được sự lợi ích trong việc cúng thức ăn cho người chết, bởi vì khi chẳng có một thân thể to lớn thì họ không thể vui với thức ăn to lớn được. Nếu với một tâm hồn buồn bã hay bất thiện thì bạn sẽ thay đổi một vài loại thực phẩm cho người chết ở trên bàn, như điều này được thực hiện trong một vài nền văn hóa, bạn sẽ chẳng giải thích được sự đói khi chết, lại chẳng thể tạo phước đức nhiều cho bạn, nếu chẳng có được tinh thần, sự cầu nguyện, lòng từ bi hay sự độ lượng bao gồm trong ấy. Tuy thế, trong những nghi lễ trang trọng, một sự gia trì nơi thức ăn đã có mùi vị với sự thiền định và hồi hướng những đồ ăn ấy sẽ cho người chết một sự hưởng thọ trong lành.

Ở một nơi thông thoáng ngọn lửa đốt cháy đã được chuẩn bị không có khói bay lên từ củi đốt hay dầu là những nhiên liệu được dùng đến và ở đó được thiêu đốt những thức ăn cứng cũng như rải những đồ uống chung quanh ngọn lửa. Một vài mảnh nhỏ của áo quần cũng có thể đem đi đốt, như là một sự cúng dâng.

Giữa những thực phẩm được dâng cúng trong những lễ nghi tốt đẹp, thịt cũng nên tránh xa đi, bởi vì nó mị hoặc một cách mãnh liêt. Và có hại cho sức mạnh tinh thần. Do vậy theo quan niệm của tôi một điều là chẳng nên xử dụng trái cây còn sống hay một vài thực liệu phẩm. Đây chính là nguyên nhân để sinh ra mùi khi thiêu đốt. Ở Tây Tạng đồ được xử dụng chính là những đồ được cúng chay bởi bột lúa mạch và bơ trộn lại cùng một vài bộ áo quần mới nhỏ nhắn, tượng trưng cho quần áo. Ở Tây phương thì có thể xử dụng thích ứng với những bánh được đút lò và một cặp áo quần mới. Tuy nhiên nếu bạn chẳng thể cúng dâng thức ăn khi thiêu thì bạn nên thay đổi bằng những thực phẩm chay và thức uống để trên bàn kéo dài suốt buổi lễ và rồi thì hãy xử lý chúng như bỏ vào trong lửa hoặc để cho sạch sẽ phải cho vào chỗ kín đáo.

Trong những nghi lễ thuần túy ấy với sức mạnh của lòng từ bi sâu thẳm, với năng lực của Thiền định và sức mạnh của Thần chú, chúng ta tẩy sạch tất cả những đồ vật nào không được thanh tịnh, những đồ thêm vào chứa đầy đất cát và hãy biến hóa chúng trở thành vật chất mà khi chết sẽ vui vẻ theo cũng như được sự lợi ích từ đó . Như vậy khói sẽ chẳng những chỉ thể hiện ra với sự chết giống như thực phẩm và đồ uống, mà cũng còn là những gì mà người mất cần và họ mong mỏi. Ngay cả nếu những người thực hiện chẳng thể nương theo thiền định trong từng chi tiết và nếu họ đã quy y với đức Phật, gia trì điều tốt đẹp với người cầu nguyện và phụng hiến điều ấy cho người quá cố với tình yêu trong sạch, rồi thì sự dâng hiến trong sạch kia sẽ trở thành sung mãn và lợi ích. Nếu chúng ta cúng những đồ tốt đẹp cho tất cả những chúng sanh đau khổ với tình thương yêu và sự khoan dung thì điều ấy sẽ sáng tạo một phước đức lớn lao. Nếu chúng ta hồi hướng và nhiệt tình với nhiều chúng sanh, thì người chết sẽ vui vẻ với những phước đức to lớn cho sự linh ứng của chúng ta để sản xuất ra tất cả những tư tưởng có tính cách lợi tha và việc cúng hiến nhơn từ.

