CHẾT AN LẠC, TÁI SINH HOAN HỶ -Peaceful Death, Joyful Rebirth

CHẾT AN LẠC TÁI SINH HOAN HỶ
Nguyên tác Anh ngữ: Peaceful Death, Joyful Rebirth
của đại sư học giả Tulku Thondup
Việt dịch: HT. Thích Như Điển & TT. Thích Nguyên Tạng
Chùa Viên Giác Hannover, Đức Quốc
Tu Viện Quảng Đức, Melbourne, Úc Châu ấn hành 2011

Chương 10

Những suy nghĩ sau cùng

Chết là một bắt đầu. Đây là cánh cửa để thoát khỏi màn đêm và là cơ hội tươi mát cho chúng ta, để vui với những cây trái mà chúng ta đã gieo trồng, trong sự phù hợp bởi nguyên nhân và kết quả của nghiệp lực. Trong khi bánh xe của nghiệp xuyên suốt qua tất cả thời gian, thì sức đẩy của nó có thể làm cho xa dần sự càn quét và trực tiếp sau khi chúng ta chết hơn là nó đã kéo dài trong đời sống của chúng ta.

Vì sao vậy? Chúng ta càng sống bao lâu thì tâm thức của chúng ta là một chương trình hoạt động với sự cấu tạo thân thể vật lý của chúng ta và công việc hằng ngày. Điều này rất khó để thay đổi nhiều những sự cấu tạo này một cách trọng yếu. Thế nhưng một khi từ bỏ thân thể vào thời điểm chết thì tâm thức sẽ hoạt động theo ý nó. Rồi thì chỉ một việc duy nhất là kiểm tra sự nhận biết của chúng ta, sẽ là những tập quán mà chúng ta đã trồng vào trong giòng chảy tâm thức của chúng ta.

Chúng ta đã trải qua kinh nghiệm hầu hết như thế nào, khi mà tâm của chúng ta được đong đầy với nhiều niềm vui, bất cứ những gì chúng ta thấy, nghe hay cảm giác mang lại làm cho chúng ta vui. Khi mà tâm thức của chúng ta bị đánh động, mọi vật làm cho chúng ta phẫn nộ. Những điều tác dụng hỗ tương mạnh hơn ngay cả sau khi chết, bởi vì sau đó tất cả sẽ hiện ra căn cứ theo thói quen với hướng của chúng ta và những sự cảm kích có tính cách theo thói quen có khuynh hướng riêng lẻ. Như vậy, nếu chúng ta đã tạo ra con đường của sự sân hận, giận dữ và si mê thì chúng ta sẽ sanh vào nơi chốn hoang phế bởi sự đói khổ, ngu si và hiện tượng của địa ngục. Nếu chúng ta đã từng vui vẻ, an bình và hoan hỷ thì thế giới của chúng ta sẽ làm sáng tỏ như một phần của sự hòa bình và an lạc. Nếu chúng ta vui với phẩm chất của cõi Cực Lạc thì chúng ta sẽ sanh về đó hoặc những cõi Tịnh độ với sự hòa bình và an lạc, và nếu chúng ta ngộ được sự giác ngộ tự nhiên của tâm thức và hoàn toàn ở đó thì tâm thức của chúng ta sẽ nối liền với vũ trụ tuyệt đối, thiên nhiên chơn thật; sự an lạc và những hoan hỷ sau cùng và việc phụng sự cho những người khác sẽ chiếu sáng phía trước dễ dàng như những tia sáng của mặt trời chiếu sáng tự nhiên cho chúng ta.

Một vài người trong chúng ta có thể buồn rầu về những gì đang chờ đợi chúng ta khi chúng ta chết. Thế nhưng đây là thời gian chẳng phải để ngạc nhiên hay buồn tủi. Đây là thời gian để thừa nhận điều mà chúng ta có một cơ hội tốt bằng vàng để nhận biết thật sự cho ngày lớn ấy đối với chúng ta và thay đổi cuộc đời của chúng ta trong phương hướng đứng đắn cho bây giờ và vĩnh viễn cho tự chúng ta và những người khác trong mai hậu.

Ngay cả nếu chúng ta già cả, cho đến hơi thở cuối cùng của chúng ta thì nó cũng chẳng quá trễ để thay đổi cội nguồn của cuộc đời chúng ta. Chúng ta không cần làm một vài việc gì có hiệu quả cao. Chúng ta không cần nghỉ ngơi một chút và vui vẻ với cảm giác của sự hòa bình và vui với điều mà được sanh ra trong chúng ta, với những gì là rộng rãi, chúng ta có thể và phù hợp cho những gì thuộc về truyền thống tinh thần mà chúng ta đang mong đợi.

Nếu chúng ta còn trẻ, điều tốt nhất để tiến tới là cố gắng cho tương lai của chúng ta ngay từ bây giờ. Bởi vì chúng ta chẳng được phép trễ hơn. Tất cả đều hạ cánh nơi cánh cửa của thế giới tiếp đó, khi thở ra mà không hít vào lại. Tuổi trẻ chẳng thể bảo đảm đối với điều sau cùng kia.

Tất cả những người cầu nguyện và thiền định trong quyển sách này là công cụ để gieo trồng chất lượng tinh thần. Sự quy hướng về là để điểm sáng năng lượng của sự nhận biết tốt đẹp. Lòng từ bi là sự mở cửa quả tim của chúng ta đến với tất cả tình yêu thương. Sự cầu nguyện biểu thị cho những tư tưởng thiện lương và những cảm giác. Rộng về sự lý giải là cái nhìn về tất cả mọi vật và mọi người như là cội nguồn và sự hiện hữu của hòa bình và an lạc. Những lễ nghi của tôn giáo là hình thức để sáng tạo một nền văn hóa tốt đẹp trong đời sống của chúng ta. Quán tưởng chư Phật và những cảnh Tịnh độ là để chuyển hóa của hình ảnh thuộc về của chúng ta và những tư tưởng đi vào sự nhận biết việc gia trì tốt đẹp hơn. Những kinh nghiệm về những sự gia trì của sự chúc phúc ấy của đấng giác ngộ là sự giới thiệu cho chúng ta đến với sự hòa bình an lạc khi tái sanh. Đón nhận những sự cầu nguyện, những sự Thiền định và những sự hy hiến thân thiện bởi những người khác, là một nguồn hô hấp và phước đức.

Nơi quê hương tôi xuất thân là Tây Tạng, có nhiều người đã trải qua thời gian trong nhiều năm sống đời sống độc cư và thực tập cho chính họ cũng như cho những người khác trong các hang động. Cách sống với hình thức này và sự hiến thân ấy rất là tuyệt vời. Thế nhưng đấy chẳng phải là điều bắt buộc. Nếu chúng ta thực tập chơn thật cho ngay trong 10 hay 20 phút hằng ngày; dẫu sao đi nữa sự cầu nguyện trước đức Phật Vô Lượng Quang hay thể hiện một vài sự thiền tập khác, thì sự hành trì của chúng ta sẽ là sự biểu hiện cụ thể cho tất cả về chất lượng tinh thần đã đề cập bên trên. Tiếp đến, nếu chúng ta nhớ lại những điều gì mà chúng ta đã cảm nhận được suốt trong khi chúng ta thực tập, cứ thế và cứ thế xuyên suốt trong ngày, điều ấy là sức đẩy sẽ giúp ta hoàn thành tốt đẹp cho cả đời sống hoàn hảo của chúng ta. Một ngày nào đó chúng ta sẽ tìm được điều mà thái độ của tâm được chuyển biến. Chúng ta chẳng cần một sự ngụy tạo về cảm giác của sự an lạc, hoan hỷ và sự hiện diện của bậc gia trì nữa, chúng sẽ là những gì mà chúng ta trở thành và sự chết cũng như tái sanh sẽ chảy suốt không gián đoạn của bánh xe quay về sự hòa bình và an lạc bởi năng lực của tự chính tâm thức của chúng ta.

Chỉ trong một vài phút thiền tọa chơn chính ấy mà làm thế nào để sản xuất ra những thành quả to lớn như vậy? Đồng giống với với lý do như thế, Ngài Shantideva dạy rằng: “Nếu các bạn phát tâm Bồ đề, ngay từ trong lúc ấy, ngay cả như bạn rơi vào hôn trầm hay hỗn loạn, thì năng lực của phước đức sẽ càng ngày càng tăng thêm chẳng dừng nghỉ, được đong đầy bởi không gian dài rộng hơn”. Điều quan trọng là việc thực hành của chúng ta phải nỗ lực hơn, so với thời gian dài sau đó nữa. Cũng như vậy nếu chúng ta khởi đầu bởi việc thiền tập của chúng ta với thành ý, thì sức mạnh của tinh thần kia sẽ làm sống lại liên tục, sức mạnh kia sẽ phát triển mạnh mẽ hơn trong từng bước thời gian khi chúng ta thực tập thiền quán.

Chính bản thân tôi chứ chẳng phải người nào khác, chẳng nói nhiều về sự cầu nguyện hoặc thiền quán lâu dài, nhưng một cái gì đó bởi sự tự nhiên và đã dưỡng dục tôi là một sự nung nấu cho đức tin trong sự tồn tại cho đến bây giờ của chất lượng trang nghiêm trong chúng ta và bên ngoài chúng ta nữa. Chúng ta có thể gọi đấy là chất lượng Phật (Phật chất). Đa phần thời giờ tôi sống trong sự kính ngưỡng hãy vui với những gì hiện có. Rồi thì tôi tiến đến điểm phân chia con đường ở bên này hay bên kia của cuộc sống. Riêng tôi thì hy vọng tràn đầy ở những bộ mặt với sự an lạc và sự hoan hỷ và những việc ấy sẽ mang đến hướng dẫn cho tôi để được hạnh phúc hơn ở một quê hương khác, nơi mà tôi sẽ tái sanh, nơi đó chỉ có hòa bình và an lạc.

Tôi nóng lòng mong mỏi rằng các bạn, những người thân thương của tôi, sẽ hài lòng với những lời dạy của đức Phật và những vị đạo sư mà tôi đã phân tích với các bạn trong quyển sách này và rằng các bạn sẽ thưởng thức những sự lợi ích ấy mà tôi đã hoan hỷ hoặc nhiều hơn nữa, tốt hơn ở mức trung bình. Quả thật hồi hộp như thế nào để nghĩ về một ánh sáng quang huy trong tương lai cho nhiều người trong chúng ta cũng được như vậy.

CHẾT AN LẠC TÁI SINH HOAN HỶ
Nguyên tác Anh ngữ: Peaceful Death, Joyful Rebirth
của đại sư học giả Tulku Thondup
Việt dịch: HT. Thích Như Điển & TT. Thích Nguyên Tạng
Chùa Viên Giác Hannover, Đức Quốc
Tu Viện Quảng Đức, Melbourne, Úc Châu ấn hành 2011

Phụ lục

Một vài lễ nghi đơn giản cho người Phật tử khi qua đời.

Điều quan trọng để thực tập những hình thức lễ bái cầu nguyện và thiền định nơi một vị Phật và những vị Phật Tịnh Độ ở trước, trong khi hay sau khi của một người quá cố là phải lễ bái một vài vị Phật, tốt hơn là đức Phật Vô Lượng Quang (A Di Đà), đức Quán Thế Âm, đức Kim Cang Tát Đỏa, bằng 100 sự hòa bình và những vị thần phẫn nộ, Sarvavid Vairochana hoặc Vajrabhairava (Kim Cang Đại Sĩ). Trong đó sự giới hạn của quyển sách này, tôi không thể dụng ý làm rõ từng chi tiết về những lễ nhạc cho việc qua đời có tính cách truyền thống được. Thay vào đó, tôi sẽ đưa ra một vài nghi lễ đơn giản, nhưng những nghi lễ ấy có tính cách quan trọng mà có thể thực hiện bởi một vị Lạt Ma hay người trợ tử cho một người sắp chết hay đã qua đời.

Lễ cầu siêu được giới thiệu ở phần phụ lục A và B, những việc này rất phổ thông ở Tây Tạng và là căn bản chính cho việc cầu nguyện cũng như thiền định với đức Phật Vô Lượng Quang (A Di Đà). Những tài liệu đặc biệt mà tôi xử dụng ở đây được trích dẫn từ những công trình của các vị Lạt Ma lớn thuộc truyền phái Nyjingma.

Nếu các bạn thỉnh cầu để thực hiện một vài lễ nhạc như thế này thì hãy cố gắng đọc những chữ bằng tiếng Tây Tạng in đậm có đính kèm nếu các bạn có thể. Nếu các bạn thích thì thay vào đó các bạn cũng có thể đọc bằng bảng dịch tiếng Anh đi kèm, tuy nhiên những Thần chú và tên người cầu nguyện thì các bạn phải đọc bằng tiếng Tây Tạng hoặc tiếng Sanskrit mà những chữ ấy cũng sẽ hiện ra đậm kèm theo đó.

Một vài chú giải khi yêu cầu phát âm bằng tiếng Tây Tạng được thể hiện nơi đây được giản dị hóa qua cách phát âm để người đọc có thể đọc được và tụng kinh cầu nguyện. Tiếng Tây Tạng khác nhau giữa một vài âm điệu mà chẳng phải lúc nào những người nói tiếng Anh khó nhận ra được. Điều quan trọng được ghi nhận rằng những người nói tiếng Anh cần phải phân biệt cách phát âm của một vài phụ âm. Như vậy tôi mong trong sự trích dẫn đặc biệt này nên chú ý về những âm sau đây.

-Ph và Th: Tiếng Tây Tạng phát âm P và T nhưng được viết Ph và Th. Tùy theo những chữ giống như phowa và Thamel. Những âm này không đánh vần giống như tiếng Anh F và Th như Fat và That. Thay vào đó chúng phải được gần giống với tiếng Anh như P và T riêng lẽ cho phần phát âm ra hơi, có thể nghe bằng tiếng Anh trong âm P trong chữ “put’’, như trái ngược lại với P trong chữ paper và chữ T trong butter như là sự trái ngược lại với việc không nhiệt thành trong chữ but.

-Ch: điều quan trọng nên ghi nhớ những sự khác biệt ấy giữa tiếng Tây Tạng và tiếng Anh về cách phát âm và không phát âm theo bản dịch của tiếng Anh âm Ch. Ở trong bản phụ lục này việc phát âm tiếng Tây Tạng Ch như dưới đây bởi dấu nhấn như là chữ ch’o. Đây là điều nhấn mạnh hơn âm cho. Việc phát âm Ch’ có thể ngẫu nhiên gặp trong tiếng Anh là chesse như ngược lại và mềm hơn ch trong chữ chess. Chữ Ch’ hoặc Ch âm ấy chẳng hề đánh vần giống như chữ Ch nặng trong tiếng Anh như chord.

Zh- là ngang qua giữa tiếng Anh sh và z và được phát âm đại khái giống như một tử âm trong tên Zsa Zsa.

-Ts và được phát âm Tsh là những âm khó tìm ra trong tiếng Anh ở phần bắt đầu của một âm tiết; nhưng có thể được nghe chữ ấy giống như its và heats.

-Dz là giống với Ts; nhưng với âm của một chữ z

-Ng và Ny không phải lúc nào cũng được phân biệt như trong tiếng Anh từ chữ N. Tuy nhiên những âm thanh ấy có thể nghe giống như trong chữ Long Island (phát âm không mạnh như chữ G) và trong chữ can you.

Ghi chú của dịch giả: để đơn giản hoá cách đọc tụng, chúng tôi chỉ dịch phần tiếng Anh đã được dịch từ tiếng Tây Tạng sang tiếng Việt và chúng tôi không kèm theo phần tiếng Tây Tạng trong sách này. Nếu quý vị nào cần tụng đọc tiếng Tây Tạng thì xin xem nguyên mẫu hoặc trong quyển sách tiếng Anh này đã được phiên âm cho các Phật tử Tây phương làm quen để đọc tụng.

Phụ lục A

Thiền định về bốn nguyên nhân tái sanh cảnh giới Cực Lạc

Thiền định và cầu nguyện được đưa vào bản phụ lục A này là từ sự cộng thông hoặc là những kinh điển, lời dạy của chư Phật (những điều căn bản này nằm ở trong kinh; những lời dạy của đức Phật lịch sử Thích Ca Mâu Ni). Nếu tâm thức của bạn được hấp thụ bởi những sự thực tập này thì bạn sẽ sẵn sàng học để thực tập những điều ấy.

Chúng là những lời cầu nguyện và thực hành Thiền quán cho bốn nguyên nhân của việc sanh về cõi Cực Lạc. Những việc thực hành này sẽ mở ra một con đường cho bạn để sanh về cõi Tịnh độ. Chúng sẽ bổ sung cho bạn để thực hiện lễ cầu siêu cho những người khác.

Dựa theo những nguồn của các kinh điển Phật Giáo, vô số thời gian dài trước đức Phật Vô Lượng Quang (A Di Đà) đã trở thành một sự nương tựa cho con đường Bồ Tát đạo. Tên của Ngài là Dharmakara (Pháp Tạng). Trước đức Phật tên là Lokeshvara (Thế Tự Tại) Ngài đã khởi đầu con đường tinh thần qua những lời thệ nguyện của một vị Bồ Tát. Ngài thề rằng sẽ dẫn dắt cho tất cả những ai nghe, nhớ nghĩ và cầu nguyện đến tên của Ngài với sự tin tưởng và quy hướng về cõi Tịnh độ của Ngài thì lúc ấy Ngài mới thành Phật.

“Tất cả chúng sanh, ai nghe được danh hiệu ta sẽ đến cõi Tịnh Độ của ta”

Nếu bạn tin tưởng, tín cẩn vào những lời nguyện của đức Phật, trí tuệ và lòng từ bi của Ngài thì bạn sẽ mở cánh cửa cho kết quả năng lực của những lời thệ nguyện ấy. Bởi vì qua năng lực của sự hỗ tương nương tựa để tồn tại là nguyên nhân của những lời nguyện của Đức Phật. Nếu bạn cầu nguyện qua danh hiệu Ngài thì sẽ hoan hỷ sanh về nơi cõi Tịnh độ của Ngài – bên trong bạn và cả bên ngoài bạn – sẽ được xác nhận. Ngài Shinran (Thân Loan) là người sáng lập nên Jodo Shinshu (Tịnh Độ Chơn Tông) vào thế kỷ thứ 12 là Tông Tịnh Độ Chơn Tông của Nhật Bản đã nói rằng: “Trong khoảnh khắc ấy nếu chúng ta vận chuyển toàn tâm Nembutsu (niệm Phật) (Thần chú của Đức Phật Vô Lượng Quang) bởi sự kiên cố chí thành thì việc tái sinh của chúng ta về cõi Tịnh độ sẽ đạt được chắc chắn bởi đức hạnh của những việc làm của đức Phật A Di Đà không thể rõ biết và đo lường được. Lời nguyện nguyên thỉ ấy, chúng ta có khả năng chia ra bởi sự lợi ích đó mà che chở cho tất cả cũng như không bỏ một người nào”.

Nếu với sự tin tưởng hoàn toàn của tâm thức bạn thì hướng về trọn vẹn ở nơi đức Phật Vô Lượng Quang (A Di Đà); Ngài có tấm thân đầy lòng từ bi và trí tuệ và ở nơi sức mạnh của sự cầu nguyện danh hiệu Ngài, cả cuộc đời của bạn sẽ trở nên hòa bình, trong sáng và tỉnh thức. Bạn sẽ trở thành một nguồn năng lượng giống hệt cho tất cả mọi người ở chung quanh bạn.

Khái niệm không tốt và những tình thức khổ não sẽ không có chỗ đứng yên ổn dễ dàng trong các bạn. Như vậy thì các bạn sẽ chẳng cần một vài cách nào khác để đạt thành sự giải thoát. Một tâm thức như vậy tự nhiên bao gồm phẩm chất của Lục độ ba la mật. Sự khoan dung, đạo đức, kiên nhẫn, sự siêng năng, sự chờ đợi và trí tuệ.

Nếu các bạn hoan hỷ tin tưởng hoàn toàn nơi đức Phật thì các bạn phải thích dụng nó như là ý nghĩa của sự cải thiện về cái chết cũng như sự tái sanh của các bạn như xuyên qua thiền định ở dạng thức phowa. Bạn phải chuẩn bị lâu dài trước khi cái chết của chính bạn và cũng như trước khi thực hiện lễ cầu siêu cho người chết. Nếu bạn chẳng có kinh nghiệm trầm tư trong sự tiến bộ thì bạn chẳng có thể nhận hoặc cho sự giúp đỡ xuyên qua việc cầu nguyện hay thiền định. Nếu bạn chẳng có sự nối kết mặc nhiên với đức Phật Vô Lượng Quang và cõi Cực Lạc của Ngài thì làm thế nào bạn có thể tái sanh vào cõi Tịnh độ hoặc hướng dẫn một vài người chết khác ở tại đó?

Người chết đã được thực tập thiền định trong sự tiến bộ có thể thiền quán và cầu nguyện một mình, không cần tin tưởng vào sự trợ lực của những người khác nữa. Hoặc giả, nếu có một người chết với nhiều kinh nghiệm và người trợ tử thực tập tốt cùng nhau thực tập thiền định và cầu nguyện thì sự sanh về nơi cõi Cực Lạc dễ dàng đạt được.

Như vậy điều đó thuộc về bản chất để huấn luyện cho việc xác nhận về bốn nguyên nhân ấy, để cho thành tựu qua việc lần lượt quyết định thuộc về kinh nghiệm của bạn. Bạn có thể luyện tập cho bốn nguyên nhân ấy như thực tập Thiền định hằng ngày của bạn cũng như sự cầu nguyện trong hằng tháng, hằng năm. Bạn nên giữ việc lập lại danh hiệu Ngài để cầu nguyện và tụng những Thần chú hàng trăm, hàng ngàn hay hàng triệu lần như vậy.

Nếu các bạn đã thực tập trong bốn nguyên nhân ấy thì các bạn sẽ sanh về cõi Tịnh độ, ngay cả nếu bạn đã chìm sâu vào những hành vi tội lỗi ngoại trừ hai hành vi sai trái căn bản. Đầu tiên là hành động hủy báng giáo pháp. Nếu bạn đã chẳng tin vào giáo pháp, điều ấy sẽ chẳng thể được nương tựa với đức Phật Vô Lượng Quang (A Di Đà),vì nguyên nhân căn bản của việc tái sanh về cõi Tịnh độ là phải đặt niềm tin nơi giáo pháp. Hành vi sai trái thứ hai là phạm vào tội ngũ nghịch như: giết Mẹ, giết Cha, giết A La Hán, phá hòa hợp Tăng và làm cho thân Phật hư hoại. Tiêu điểm chính yếu của bốn nguyên nhân này là sự cầu nguyện và thiền định hướng về đức Phật Vô Lượng Thọ (A Di Đà) cùng cõi Cực Lạc của Ngài. Đức Phật là hóa thân của tất cả những bậc giác ngộ và sự biểu thị của chơn lý vũ trụ. Cõi Cực Lạc được hiện ra với ánh sáng trí tuệ và năng lượng trí tuệ của chư Phật tại cõi Tịnh độ.