Bước thứ tám được thực hiện phowa (chuyển di thần thức) trong sự ra lệnh cho di động thần thức hoặc tâm linh của người chết vào tâm thức giác ngộ của đức Phật; như vậy thì họ sẽ được tái sanh vào thế giới Tịnh độ của đức Phật.

Bước thứ chín là phục vụ tang lễ của thân thể đã được bảo quản. Ở Tây Tạng có hai cách chính để cho thân thể của người chết về lại với thiên nhiên: hỏa táng và làm thức ăn cho kênh kênh. Hình thức này người Tây Phương gọi là ‘Tang lễ trên bầu trời’’. Những vị Lạt Ma thực tập những nghi lễ Thiền định để gia trì cho thân thể như là cam lồ trí tuệ và nhiên liệu hỏa táng hoặc cho kênh kênh như các vị Thánh thần và cảnh Tịnh độ của họ. Rồi thì họ cúng dường thân thể như là chất cam lồ cho những vị Thần linh để Tẩy tịnh những nghiệp lực bất thiện và để hoàn hảo cho những công đức và trí tuệ của người quá vãng. Họ cũng sẽ thiêu tử thi (hay những ngẫu tượng) là dấu hiệu tiêu phí của tự kỷ mê hoặc, sự khổ não về những tình thức và những nghiệp lực bất thiện với tất cả những dấu tích bằng ngọn lửa của năm trí tuệ; những điều nào là tự nhiên tối hậu và phẩm chất của tâm hồn. Hoặc giả họ có thể cho thân thể làm đồ ăn cho kênh kênh. Ngay cả sau đó họ muốn đốt cháy từng mảnh nhỏ của xương cốt theo sau những lễ nghi ấy.

Bước thứ mười, họ gom những mảnh xương (xương đã được thiêu rồi) và mang xương đặc biệt để làm lễ sái tịnh cho cả tuần sau hoặc tương tự như thế. Để cho việc này họ thực hiện lễ nghi cho việc “giải thoát từ các cảnh giới”, như đã nói trước. Cũng còn những cơ hội khác để Tẩy tịnh sạch những nghiệp bất thiện của người quá vãng, xử dụng sự tồn tại liên tục trong thể thức của tro cốt.

Bước thứ mười một, sau khi cốt được Tẩy tịnh , tro cốt là một hổn hợp của đất bụi trộn lẫn với tro và nhồi thành những tháp nhỏ là dấu hiệu mà người quá cố đã thuộc về sự biến hóa vật lý vào phẩm chất của đức Phật. Ngọn tháp là hình ảnh của tinh thần trí tuệ Phật. Một lễ nghi gia trì được thực hiện trong một tuần lễ hoặc gia trì như thế, hồi hướng những tượng được nhồi vào tháp, như là thân trí tuệ của đức Phật.

Bước thứ mười hai, trong tháp được nạp cốt vào đó là nơi để cúng dường, cho vào sông hay vào biển cũng như cho phép chìm vào với thiên nhiên; như vậy chẳng có một vật gì còn sót lại của người quá cố cả. Chẳng để lại một cái gì mà người mất khó ra đi dễ dàng, bởi vì không bị giữ lại hoặc tồn tại to lớn cho những tình thức bất thiện giống như sự phụ thuộc bởi sự quan hệ. Tuy nhiên những người Phật tử hay giữ gìn một vài vật còn sót lại của một vài vị đại sư nổi tiếng trong hình thức của những bia kỷ niệm của Tôn Giáo; như vậy đây sẽ là đối tượng cho sự hướng về và sự nương tựa cũng là một nguồn lực gia trì.