Ngay cả các bạn chưa quy y với đức Phật Vô Lượng Quang (A Di Đà) và ngay cả là một người Phật tử đang thực hành 4 nguyên nhân sẽ được tạo ra vô số phước đức. Giòng suối tâm thức của bạn và tất cả những sự biểu hiện trong ngôn từ và hành động sẽ trở thành sự hòa bình và an lạc an toàn hạnh phúc trong việc tái sanh.

Hãy quán tưởng một bầu không khí có tính cách an toàn ở trước bạn, như cảnh giới Cực Lạc được tường thuật ở chương 7 rằng: sáng chói tuyệt vời và đẹp đẽ; phồn vinh và trong sạch; hoan hỷ và hòa bình được tạo nên bởi ánh sáng trí tuệ và năng lượng trí tuệ. Ở giữa cõi kia được quán tưởng như một cung điện với sự hiện hữu của đức Phật Vô Lượng Quang (A Di Đà), giống như một núi ánh sáng to lớn vĩ đại.

Vô lượng ánh sáng trí tuệ được lưu xuất từ thân thể của Ngài, chiếu sáng đến khắp các vũ trụ và những cõi Tịnh độ với sự hòa bình và an lạc to lớn. Ngài đang hướng về các bạn và nhìn xem bạn đồng thời ở mỗi chúng sanh với trí tuệ toàn tri của Ngài; sức mạnh vô địch, cũng như lòng từ bi không điều kiện, giống như một người Mẹ đối với chỉ có riêng cho con mình.

Các bạn có thể cầu nguyện và thiền quán về bốn nguyên nhân này cho chính bạn hoặc ngoài ra có một vài người nào đó có thể làm điều ấy cho bạn, cho chính sự tái sanh của bạn về cõi Cực Lạc. Bạn có thể thể hiện việc này cho những người khác, ngay như họ đang chết hoặc còn sống. Hoặc giả bạn và những người khác có thể thực hiện chung điều ấy với nhau cho chính bạn hoặc cho những người khác. Tuy nhiên những hình thức lễ bái sau đây được lập lại ngay cả nếu bạn thực hành cho chính bạn và cho sự lợi ích của chúng sanh.

Với sự tin tưởng lớn lao, sự quy ngưỡng, sự sẵn sàng và hoan hỷ tập trung vào nơi đức Phật và thiền quán cho bốn nguyên nhân. Hình thức lễ bái này có bốn phần. Đó là sự thực tập có tính cách ban đầu; sự thực tập chính cho bốn nguyên nhân là sự tái sanh về cõi Cực Lạc; thần chú và danh hiệu; cuối cùng là kết thúc việc thực tập.

Dự bị thực tập

Quy y

Từ nơi sâu thẳm của nội tâm bạn, dùng sự nương tựa tối hậu với đức Phật Vô Lượng Quang (A Di Đà), trong giáo pháp, sự dạy dỗ, con đường luyện tập và sự đạt được thuộc về lãnh vực tinh thần và với Tăng Già; cộng đồng có tính cách tinh thần của các vị Bồ Tát, các vị A La Hán và những người quy y.

Lập lại 3 lần như sau:“Đối với đức Phật, giáo pháp và Tăng giàCon xin nương tựa cho đến khi con đạt thành giác ngộVới phước đức của sự khoan dung và cho những người khácXin cho con đạt thành quả vị Phật để làm lợi ích cho tất cả chúng sanh”.

Phát Bồ đề tâm

Với tình yêu diệu hiền được phát sanh, lòng từ bi, sự hoan hỷ đồng tình và sự tĩnh lặng hướng đến tất cả những chúng sanh như là sự hướng về chính người Mẹ của bạn. Hãy suy nghĩ rằng bạn sẽ cầu nguyện và thiền quán cho sự lợi ích của tất cả chúng sanh để sanh về cõi giới Cực Lạc.

Lập lại 3 lần như sau:“Xin nguyện cho tất cả chúng sanh vui với hạnh phúc và nguyên nhân của hạnh phúc.Cầu nguyện cho tất cả được thoát khỏi khổ đau và nguyên nhân của sự khổ đau.Cầu nguyện cho tất cả chẳng hề phân chia những hạnh phúc cao cả, sự tự do từ những nổi khổCầu nguyện cho tất cả sự bình tĩnh mãi mãi tồn tại, tự do cả hai sự chấp trước để quan hệ và ngược lại với sự sân hận”.

Bốn nguyên nhân vãng sanh cõi Cực Lạc

Để được sanh về một trong những cảnh giới Tịnh độ, các bạn phải chuẩn bị và cố gắng bởi chính bạn. Điều này kể cả sự Tẩy tịnh cho những nghiệp bất thiện và những hành vi tích chứa công đức với sự trắc định của bốn nguyên nhân. Sự lược thuật sau đây là những việc căn bản được viết bởi đại sư Dodrupchen Rinpoche thứ 3, người đã căn cứ vào kinhAmitabhavyuha Sutra (kinh A Di Dà), nhớ lại điều căn bản của 4 (hay ít nhất là 3) nguyên nhân cho sự tái sanh về cõi Cực Lạc của đức Phật Vô Lượng Quang (A Di Đà).

Nguyên nhân đầu tiên: Nhớ nghĩ về cảnh Tịnh độ

Nguyên nhân đầu tiên là nhớ về và hồi tưởng đến cấu trúc đẹp đẽ thật ngạc nhiên, không khí an lành và cảm giác hoan hỷ của cảnh giới Cực Lạc, cứ lập đi lập lại mãi như vậy.

Cõi Cực Lạc có một không khí tuyệt đối an bình cũng như hoan hỷ, phát ra ánh sáng tươi đẹp, là một cõi phồn vinh cũng như trong sạch, nơi đó không hề biết đến sự khổ. Ở đó không có khái niệm hay biểu hiện tính cách khổ não như tham lam, sự hỗn loạn và sân si. Tất cả đều được tạo nên bởi ánh sáng trí tuệ và năng lượng trí tuệ của sự hòa bình tối cao và hoan hỷ. Đây là thiên đường không có giới hạn bởi núi non và những cánh đồng ánh sáng; sông núi ao hồ cũng bằng ánh sáng, vườn tược và hoa trái cũng bằng ánh sáng; cây trái bằng ánh sáng; đường xá và nhà cửa bằng ánh sáng. Được chứa đầy với vô số chúng sanh dự tri của những tia sáng ở hình thái khác thường cùng với y phục và những sự hoạt động. Họ bay đi qua không gian và di chuyển xuyên qua vũ trụ ở trạng thái hòa bình và an lạc tuyệt đối. Những chúng sanh ấy thăm viếng vô số cõi Tịnh độ khác và nhận được những lời dạy cùng những sự gia trì. Bất cứ vật gì mà các bạn cần, đều được hiện ra. Âm thanh của những lời giáo huấn ấy cũng như pháp âm đầy dẫy khắp nơi. Tất cả những ai tồn tại nơi ấy đều ở trong trạng thái tối cao của hòa bình và hoan hỷ.

Ở ngay chính giữa, ở phía dưới cây giác ngộ vĩ đại ấy là đức Phật Vô Lượng Quang (A Di Đà). Thân đoan chánh của Ngài và thân thể trẻ trung với ánh sáng đỏ được trang sức với những chứng tích của những chúng sanh thượng thặng. Ngài ở ngay chính giữa biển trí tuệ giác ngộ của chúng sanh cùng với tám vị Bồ Tát, các Ngài gồm đức Quán Thế Ấm và Ngài Đại Thế Chí. Toàn thể khung cảnh ấy chứa đầy những tia ánh sáng từ thân thể của Ngài. Tình yêu thương của Ngài không có giới hạn, trí tuệ toàn tri và năng lực biến khắp để phụng sự cho tất cả chúng sanh không chấm dứt.

Bạn phải ứng dụng bốn năng lực ấy để chữa trị. Những hình ảnh thiện lương, ngôn từ, cảm giác và niềm tin tưởng – qua khỏi và cao hơn nữa với thể lực hồi tưởng lại của bạn về cảnh Tịnh độ.

1) Hãy quán tưởng chi tiết của cõi Cực Lạc như đã giới thiệu trong chương 7

2) Hãy nghĩ về chi tiết của cõi Tịnh độ và phẩm chất của cõi kia với ngôn từ và sự cầu nguyện.

3) Hãy hoan hỷ với cảm giác của sự tồn tại kia và sự gia trì từ chỗ thẩm sâu nơi tâm thức của bạn

4) Hãy tin tưởng rằng cõi Cực Lạc với đức Phật Vô Lượng Quang (A Di Đà) đang ở trước mặt bạn và hãy tin rằng với năng lực của lời nguyện của đức Phật sẽ hướng dẫn bạn tái sanh về thế giới Tịnh Độ.

Ở vào thời điểm quá vãng, tâm thức của bạn sẽ được tự do từ sự hạn chế phụ thuộc bởi thân thể vật lý của bạn cũng như nền văn hóa bao bọc chung quanh bạn. Như vậy trong khi bạn đang sống nếu bạn muốn gieo trồng tập quán xem xét cũng như cảm nhận về cảnh Tịnh Độ trong tâm của bạn thì khi chết sự lý giải của bạn sẽ có tính cách tự phát trổi dậy như là một cảnh Tịnh Độ chơn thật và bạn sẽ tìm lại được bởi chính bạn ở trong ấy. Thế rồi việc tái sanh về cảnh giới Cực Lạc sẽ là chuyện tự nhiên.

Không phải bất cứ ai cũng sẽ được diện kiến đức Phật Vô Lượng Quang (A Di Đà) và cõi Cực Lạc của Ngài giống nhau. Sự lý giải của chúng ta từ sự đạt được tinh thần của chúng ta. Một vài người sẽ thấy cõi Tịnh độ như là hiện thực; những người khác sẽ thấy cõi ấy như là sự biểu thị của cõi Tịnh độ. Tuy nhiên trên thực tế của cõi Cực Lạc chỉ là một.

Nếu bạn giác ngộ thì bạn sẽ gặp đức Phật Vô Lượng Quang như là đức Phật trong hiện tại, với trí tuệ căn bản bạn sẽ nhìn thấy cõi Tịnh độ của Ngài như là cõi Tịnh độ hoan hỷ, sức mạnh và ánh sáng của trí tuệ có tính cách căn bản của chính nó. Tất cả những hình tướng và kinh nghiệm sẽ hiện hữu một cách tự nhiên không khác hai. Tất cả đều thể hiện như là thiên nhiên chơn thật và chất lượng trong sáng. Những lời dạy của đạo Phật gọi cảnh Tịnh độ này là: “Cõi Tịnh độ với thân thể hỷ lạc’’ (báo thân của Phật quả). Sanh về thế giới tốt đẹp hơn bất cứ nơi nào khác. Đó là sự thể đắc của vũ trụ, sự phổ biến Phật quả với chính những điều không thể phân ly của Tịnh Độ.

Nếu bạn là một người quy ngưỡng bình thường thì ngược lại, bạn sẽ gặp đức Phật cũng như cõi Tịnh độ của Ngài như là một thế giới đầy an lạc và hoan hỷ được chứa đầy ánh sáng giác ngộ của chúng sanh với tình yêu thương không có điều kiện, trí tuệ toàn tri và năng lực không giới hạn. Thế nhưng bạn sẽ nhận ra thế giới này như một thế giới nào đó ở bên ngoài, giống như là một cảnh giới khác vậy. Bạn cũng sẽ hoan hỷ không thể nói hết được sự hòa bình và an lạc. Thế nhưng bạn sẽ vẫn trải qua kinh nghiệm của những sự vật này với tâm hồn có tính cách nhị nguyên, hãy xử dụng những cảm giác và những sự cảm kích ấy. Tất cả mọi vật sẽ là chủ đề để thay đổi. Những lời giáo huấn gọi trạng thái này của cõi Tịnh độ là ‘Tịnh độ của ứng hóa thân’ (nirmanakaya). Việc vi diệu là con người ở đó giống như bạn và tôi – Trên thực tế thì tất cả mọi chúng sanh – có thể sanh ra tại đây. Và khi ở đấy, chúng ta sẽ chẳng bao giờ thối lui, nhưng luôn luôn tiến hành với sự sanh trưởng tinh thần. Như thế một ngày nào đó chúng ta sẽ thể đắc được cõi Tịnh độ với thân thể hoan hỷ của Phật quả.

Để sanh về cõi Tịnh độ biểu thị này, chúng ta phải rèn luyện bốn (hay ba) nguyên nhân này.

Nguyên nhân thứ hai: Tích tụ phước đức

Bạn phải tạo ra phước đức như là những chủng tử để bạn tái sanh về cõi Cực Lạc. Với thiện nghiệp hoặc phước đức được tích chứa với hoàn toàn sự tin cẩn bởi tính chất lương thiện và những hành vi vật lý là có tính quan trọng cho một vài kết quả của sự hòa bình và hạnh phúc, đặc biệt để cho sự tái sanh về cõi Cực Lạc. Điều ấy có thể làm qua việc cúng dường, tặng quà cáp, phụng sự cho những người khác, tụng kinh cầu nguyện, sám hối những hành vi tội lỗi, bảo hộ mạng sống và sự đồng tình chăm sóc, sự dễ dãi, hòa bình, quy ngưỡng, sự chú ý và sự suy niệm.

Nguyên nhân thứ ba: Phát triển tâm giác ngộ.

Để phát triển tâm thức giác ngộ hay Bồ đề tâm, bạn phải thệ nguyện hoặc là quyết tâm hướng dẫn cho tất cả chúng sanh, không kể bất cứ họ là ai; cảnh giới Cực Lạc chẳng phải với một tâm ích kỷ và bạn phải thật là nhiệt thành và trong sự thực hiện xuyên qua thiền định và những hành vi hữu ích.

Tuy nhiên sự lập lại của kinh điển, Ngài Dodrupchen đã chỉ trích rằng sự phát Bồ Đề tâm là chẳng phải điều kiện thuộc về bản chất cho sự tái sanh cõi Cực Lạc. Thật vậy sự phát triển tâm thức giác ngộ sẽ giúp bạn chắc rằng sự tái sanh về cảnh giới Tịnh Độ và cũng sẽ làm cho bạn được nhiều hiệu quả hơn một khi mà bạn đã được sanh về đó. Ngài Dodrupchen còn thêm rằng tạo ra một sự hứa hẹn hay sự quyết tâm có nhiều năng lực hơn là tạo ra một sự nhiệt thành. Ngài còn viết rằng: Để hoàn thành một vài nhiệt vọng ấy, điều quan trọng là phát triển mạnh ý chí hoặc thệ ước như suy nghĩ rằng: “Trong hầu hết cuộc đời liên tục của tôi, tôi sẽ thực hiện trong bản chất của lòng từ bi và tánh Không, là con đường của đạo Phật”. Như các bạn biết đó, tư tưởng “tôi sẽ dậy sớm trong buổi sớm mai” đã là một sức đẩy lớn trong sự đánh thức thời gian hơn là tư tưởng “tôi có thể dậy sớm trong buổi sáng chăng?’’

Nguyên nhân thứ tư: Hồi hướng và phát nguyện.

Nguyên nhân thứ tư là việc hồi hướng tất cả những công đức như là duyên khởi để được tái sanh về cõi giới Cực Lạc và tạo ra một sự nhiệt thành cho cùng mục đích ấy. Ngay cả nếu bạn có phước đức, bạn cần gia sức thêm vào đó cho mục đích có tính cách đặc thù bởi sự hiến dâng ấy và tạo nên việc nhiệt tâm cầu nguyện trong nhiều lần sự phụng hiến và sự nhiệt thành ấy chẳng phải là một cách đơn thuần để phát triển phước đức như là những chủng tử để tái sanh về Tịnh độ mà những việc ấy cũng có nghĩa là có tính cách mạnh mẽ của việc tạo ra phước đức của chính nó.

Nếu bạn tưởng tượng rằng đức Phật đang ở trước bạn, Ngài đang lắng nghe để gia hộ cho sự cầu nguyện và sự nhiệt thành của bạn, thì những kết quả về sự cầu nguyện của bạn sẽ đầy đủ năng lực hơn cũng như hiệu quả tốt hơn.

Để hoàn thành sự cầu nguyện chân thành, điều quan trọng để trả lời, đó là nguồn năng lực để nương vào. Như vậy thì rất là quan trọng cho việc nương vào một vị Thánh, như là đức Phật Vô Lượng Thọ, đức Phật Tâm Từ Bi hoặc là đạo sư Liên Hoa Sanh.

Những nguồn năng lượng này phải là những ai đã hướng về các Ngài và với người mà các bạn chắc chắn rằng nối kết được qua sự cầu nguyện và thiền định. Các bạn phải thừa nhận rằng nguồn năng lực ấy giống như việc cụ thể của một trong tất cả những đấng tối cao. Hãy cầu nguyện nơi các Ngài cho sự thành tựu của tất cả những sự nhiệt thành của các bạn.

Lời dạy về bốn nguyên nhân để được tái sanh về cõi Cực Lạc, đức Phật Thích Ca Mâu Ni dạy rằng:

“Nầy A Nan ! ở đó có những người họ suy nghĩ chi tiết về đức Phật Vô Lượng Quang và cõi Tịnh Độ của Ngài, lặp đi rồi lặp lại. Họ sáng tạo ra nhiều những phước đức không thể tính đếm được. Họ phát tâm Bồ đề nhiệt thành để được tái sanh về cõi Tịnh Độ. Khi mà họ chết, đức Phật Vô Lượng Quang trước họ hiện ra đầy đủ giác ngộ, – với vô lượng Thánh chúng – đối với những người hư hỏng Ngài sẽ thể hiện ra với một người theo cùng của vô số những người khổ hạnh, rồi nhìn nơi họ. Họ được gặp Phật Vô Lượng Quang (A Di Đà) và họ chết với tâm hồn trong sáng lớn lao. Như vậy họ sẽ được tái sanh vào vũ trụ của cõi Cực Lạc.”

Hoặc giả cũng cùng kinh đó đã dạy rằng: Bạn cũng có thể cố gắng bởi chính bạn trong ba nguyên nhân (nguyên nhân đầu, thứ hai và thứ tư; không có phát Bồ đề tâm đi kèm) và cũng vẫn được sanh về cõi giới Cực Lạc. Hãy suy nghĩ về chất lượng của cõi Tịnh độ nhiều lần như vậy, hãy tạo ra nhiều phước đức như bạn có thể và hãy hồi hướng những phước đức ấy cùng với sự nhiệt thành và nói: “cầu xin chúng sanh con được tái sanh về cõi giới Cực Lạc’’.

Hình thức cầu nguyện của bốn nguyên nhân

Hãy suy nghĩ về hoặc quán tưởng sự hiện hữu của cảnh giới Cực Lạc, một thế giới với sự hoan hỷ tràn đầy và sự an lạc như đã mô tả trong chương 7. Ở chính giữa là đức Phật Vô Lượng Quang, đang đoái nhìn bạn và đang suy nghĩ về bạn và tất cả chúng sanh với trí tuệ, lòng từ bi cũng như hùng lực. Cõi Tịnh Độ này chứa đầy vô số chúng sanh giác ngộ ở hình thức khác thường, hình dáng mạnh khoẻ và đa dạng. Với sự quy ngưỡng trọn vẹn và tỏ ra tôn kính.Trong một đất nước cao cả ở về hướng phía TâyCó cõi Cực Lạc của đức Phật , hoàn toàn chẳng ô nhiễmĐược thành tựu bởi năng lực cũng như sự nhiệt thành trong sáng và ở đó là đức Phật tối thượng.Cũng như các đệ tử của Ngài. Tất cả đều không thể tưởng tượng được sự trang nghiêm một cách tuyệt đối. Với Ngài, con xin tôn kính.

Kế tiếp, với tâm quy hướng và với âm thanh ngọt ngào, tán, tụng những giòng chữ sau đây cũng như hãy Thiền tập êm dịu ở những ý nghĩa ấy, lặp đi lặp lại nhiều lần.

Con tôn kính sự gia trì của Ngài, đức Vô Lượng Quang

Suy nghĩ về chất lượng của cõi Tịnh độCon hồi tưởng lại cõi Cực Lạc, cứ thế và cứ thếCon nhớ đến Ngài, đấng Vô Lượng Quang, từ nơi sâu thẩm của tâm conCon hồi tưởng đến biển chiến thắng của các đệ tử với sự nhất tâm.Sự câu hội ấy, canh phòng cho những ai chưa hề có được – xin gia hộ cho chúng con

Bảy lần tích tụ phước đức

Một đấng đại từ, người bảo hộ, đến với bạn

Con cúi đầu đảnh lễ với sự tôn kính. Con hiến dâng biển mây để cúng dường. Con tự hối tất cả những hành vi sai trái của con và những khuyết điểm. Con hoan hỷ trên tất cả những đức hạnh.

Hãy xoay chuyển bánh xe pháp, hãy ở lại, xin đừng vào Niết Bàn.

Phát Bồ Đề TâmLà động cơ cho tất cả chúng sanh, không giới hạn bởi vũ trụĐể đạt thành trạng thái giác ngộ tròn đầy,Sự thành tựu tổng thể của Phật Tịnh độ,Với biển giác ngộ nhiệt thành và là những chủng tử – cầu xin cho con được thành tựu.

Sự hồi hướng và phát nguyệnBởi năng lực của phước đức, kể cả điều này, cầu nguyện cho tất cả chúng sanh và con,Trong đời sống tiếp đến của chúng con, ở cõi giới Cực LạcĐẹp đẽ với sự vi diệu được phối trí của phép lạXin được tái sanh và hưởng niềm vui của tối thượng thừa (đại thừa).

Thần chú và hồng danh cầu nguyện

Thần chú của đức Phật Vô Lượng Quang

OM AMITABHA HRI (Án A Di Đà Hồng)

Ý nghĩa của thần chú là: “Thân thể, lời nói và tâm của chư Phật, đức Phật Vô Lượng Quang, xin hãy cho sự gia trì của Ngài lên chúng con’’.

Ý nghĩa của từng chữ của Thần chú ấy bằng tiếng Sanskrit được hiểu như sau:

OM (a,o, m): lời nói, thân thể và tâm thức của chư Phật và ba cánh cửa của một hợp nhất (hoặc: ô!)

AMI (vô hạn): tất cả trải rộng ra, không hạn định

TABHA (ánh sáng): sự gia trì, chiếu tỏa, sức mạnh

HRI: dấu hiệu tâm chủng tử của đức Phật Vô Lượng Quang. Để nói chữ HRI bạn phải tiến xa hơn hoặc kêu gọi lòng từ bi và quả tim trí tuệ của đức Phật.