Cuối cùng những người tham gia ấy hồi hướng tất cả những công đức mà ngay cả sự chứa nhóm ấy cho người quá vãng và cho chúng sanh như là nguyên nhân của hành trình chuyển đến sự an lạc cũng như sự tái sanh hoan hỷ (ví dụ như cõi Cực Lạc cuả đức Phật A Di Đà). Hãy nên hồi hướng tất cả những công đức như là những chủng tử; họ tụng kinh với nhiều lời cầu nguyện chân thành để lý giải những mục tiêu quan hệ này.

Những nghi lễ khác.

Đối với những buổi tọa thiền ngắn, đơn giản và những sự phục vụ cầu nguyện thì nên xem nơi bản phụ lục B.

Đối với lễ cầu siêu cho những bậc đã thành tựu cao cả, những vị Thầy khả kính; hoặc những vị Lạt Ma hay những đệ tử thực hiện những nghi thức lễ nhạc thông thường của sự quy ngưỡng về thiên nhiên trong nhiều ngày hoặc nhiều tuần lễ. Ở đây bao gồm cả nghi lễ sùng kính của vị Thầy, sự quy hướng về thiền định nơi vị Thầy, cúng dường đồ ăn và những lễ nhạc cho những thân thể có tính cách Thần thánh, với sự thực hành để Tẩy tịnh , tạo phước đức và sự hăng say.

Giữa những lễ nghi này gia đình và bạn bè nên trợ lực cho việc làm phước và phục vụ lợi ích cho người quá vãng. Những điều này bao gồm cả việc tụng kinh cầu nguyện và thực tập thiền quán, cho những quà cáp có tính cách tinh thần hoặc vật chất, bảo hộ sức khỏe và mạng sống, bảo trợ những nghi lễ và cầu nguyện, xây cất những nhà bia kỷ niệm và những việc bảo hộ, dựng những lá phướn cầu nguyện và những bánh xe quay chuyển pháp, bảo trợ cho các học đường và những trung tâm thiền định và mang sự hòa bình cũng như sự hòa hợp vào trong xã hội.

Sau khi thực hiện một vài việc này, hãy hồi hướng phước đức ấy như là cái nhân cho hạnh phúc và giác ngộ cho mọi chúng sanh, đặc biệt là cho người quá cố và làm những việc khác tốt đẹp cho cùng chung mục đích ấy. Sau đó qua kinh nghiệm của người quá vãng về thân trung ấm cũng như sự tái sanh sẽ trở thành một hành trình từ niềm hạnh phúc này kéo đến hạnh phúc khác.

Theo truyền thống của Phật Giáo Tây Tạng điều này rất là phổ biến là cúng dường những vật chất của một vài công việc cho nhiều chư Tăng Phật Giáo, những tự viện, những việc có tính cách từ thiện để tạo phước đức cho người quá cố với nguyện vọng cầu nguyện và tu tạo phước đức này cho họ, ngay cả nếu bạn không có tiền hoặc tài sản vật chất để cúng dường thì bạn cũng có thể nghĩ tưởng việc cúng dường những hình tượng đức hạnh của tài sản và thuộc về việc cúng bái ấy cho họ với một niềm vui lớn và sự khoan dung. Nhiều sự cúng dường ấy sẽ sáng tạo một việc to lớn là sự thành tựu công đức cũng như vậy.

Những người Phật tử tin rằng ngay cả nếu bạn cúng dường được một ít gì đó cho mục đích to lớn thì phước đức của bạn có thể trở thành càng ngày càng quảng đại như phước đức của mục đích chính nó, giống như từng giọt nước mưa chảy vào trong biển cả và sẽ chẳng bao giờ khô cho đến khi biển ấy khô. Như vậy nếu một nghiệp lực nối kết với những chúng sanh khác và ngay cả nếu sự cúng dường dẫu cho nhỏ nhặt như một tách trà đi chăng nữa thì nó cũng là một động lực và kết quả ấy có thể không bao giờ mất hết. Bởi vì sự thánh thiện của người ấy là người mà bạn đang cúng dường.

Hits: 213

Trang: 1 2 3