Hãy lặp lại thần chú này 100, 1.000 và 1.000.000 lần

Hồng danh cầu nguyện đến đức Phật và chư vị Bồ Tát

Gọi danh đức Phật Vô Lượng Quang (A Di Đà) (tiếng Sanskrist là Amitabha, tiếng Tây Tạng Opagme) tụng tên của người cầu nguyện bằng tiếng Tây Tạng hay tiếng Sanskrist hay tiếng Việt Nam. Lặp lại 21 lần, 100 lần và hàng ngàn lần như vậy.

Để được một sự gia trì, đến một bậc Như Lai.

Tương ưng với một, hoàn hảo,

Đầy đủ giác ngộ, bảo hộ, Vô Lượng Quang, con xin quy kính, làm việc cúng dường và trở về nương tựa.

Gọi danh của vị Bồ Tát Từ Bi (tiếng Sanskrist: Avalokiteshvara; tiếng Tây Tạng: chenrezig), đọc tên của Ngài cầu nguyện bằng tiếng Tây Tạng hay tiếng Sankrist hay tiếng Việt. Lặp lại sự cầu nguyện ấy 7 hay 20 lần.

Với các vị Bồ Tát Ma Ha Tát, với lòng từ bi của Ngài, cao quý đức Quán Thế Ấm, con xin quy kính Ngài, xin cúng dường và xin nương tựa.

Gọi tên vị Bồ Tát với sức mạnh (Đại Thế Chí) (tiếng Sanskrist : Mahasthama – prapta; tiếng Tây Tạng: Thuchenthob) khi đọc tên Ngài cầu nguyện bằng tiếng Tây Tạng hay tiếng Sanskrist hay tiếng Việt.

Lặp lại sự cầu nguyện ấy 7 hoặc 20 lần.

Với Đại Bồ Tát Ma Ha Tát, đấng đầy đủ năng lực phi thường, con quy kính Ngài, xin cúng dường, xin về nương tựa.

Phần thực tập sau cùng: Sự hồi hướng và nhiệt vọng của người cầu nguyệnNhư sự vinh quang thể đắc của Ngài Văn Thù Sư Lợi cũng như đức Phổ HiềnTrong việc luyện tập bởi chính con bởi những điều sauCon xin hồi hướng tất cả những phước đức đến tất cả những chúng sanhTất cả chư Phật trong ba đờiVới sự tán thán cao cả cho sự hồi hướng công đức cho kẻ khác. Như thế tất cả những hành vi đức hạnh của chính conTổng thể con đều phụng dâng cho những hành vi tuyệt hảo cho kẻ khácTrong khoảnh khắc con ra đi,Con xin nguyện cầu cho những nghiệp lực hắc ám của con sẽ đi khỏi.Cầu nguyện cho con gặp được đức Phật Vô Lượng Quang, mặt đối mặt, và cho con bước sang cõi Tịnh độ.Khi đến đó được rồi, tất cả lòng nhiệt thành của những hành vi tốt đẹp,Con xin nguyện thể đắc và không có ngoại lệ nào .Bởi tổng thể sự chứa đầy tất cả sự nhiệt thành không có ngoại lệ nàoNguyện con phụng sự tất cả chúng sanh dài lâu khi vũ trụ này còn.Trong sự hội tụ tuyệt đối an lạc của đấng Thắng LợiCầu cho con được sanh về nơi tuyệt diệu của bông hoa Thánh thiệnBởi đức Phật Vô Lượng Quang, trực tiếpCầu cho con được thọ ký để được ngộ.Được đón nhận sự thọ ký tuyệt đốiVới trăm triệu lần biểu thị của conVà với năng lực trí tuệ của con trong tất cả mười phươngXin cầu cho con lợi lạc với vô số sự lợi ích cho tất cả chúng sanh.Với sự gia trì của đức Phật, Ngài có ba thân PhậtBởi sự gia trì của giáo pháp tối hậu, không thể thay đổi được chân lýBởi sự gia trì của Tăng Già, là đoàn thể không thể chia cắt đượcCầu cho tất cả những sự hồi hướng này và những sự nhiệt thành sẽ thành tựu như con đã dụng tâm.

Sự giải thích về việc hữu ích của sự hồi tưởng và lặp lại hồng danh của đức Phật Vô Lượng Quang, đức Thích Ca Mâu Ni đã dạy rằng:

“Này Xá Lợi Phất! Nếu có thiện nam hay thiện nữ nào của những gia đình tốt đẹp, đã có lần nghe đến danh hiệu của đức Phật Vô Lượng Thọ (Vô Lượng Quang) hãy giữ tên Ngài trong tâm của họ không tán loạn trong một đêm, hai đêm, ba đêm, bốn đêm, năm đêm, sáu đêm, hoặc bảy đêm – rồi thì khi người con trai hay người con gái trong gia đình tốt ấy qua đời, ông ta hay bà ta sẽ làm như vậy không động loạn thì đức Phật Vô Lượng Quang sẽ cùng với những người đệ tử đều là những vị Bồ Tát sẽ hiện ra ở trước ông hay bà ta. Ông ta hay bà ta sẽ sanh về cõi Cực Lạc của sự gia trì, rồi ra đi, đến với đức Phật Vô Lượng Quang.”

CHẾT AN LẠC TÁI SINH HOAN HỶ
Nguyên tác Anh ngữ: Peaceful Death, Joyful Rebirth
của đại sư học giả Tulku Thondup
Việt dịch: HT. Thích Như Điển & TT. Thích Nguyên Tạng
Chùa Viên Giác Hannover, Đức Quốc
Tu Viện Quảng Đức, Melbourne, Úc Châu ấn hành 2011

Phụ lục B

Tám nghi lễ Mật Giáo cho người sắp lâm chung và người chết

Hầu hết việc Thiền định và sự cầu nguyện trong phần này đều là những nghi lễ với nhiều Thần chú thuộc về Mật Giáo. Điều này có nghĩa là nếu bạn cần có một sự mật truyền và huấn luyện trong hình thức kia trước khi bạn có thể thực hành chúng. Những việc này nếu ai chẳng được huấn luyện về những hình thức ấy thì nên thực tập với phụ lục A về “bốn nguyên nhân của sự tái sanh về cõi Cực Lạc”.

Giới thiệu về tám nghi lễ

Tôi đã biên soạn ở đây một vài điều cầu nguyện tối quan trọng và thiền định thực hiện cho lễ cầu siêu. Trong này có bảy phần. Đầu tiên là thực hiện việc thực tập có tính cách dự bị để quy y Tam Bảo. Rồi thì phát Bồ Đề Tâm để phụng sự chúng sanh và đặc biệt là cho người sắp chết hoặc người đã quá vãng.

Điều thứ hai hãy quán tưởng chính bạn như là vị Phật của lòng Từ Bi (người Tây Tạng được biết đến như là vị Chenrezig) và chờ đợi ở nơi Ngài. Hãy xem chính bạn như là một vị Phật để làm lễ có kết quả hơn là thực hiện những lễ nghi này với hình thức của tâm thức bình thường.

Điều thứ ba, với năng lực mặc nhiên triệu tập hay mời gọi thần thức của người chết (nếu họ đã chết) trở lại thân thể của họ hoặc là nhục thân và hướng dẫn họ.

Sau khi chết thần thức của người quá vãng di chuyển nhanh chóng giống như gió cùng một ít không thể tự kiểm soát chính họ được, giống như người chết chỉ có thân thể tinh thần mà thôi. Như vậy bạn phải huớng dẫn thần thức của người chết vào ngẫu tượng và phải giữ nó lại qua sức mạnh mặc nhiên của bạn và xuyên qua sức mạnh của chư Phật. Sau đó bạn có thể hướng dẫn cho người quá vãng và có thể giải thoát họ

(cho hình trang 247 sách tiếng Anh vào đây)

Thứ tư là phụng sự gia trì, cúng dường thực phẩm tốt đẹp cho người chết. Đây là một cách nói của người Tây Tạng, “Ở đây chẳng có một người nào là chẳng muốn thực phẩm”. Tâm thức của người quá cố có thể tiếp tục chiến đấu với thức ăn. Họ chỉ có thể vui hưởng thức ăn đó khi được cúng cho họ, đặc biệt là thức ăn có mùi vị thì dễ an hưởng hơn cũng như mãn nguyện hơn. Nếu bạn chẳng có thực phẩm tốt đẹp để cúng dường thì bạn có thể bỏ qua phần này. Hoặc giả, nếu bạn chẳng có được sự dễ dàng để thiêu cúng dường hay thực phẩm có thể thiêu được thì bạn sẽ sửa đổi một vài loại thực phẩm có thể ăn được và uống được để cúng dường và sau lễ nghi bố thí kia cho vào trong củi thiêu hoặc một vài sự thanh khiết hoặc nơi nào thích đáng.

(cho hình trang 250 sách tiếng Anh vào đây)

Điều thứ năm là cho sự giáo huấn. Bạn nên nói ra những lời hướng dẫn cho người sắp chết hoặc người quá vãng với một tâm từ bi, ngọt ngào và âm thanh linh thiêng cũng như sự tự tin vững chắc. Tuy nhiên, nếu có một vài lý do nào đó mà bạn cảm thấy điều ấy chẳng thể thích hợp thì bạn có thể lược bớt.

Điều thứ sáu là Thiền định và phowa (chuyển di thần thức). Với sự quy ngưỡng cầu nguyện mạnh mẽ cũng như sự chờ đợi, chuyển dời thần thức của người quá cố vào trong tâm của Đức Phật Vô Lượng Quang. Sự thiền định này là nguyên nhân để cho người chết sanh về thế giới Cực Lạc (hay đạt đến sự giác ngộ). Đây là tâm điểm của lễ cầu siêu.

Điều thứ bảy là nếu bạn thực hiện phowa (sự di chuyển thần thức) như Thiền định để luyện tập cho chính bạn, tốt hơn hết là giúp một vài người nào đó đang chết và sau đấy bạn có thể thiền tọa đến đức Phật Vô Lượng Thọ (A Di Đà) và cầu nguyện với Thần chú của Ngài thật lâu. Sự thực tập sau hết tuy vậy cũng giản lược bớt.

Điều thứ tám, sau cùng là hồi hướng tất cả những phước đức của bạn cho tất cả chúng sanh và đặc biệt cho người quá vãng, như là nguyên nhân để được vãng sanh về cõi Tịnh Độ của Đức Phật Vô Lượng Quang (A Di Đà) theo với sự nhiệt thành cầu nguyện một cách mạnh mẽ cho sự an lạc, hạnh phúc của họ và sự tái sanh về cõi giới Cực Lạc kia.

Thực hiện 8 nghi lễ

Nếu bạn thực tập chính là phowa (chuyển di thần thức); đây là một phần chính trong 8 loại nghi lễ cho chính bạn hoặc cho người đang còn sống, rồi bạn bắt đầu với sự chuẩn bị thực hiện (xem trang 252 sách tiếng Anh) và kết thúc với sự hồi hướng và sự nhiệt tâm của người cầu nguyện (bắt đầu trang 278 e.). Các bạn có thể thực tập việc này trong nhiều tuần lễ hoặc hằng tháng hay kết hợp điều ấy với sự hành trì hằng ngày của các bạn.

Đối với một vài việc hành Thiền, đặc biệt là phowa, điều rất quan trọng là phải có một vài kinh nghiệm suy nghiệm trước khi các bạn thực hiện điều ấy cho chính bạn hoặc người sắp chết hay kẻ đã qua đời. Điều vô cùng lợi lạc là nếu người chết cũng đã hành trì việc ấy đã có sự tiến bộ.

Nếu các bạn đang thực hiện nó cho một người qua đời thì các bạn nên thực hiện tất cả tám phần này.

Trước hết bạn có thể chuẩn bị việc hành trì; rồi thì tập trung qua sự quán tưởng và niệm danh hiệu của Phật Từ Bi, kết thúc với sự hồi hướng và sự nhiệt tâm của người cầu nguyện. Các bạn có thể thực hiện việc này riêng biệt như là sự hành trì thường xuyên của các bạn.

Tôi đã giới thiệu những nghi lễ sau đây, nếu như có người nào đó thực hiện điều ấy cho người quá cố và trừ ra trong văn bản nói khác. Tuy nhiên bởi vì chủ từ lẫn túc từ trong một câu văn bằng tiếng Tây Tạng thông thường được dùng nhiều cách, các bạn nên sử dụng những đại danh từ như: chúng tôi, thuộc về chúng tôi, của chúng tôi, bà ta, ông ta và như vậy thì dễ thích hợp hơn.

Những việc hành trì căn bản.

Quy y

Với sự quy ngưỡng nhiệt thành mạnh mẽ, hãy quy y với Đức Phật Vô Lượng Quang (A Di Đà), với giáo pháp, những lời dạy, con đường của sự hành trì và sự đạt được lãnh vực tinh thần cũng như Tăng Già, cộng đồng tinh thần của các vị Bồ Tát cùng với sự nương tựa.

Hãy lặp lại 3 lần:Với Đức Phật vô thượng cùng Giáo pháp và Tăng GiàCon xin nương về cho đến khi đạt thành giác ngộvới sự khoan dung của phước đức và những đức hạnh khácCon xin nguyện cầu đạt thành quả vị Phật cho động cơ là tất cả chúng sanh.

Phát Bồ Đề Tâm

Hãy thể hiện lòng từ bi mạnh mẽ đối với tất cả, hãy suy nghĩ rằng các bạn đang cầu nguyện và Thiền tọa cho động cơ của tất cả chúng sanh. Như vậy thì họ có thể sinh về thế giới Cực Lạc. Đặc biệt là phải phát triển lòng Từ Bi mạnh mẽ cho người quá cố. Nếu không phải lòng Từ Bi mạnh mẽ, Thiền tọa thì việc phowa (chuyển di thần thức) sẽ chẳng dễ dàng thành công được.

Hãy lặp lại 3 lầnXin cầu nguyện cho tất cả chúng sanh an lạc hạnh phúc và nguyên nhân của hạnh phúc.Xin cầu nguyện cho họ được ra khỏi sự khổ đau cũng như nguyên nhân của sự khổ đau.Xin cầu nguyện cho họ chẳng hề bị rời khỏi hạnh phúc cao quí, hãy xa rời sự khổ đau.Xin cầu nguyện cho họ hãy giữ sự bình tĩnh không giới hạn để xa lìa cả hai sự chấp trước liên hệ với sự sân hận của sự phản đối.

Quán tưởng mình là Đức Phật Từ Bi

Hri! Xuyên qua sự chờ đợi sự hoàn hảo như Đức Quán Thế Âm Bồ Tát trong việc hồi tưởng đúng hơn,

Từ trạng thái của tánh Không bừng dậy trên chỗ ngồi liên hoa và mặt trăng.

Ở đấy thấy hoa sen trắng được trang sức với mẫu tự Hri để biến hóa.

Vào nơi Đức Từ Bi, Ngài Quan Thế Âm

Thân của Ngài được chiếu bởi tia sáng trắng, có một đầu và bốn tay.

Hai cánh tay phía trước của Ngài sát với quả tim của Ngài.

Cánh tay thứ hai bên phải của Ngài cầm cành hoa hồng bằng pha lê cao quí.

Cánh tay thứ hai bên trái của Ngài cầm hoa sen trắng cùng cành.

Ngài mỉm cười, mắt Ngài trong sáng và lỗ mũi của Ngài cao, đẹp.

Tóc Ngài xanh đậm được bới cao lên trên đỉnh đầu.

Nơi vương miện trên đầu Ngài là Đức Phật Vô Lượng Quang (A Di Đà) với huyết thống của Ngài.

Ở giữa quả tim là sự cụ thể hóa chính Ngài.

Hãy tưởng tượng hoa sen nở trắng với sáu cánh. Ở chính giữa đó cụ thể hóa mẫu tự Hri và sáu cánh ấy là sáu mẫu tự Án Ma Ni Bát Di Hồng Hri! (Om Mani Padme Hung Hri)

Chúng sanh tiếp xúc với tia ánh sáng đột xuất từ thân thể của bạn. Tất cả mọi hình thức của vũ trụ trở nên lời tiên tri của thân thể, sự nối kết giữa tánh Không và sự xuất hiện.

Thân thể của Đấng Đại Bi, vị vua của chân lý vĩnh cửu, chúng sanh được chứa đầy bởi những tia sáng phát ra từ những Mạn Đà La, âm thanh của những yếu tố

Tất cả những âm thanh trở thành âm thanh của Mạn Đà La, sự nối kết giữa tánh Không và âm thanh.

Sự hồi tưởng và những tư duy của con sống lại trong trạng thái tự nhiên, thoát khởi sự sinh, vĩnh cửu và đình chỉ.

Thị lực ấy siêu việt tất cả khái niệm, sự biểu hiện và những chỉ thị.

Hãy Thiền quán với phương pháp kia, sáu mẫu tự, Mạn Đà La Mật Giáo con tụng đọc không giảm thiểu với sự trong sáng của một phần trong ấy.

Thần chú của Đức Phật Từ Bi (Quán Thế Âm Bồ Tát)

Hãy lặp lại Thần chú này hàng trăm, hàng ngàn lần hoặc nhiều hơn nữa.

Om Mani Padme Hung (Hri)

Án ma ni Bát di Hồng

Hung (đánh vần, phát âm là hoong) là cách phát âm tiếng Tây Tạng qua mẫu tự Hum của tiếng Sanskrit. Hri được giản lược trong một vài truyền thống khác.

Ý nghĩa chính yếu của Thần chú là:

Thân thể, lời nói và tâm thức của đức Phật với lòng từ bi (quí báu) và trí tuệ (hoa sen), xin cho con sự gia trì của Ngài lên chúng con.

hoặc giả: Ôi, đức Phật! Người đang cầm hoa sen và bảo ngọc, xin hãy nghĩ đến chúng con.

Hoặc là: Ôi Đức Phật của trí tuệ và từ bi, xin lưu tâm đến chúng con.

Ý nghĩa từng chữ của Mạn Đà La như sau:

Om (A, O, M): Thân thể, lời nói và tâm thức của Đức Phật và 3 cánh cửa của sự nhứt như (ND: tam mật tương ưng) hay Ồ !

Mani (bảo châu): nhẫn nại, dùng phương tiện, lòng từ bi.

Padme (hoa sen): trí tuệ, bất nhiễm, trong suốt

Hum/ Hung (sự nối kết): Nối kết những phương tiện và trí tuệ, hoặc sự mời gọi của Đức Phật cho sự gia trì.

Hri (mẫu tự chữ tâm) chủng tử tâm trạng của Đức Quán Thế Âm (đạt được hay mời gọi hoặc thống hợp với tâm từ bi của Đức Quán Thế Âm. Nhiều tông phái Phật Giáo không dùng đến chữ Hri)

Cúng dường Đức Phật Từ Bi

Hãy đọc Thần chú này:

Tiếng Phạn”

Om arya – avalokeshvara – mandala – saparivara vajra – Arghampad – Yam pushpe dhupe aloke gandhe naivedye shabda praticcha svaha.

Nghĩa là:

Ồ, Đức Quán Thế Âm cao cả, Mạn Đà La của Ngài và người tùy hành, thừa nhận việc uống nước chẳng thể phá hoại, nước dưới chân, hoa, hương, đèn, phấn hương, thức ăn và âm nhạc. Như thế ấy.

Cúng dường tán thán Đức Phật Từ Bi

Hri ! Sự gia trì và đấng Đại Bi

Màu trắng ấy giống như Ngài không lay động bởi một vài khuyết điểm. Đầu của Ngài được trang sức bởi Đức Phật hoàn toàn giác ngộ (Vô Lượng Quang). Đôi mắt từ bi của Ngài đang gìn giữ chúng sanh.

Đức Phật từ bi, với Ngài con xin ca ngợi tán thán.

Om Ma Ni Pad Me Hung Hri

Chân thành cầu nguyện

Với những công đức của thiền định
Con xin quán tưởng đến đức Phật từ bi
Không xa lìa bất cứ chúng sanh nào
Nguyện xin cho con có thể hướng dẫn tất cả vào Phật quả.

Thỉnh mời thần thức của người quá cố và giảng pháp thiền tọa nơi chỗ ngồi và hình thể của người quá cố, nói những Thần chú như sau và cầu nguyện:

Án ! Tất cả những hiện tượng đều trong sạch và tự nhiên, con cũng trong sạch trong thiên nhiên.

Tất cả đều trở thành tánh Không.

Từ tánh Không kia quay tròn hiện ra một hoa sen và một chỗ ngồi mặt trăng

Trên ấy hiện ra mẫu tự Hri

Rồi thì Hri trở thành thể thức của người quá cố của chúng tôi. Thân thể của Ông/ Bà là hoàn hảo với tất cả năng lực và các căn. Như khi ông, bà ta còn sống và tốt.

Hãy lặp lại điều dưới đây ba lần, mời thỉnh thần thức của người quá cố đến hình thức (thân hình hay tử thi) xuyên qua năng lực trầm tư của bạn.

Hri ! Con xin quán tưởng bởi chính con ở hình thể của Đức Phật Đại Từ Bi.

Từ chữ Hri ở nơi tâm của con, những tia sáng chiếu tỏa khắp nơi, chúng đã mang đến cho tâm thức những người bạn quá cố của chúng tôi, từ một trong bảy nơi trong hệ thống thế giới, trong cái nào mà ông bà ta đang hiện hữu (gồm sáu cõi và thân trung ấm)

Nó sẽ chìm sâu vào trong hình thể của thân thể hoặc tử thi.

Vậy hãy đem tâm thức của người quá cố đến hình thể xuyên qua năng lực của Đức Phật Từ Bi:

Kính lạy Đấng với năng lực chân thật của vị Thần Từ Bi
Người hóa thân Tam Bảo và ba cội rễ:
Quán Thế Âm, tự do tự nhiên từ sự khổ đau
Cầu nguyện cho thần thức của người chết
Được mang đến tử thi này ngay lập tức,
Án Ma Ni Bát Di Hồng Hri. Xin cầu nguyện cho thần thức của người chết được mang đến đây.

Sau đó hãy nghĩ rằng người đã ra đi đó đang ngồi trước bạn, yên tĩnh và đầy kính trọng, cho họ những lời hướng dẫn như sau:

Hri ! Này người quá vãng ! Bạn là người đã vượt qua khỏi cuộc đời này rồi, xin vui lòng lắng nghe tôi đây.

Trong sáu cõi luân hồi, bất cứ nơi nào mà bạn tái sanh, tất cả đều đầy dãy khổ đau, giống như đang sống giữa loài cá sấu. Để được thoát ra khỏi chúng, ở nơi tử thi và danh nghĩa của biểu đề, điều nào mà vật chất đã mê hoặc tâm thức của bạn và nơi chốn để xác định về ba cánh cửa ra của bạn, xin vui lòng ngồi vững chắc. Xin cầu nguyện cho thần thức của bạn được mang đến và hãy an định với thể thức ấy.

Hãy suy nghĩ rằng người quá cố đang an định và yên tĩnh được đặt nơi ghế ngồi và theo dõi những điều hướng dẫn như sau:

Phẩm vật hiến cúng người quá cố

Việc cúng này có thể được giản lược nếu bất tiện. Hãy nói những Thần chú như sau và hãy thỉnh mời năng lực của Đức Phật của sự sám hối và sự rỗng không tất cả để đi vào nơi đón mời tối hậu:

Om! Không thể phá hoại được, Thần phẫn nộ Hayagriva Huur Phat

Om! Tất cả mọi hiện tượng đều trong sạch tự nhiên, tôi trong sạch trong tự nhiên.

Tất cả trở thành tánh Không.

Đầu tiên hãy quán tưởng cho những vật chất tốt đẹp thành trong sáng, sự mong muốn tràn đầy đối tượng vô cực.

Từ trạng thái tánh Không kia hiện ra đồ đựng to lớn của một vật chất quý giá chứa đầy với tất cả những vật chất ở hình thức tuyệt hảo như sự mong muốn, âm thanh ngọt ngào, thức ăn nếm đầy mỹ vị và áo quần mềm mại khi sờ đến, những điều này như là vô hạn như chiều dài, rộng của vũ trụ gấp ba lần hệ thống của thế giới.

Sau đó hãy nói ba mẫu tự linh thiêng và Mạn Đà La, hãy gia trì vào những vật liệu tốt để trở thành thuần nhất, lời mong muốn đong đầy đối tượng vô cực:

Om Ah Hum

Om Ah Hum

Om Ah Hum Ho

Om! Mẫu tự Ah là cánh cửa, bởi vì nguyên thủ không nổi dậy yếu đuối của tất cả mọi hiện tượng.

Om Ah Hum Phat Svaha

Hãy nhìn đối tượng đẹp đẽ như là đối tượng an toàn, rồi ca tụng:

Ở trước mặt của bạn là những đồ đựng của vật chất quí giá, cái nào mà to lớn, rộng rãi và đa số.

Chúng được đong đầy với thực phẩm của Chư thiên và loài người

Thực phẩm để ăn, nhai, đồ lạt và nước ngọt,

Hãy uống trà, rượu, sữa, yoghurt và v.v…

Cầu nguyện cho chúng sẽ trở thành những ngọc quí không xử dụng hết tràn đầy ước muốn.

Hãy lập lại những Thần chú sau đây ba lần, hãy gia trì lên những vật liệu tốt đẹp, như vậy chúng sẽ trở thành một cách thỏa mãn nguồn gốc của sự gia trì:

Kính lạy tất cả những bậc Như Lai, khắp các hướng, Người đã hiện ra ở mọi thời gian như vũ trụ, một mặt rộng rãi ở cõi giới này của vũ trụ. Như nó đang là.

Sau đó dâng những vật liệu tốt đẹp đến người quá cố như sau đây:

Thực phẩm với hằng trăm những đồ nếm hảo hạng:

Thức ăn để ăn và đồ uống để uống

Áo quần để mặc và những vật chất cần thiết

Bởi sự gia trì chúng như những món ngọc ngà không xử dụng hết được. Tôi xin hồi hướng chúng đến với bạn, người bạn quá cố của chúng tôi. Xin cho chúng trở thành sự thích nghi cho lục căn của bạn, ngọc quý khác thường của sự giàu có an vui.

Cầu cho bạn nhận được chúng, như tôi đã hiến dâng chúng cho bạn. Nay, cầu mong bạn thỏa mãn với sự nếm mùi của hòa bình và an lạc.

Cuối cùng xin cầu cho bạn đạt thành trạng thái tổng thể trong sạch của Phật quả.

Cho thức ăn đốt cháy trong ngọn lửa đỏ và rảy nước chung quanh ngọn lửa. Rồi liền sau đó dâng những đồ cúng tốt đẹp và nói theo những điều như sau:

Xin cầu cho những đồ vật ước muốn này đuợc ở mãi trong bầu trời ngọc

Sự giàu có không xử dụng hết

Xin cầu cho tất cả những ai được cúng không tranh giành với nhau và bạo động

Hãy vui vẻ tự nhiên với những thứ ấy.

Lặp lại bốn câu trên ba lần, bảy lần hay nhiều lần.

Điểm chính của việc cầu nguyện dâng đồ tốt đẹp là Mạn Đà La của Đức Phật Từ Bi. Cúng những đồ tốt đẹp ấy, và lặp lại những Thần chú trong nhiều lần với sự quy ngưỡng Đức Phật và lòng từ bi cho người quá cố.

Hãy lặp lại hàng trăm hoặc hàng ngàn lần như vậy:

OM Mani Padme Hung (Hri)

Sau phần dâng cúng đồ tốt đẹp, đọc tụng lời cầu nguyện nhiệt thành:

Buồn thay! Xin nguyện cho tất cả chúng sanh, ai đang trôi lăn trong chốn sợ hãi

Nên để ý đến những đứa con đồng tình của Phật

bởi sức mạnh của sự biểu thị cho năm tính chất căn bản của trí tuệ như một vị Bồ Tát:

Ngài Địa Tạng, Akashagarbha (Hư Không Tạng), Quán Thế Âm

Vajrapani (Kim Cương Thủ) và Nivaranavishambin.

Xin cầu cho sự nhiễm ô của ngũ căn của người quá cố của chúng con được tan ra.

Xin cầu cho họ an vui với sự giàu có của năm đối tượng ước vọng (vui với hình tướng, âm thanh, mùi vị, nếm mùi và đối tượng của sự va chạm)

Những Thần người ấy, người mà chúng ta phụng sự từ vô thỉ:

Năm vị Bồ Tát, người hướng đạo tuyệt vời, với các Ngài, chúng con xin nương tựa.

Xin gia hộ cho người quá cố là bạn của chúng con với lòng từ bi của các Ngài từ đây, về hướng phía Tây.

Có một cõi Tịnh Độ của Đức Phật Vô Lượng Quang.

Bất cứ ai niệm danh hiệu Ngài

Xin cho họ được sanh về cõi Cực Lạc ấy.

Hướng dẫn Phật pháp cho người quá cố

Với tâm từ bi, người trợ tử có thể hướng dẫn tùy ý như sau cho người quá cố với âm thanh ngọt ngào về sự linh ứng kia. Và mạnh mẽ với sự tự tin. Chúng có thể được giản lược nếu cảm thấy nên thay đổi lại bởi một vài lý do.

Đầu tiên hãy gọi tên của người quá cố

Rồi sau đó lập lại ba lần: “Thời gian chết đã đến với bạn”.Tiếp đó nói: “Sự chết đã chẳng đến ngay từ bây giờ với bạn. Tất cả ai đã sinh ra thì cũng phải chết. Ngay cả những người giàu có và những kẻ có thế lực cho đến những kẻ nghèo nàn khốn khổ, tất cả phải đi đến chỗ chết. Ở đây chẳng có một ai trốn khỏi sự chết cả. Do vậy chẳng nên buồn. Xin đừng tự trói buộc vào tình yêu thương của một người nào đó hay sự sở hữu, chẳng một ai có thể theo bạn để giúp bạn được. Đức Phật đã dạy rằng:

Nếu thời điểm ấy đến, ngay cả Đức vua cũng phải chết

Sự giàu có và bạn bè của vua cùng những sự quan hệ ấy chẳng thể theo nhà vua được.

Bất kể ở đâu có người đi thì bất kể nơi đâu họ vẫn còn tồn tại.

Nghiệp lực giống như cái bóng sẽ theo sau họ.

Nếu tâm thức của bạn bị trói buộc bởi một tình yêu hay sự sở hữu thì bạn có thể rơi vào cảnh giới chẳng hạnh phúc. Do đó xin bạn nên hồi tưởng lại và vui với những gì mà bạn đã gặp được qua lời dạy của đức Phật. Ngay cả khi nghe được danh hiệu của Phật, sẽ làm cho đời sống của bạn có ý nghĩa hơn. Nếu bạn chết với sự xác tín nơi Đức Phật và một cảm giác vui tươi thì bạn sẽ được giải thoát từ cảnh giới thấp hơn và sẽ sanh vào cảnh giới hạnh phúc hơn. Do vậy bạn phải hướng về đức Phật, Ngài giống như người hướng đạo, cùng với sự quy ngưỡng. Bạn phải tin tưởng vào giáo pháp, những lời dạy và thiền định như là con đường của bạn. Bạn phải mời gọi Tăng già, những vị Bồ Tát đến để bảo hộ cho bạn.

Đặc biệt hãy nhớ đến đức Phật Vô Lượng Quang và cảnh giới Cực Lạc của Ngài. Hãy nghĩ về sự an lạc, hoan hỷ và chất lượng thật vi diệu của cõi Tịnh Độ, được chứa đầy cả một biển Bồ Tát và những đệ tử như các Ngài Bồ Tát của Từ Bi (Quán Thế Âm) và Bồ Tát của sức mạnh (Đại Thế Chí)

Đức Phật Vô Lượng Quang đã hứa rằng nếu bạn nhớ tưởng đến danh hiệu của Ngài và cảm nhận được sự hiện hữu của Ngài và chất lượng của cõi Tịnh Độ kia thì bạn sẽ được che chở từ tình trạng lo âu của thân trung ấm. Nguyên nhân của sự sanh về cảnh giới thấp hơn của bạn sẽ được rửa sạch đi. Rồi Ngài hướng dẫn để được sanh về cảnh giới Tịnh Độ của Ngài. Bây giờ đây để tái sanh về cõi Cực Lạc, xin vui lòng tiếp cận với tôi trong việc thiền tọa, đặc biệt của phowa (chuyển di thần thức)

Ở bên trên người là vũ trụ, với sự quy ngưỡng về, hãy quán tưởng, nếu bạn chẳng thể quán tưởng, hãy nghĩ rằng sự hiện hữu của đức Phật Vô Lượng Quang và cõi Cực Lạc của Ngài.

“Đoạn, quán tưởng hoặc suy nghĩ về tâm thức của bạn trong thể thức của chữ Hri bao trùm thân thể của bạn đến cảnh giới Cực Lạc. Tiêu điểm là một điểm nơi tâm của bạn, hãy bay về cõi Cực Lạc, không phải đoái lui lại.”

Hoặc giả nếu người quá vãng thực tập thiền định trong quá khứ thì người trợ tử phải hướng dẫn Ông hay Bà ta và nói như sau:

Với sự quy ngưỡng hãy quán tưởng như trên và bạn đang ở trong vũ trụ của Đức Phật Vô Lượng Quang cũng như cõi Cực Lạc của Ngài. rồi hãy quán tưởng chính bạn là Đức Vajragogini (Kim Cang Du Già). Ở chính giữa thân thể của bạn, hãy quán tưởng là trung tâm của mọi phương diện. Ở phần cuối bên trên của trung tâm của mọi phương diện ấy được mở ra ở phần che trên đầu một huyệt trống. Ở phần dưới thấp là dấu ấn hoàn hảo ở nơi lỗ rún. Ở nơi ngực của bạn, trong trục chính trung tâm ấy hãy quán tưởng năng lượng của quả cầu là một màu xanh lá cây. Ở chính giữa của năng lượng màu xanh kia, hãy quán tưởng thần thức của bạn ở hình thức màu đỏ của mẫu tự Hri hay một quả banh nhỏ màu đỏ rồi thì ở ngay trên đầu của bạn hảy quán tưởng về Đức Phật Vô Lượng Quang ngay chính giữa của cõi Cực Lạc vi diệu kia.

Tiếp đến, xin vui lòng tiếp xúc với tôi trong việc quy ngưỡng mạnh hơn và hãy hoan hỷ với sự cầu nguyện với đức Phật và chư vị Bồ Tát. Vào lúc cuối của buổi cầu nguyện, khi tôi nói Phật, xin vui lòng nghĩ về và hãy tin rằng thần thức của bạn được bắn với sực mạnh của năng lượng xuyên qua một lỗ trống được che trên đầu và chuyền vào trong tâm của đức Phật Vô Lượng Quang ở Cõi Cực Lạc của Ngài.”

Sự hướng dẫn này có thể thực hiện trước khi xảy ra nghi thức phowa (chuyển di thần thức).

Đối với những lời nói hướng dẫn hoặc giới thiệu cho những đạo sư thành tựu cao hơn thì người trợ tử nên thực hiện bởi những bài hướng dẫn khác.

Thiền định và cầu nguyện phowa (chuyển di thần thức)

Sự chuyển di của thần thức về Cảnh giới Cực Lạc – phowa – là một sự chờ đợi thiền định với sự quy ngưỡng của việc cầu nguyện và sự chuyển di thần thức của người mất cũng như nối kết nó với tâm giác ngộ của đức Phật Vô Lượng Quang. Xuyên qua nhiều sự thiền tập này, và một người có thể tái sanh về cảnh giới Cực Lạc. Đây là năng lực và lợi ích cho việc thực tập phowa ở bất cứ thời gian nào và đặc biệt để việc thực hiện nó cho một người đang trải qua sự ra đi hoặc còn ở thân trung ấm. Vào thời điểm tắt thở, khi thần thức của bạn từ giã thân thể của bạn thì bạn sẽ không còn hiểu biết nữa. Khi bạn hồi phục lại thần thức của bạn thì bạn đã được ra ngoài thân thể của bạn rồi. Đồng thời di chuyển đến trạng thái của trung ấm thân, đơn độc để thích hợp với thói quen tinh thần của bạn chỉ biết nơi nào bạn sẽ dừng lại thời điểm ấy; nếu bạn có thiền tập phowa thì điều ấy sẽ hướng dẫn bạn đến cõi giới Cực Lạc, nơi đó sẽ được tái sanh hoan hỷ một ít hoặc giả chẳng cần trải qua thân trung ấm nữa.

Vì thế bạn nên thực tập phowa khi bạn còn sống và khoẻ mạnh như vậy thì tâm của bạn sẽ chuẩn bị trong khi bạn hiểu biết và bạn sẽ sẵn sàng nếu giờ phút của sự chuyển di thần thức đến. Khi gần đến thời điểm chết bạn nên tập trung nhiều hơn nữa về việc thực tập phowa chẳng những cho chính bạn mà cho những người khác thực tập nó cho bạn nữa. Khi thần thức của bạn đã ra khỏi thân thể của bạn, hướng dẫn nó làm bạn với cõi Tịnh Độ sẽ là điều lý tưởng.

Nếu lúc bạn đang chết mà việc thực tập này sẽ không làm ngắn hơn cuộc đời của bạn thì công đức của Thiền định và sự gia trì của chư Phật sẽ giúp đời sống của bạn sẽ dài lâu hơn và mạnh mẽ hơn . Điều khá quan trọng là sự thực tập này sẽ luôn luôn giúp bạn xây dựng được sự tin tưởng nơi đức Phật và Phật Tịnh Độ cũng như sửa soạn cho cái chết tốt hơn và sự tái sanh, điều ấy có thể đến lúc còn trẻ hay đã già trong bất kỳ lúc nào.

Nến bạn đang thực hành phowa cho chính bạn thì với sức mạnh năng lượng cùng sự quy kính đức Phật Vô Lượng Thọ sẽ chuyển tâm thức của bạn vào trong tâm của Đức Phật và hòa vào chung trong ấy là một. Đúng hơn, tin tưởng hơn rằng tâm thức của bạn và tâm trí tuệ của đức Phật sẽ trở thành một, cuối cùng thư giãn ở trạng thái giác ngộ với tư tưởng Không. Căn cứ vài kinh nghiệm mặc nhiên của chính bạn, sự hiểu biết kia sẽ giác ngộ tự nhiên của tâm thức với Dodgen, sự nối kết hạnh phúc to lớn về tánh Không của Mật giáo; hoặc tự do từ những khái niệm của con đường trung đạo (Madhyamaka). Sự tỉnh thức của nhiều sự thể đắc ấy sẽ giúp bạn đạt được Phật quả hay mang sự tái sanh của bạn về cõi Tịnh Độ.

Phowa được thực hiện bởi những người khác cho một người, mà người ấy vẫn còn sống thì rất là lợi ích cho việc xác lập của họ một sự nối kết thực tế với cõi Tịnh Độ. Điều này cũng có thể thực hiện cả nhiều tuần lễ sau khi người ấy chết, cho thần thức được nổi trôi không định hướng và không có một hình hài và sẽ đổi hướng về cõi Tịnh Độ. Điều này ít nhất nó sẽ sáng tạo công đức cho người quá vãng ngay cả nếu họ đã được tái sanh.

Theo một vài quyển sách cho rằng nếu một người trợ tử đang thực hiện phowa cho người chết thì ở đó chỉ có một việc mà người thực hiện sẽ đặc biệt chú ý về đó. Nếu người chết còn trẻ và hy vọng đời sống còn được kéo dài, chờ để thực hiện phowa cho đến khi mạch máu ngưng chảy. Nhiều người suy nghĩ rằng phowa chỉ để cho người sắp chết, hay người qua đời, như vậy điều ấy phải khổ công họ hoặc họ phải lo sợ về nó. Nếu người chết già cả và toàn là bịnh hoạn, hoặc nếu họ đón nhận những nghi lễ, rồi thì họ sẽ thực hiện nó ngay cả nếu mạch máu chưa dừng lại ngay bây giờ, họ thường thường đón nhận và nhận được chân giá trị của những nghi thức. Tuy nhiên bạn nên thực tập phowa ở bất cứ lúc nào như là một sự tôi luyện và nếu người kia đón nhận nó, bởi vì điều này rất tốt để thực hiện nó cho một người nào đó, kể cả khi còn trẻ và khỏe mạnh. Để thực hiện phowa hữu hiệu hơn cho những người khác, cả hai Ngài Atisha và Milapera đều đồng ý rằng người thực hiện phải đạt được “con đường minh sát” (Skt. Darshanamarga) điều mà sự thể đắc của sự tin tưởng tối hậu, điều thứ ba của “năm con đường” (gồm có phước đức, an lạc, sự thể đắc, Thiền định và vượt qua sự luyện tập) đó là Phật quả. để đạt được như thế phải ra ngoài những câu hỏi cho nhiều người trong chúng ta. Thông thường, tuy vậy những hành giả thiền định có những tư tưởng có chất lượng để thực hiện nó; nếu họ có quy y với đức Phật Vô Lượng Quang (A Di Đà), có tấm lòng từ bi cho người chết và thực tập tốt trong việc thiền định này trong sự tiến bộ.

Thiền Định

Qua trạng thái an định nhất tâm, tiến sâu vào thiền định phowa với tất cả niềm tin nơi đức Phật. Thiền định quán tưởng đến những đức hạnh thanh tịnh, hoặc những hình ảnh, ngôn ngữ tuyệt diệu hoặc cầu nguyện, đồng thời cảm giác trong sạch của sự nương tựa mạnh mẽ vào Đức Phật Vô Lượng Quang (A Di Đà), cũng như lòng từ bi mạnh mẽ đến với tất cả chúng sanh, đặc biệt người quá cố.

Đầu tiên những quán tưởng về con người mà bạn đang thực hiện phowa trong sự rõ biết trước hình tướng của vị Vajrajana nhận biết thông thường của sự thấy và sự cảm nhận của những người khác như sự bất nhiễm không trong sạch và hỗn tạp. Vajrayogini là vị thần linh trí tuệ của hình tướng nữ nhân tượng trưng cho sự cởi mở. Nhan sắc đỏ rực của Ngài là dấu hiệu của sức mạnh đa tình đa cảm của Ngài. Với hình dáng đứng mạnh khỏe là để chứng minh tiến gần đến để phụng sự cho tất cả và thân trần ấy cùng việc ra lịnh đừng sợ hãi được trang sức với châu báu hiện ra sự giàu có và phú quí. Bên cánh tay phải của Ngài, Ngài đưa cao lên một chiếc lá, tượng trưng cho trí tuệ nguyên thủy cắt đứt sự chấp ngã ở ngay tận gốc; bên cánh tay trái của Ngài, Ngài cầm một đầu lâu đựng đầy nước cam lồ, tượng trưng cho hạnh phúc to lớn. Với năng lượng của sự quy ngưỡng trọn vẹn, ba con mắt của Ngài đăm chiêu hướng đến khoảng không nới đức Phật Vô Lượng Quang.

Hãy quán tưởng ở trục chính giữa nơi thân của Ngài Vajrayogini (Kim Cang Du Già) ngay nơi ấy trống không, sáng sủa, đẹp lạ, sáng rực nơi trụ ánh sáng. Phía dưới cũng được đóng lại ở nơi ngang chừng của lỗ rốn và phía bên trên cao được mở rộng ra ở một lỗ che phía trên đầu. Tất cả những nơi được mở ra của thân thể Ngài đều được đóng lại. Ở nơi trục chính giữa, ngay nơi ngực của Ngài (là người chết) là tâm thức của Ngài đang ở trong hình thức một mẫu tự Hri đỏ chói. Nếu bạn chẳng liên hệ gần gũi với mẫu tự Hri thì hãy quán tưởng nó ở hình tướng là một quả cầu tròn nhỏ, sáng đỏ rực của ánh sáng. Chữ Hri được đưa vào với ánh sáng xanh nơi quả cầu của năng lượng hoặc là không khí.

Trong một vài truyền thống cũng có truyền thống dạy cho thấy ở thiền định rằng chín trong mười cánh cửa của thân thể người quá cố ấy là được đóng dấu ấn bởi mẫu tự Hri màu đỏ. Đây là sự mở cửa của hậu môn, đường tiểu, miệng, hai lỗ mũi, hai lỗ tai và hai con mắt. Cánh cửa ở nơi lỗ hổng nằm trên đỉnh đầu được mở toang ra, những chúng sanh ở bên ngoài cánh cửa với thần thức ra khỏi rồi chìm vào nơi tâm của đức Phật.

Như vậy người trợ tử hay người thực hiện nghi lễ sẽ ngồi bên cạnh cái đầu bên trên thân thể của người chết hoặc người quá vãng. Không một vật gì có tính cách tôn giáo được đặt chung quanh phần dưới thân thể của người ấy hoặc hai bàn chân là những điểm đáng chú ý. Kể từ khi bắt đầu của sự phân giải, không một ai chạm đến phần bên dưới thân thể của người mất, không một người yêu thương nào ngồi sát bên chân hay phần dưới thân thể của Ông hay Bà ta. Nếu những người thân cận làm như vậy thì họ sẽ dẫn sự chú ý của Ông hay Bà ta kéo xuống phía dưới và đây là nguyên nhân làm cho Ông hay Bà ta đi đầu thai vào nơi thấp hơn.

Hãy quán tưởng thế giới, nơi mà bạn đang ngồi giống hệt như cảnh giới Cực Lạc, đây là một thế giới đẹp đẽ với những cánh đồng, đồi núi, hoa quả, vườn tược, suối chảy, ao hồ, cây cối, trái chín… tất cả đều tạo bởi ánh sáng. Sự dự biết của các chúng sanh về những tia sáng ấy đều bay nhảy và di chuyển xuyên qua vũ trụ trong sự an lạc và hoan hỷ tuyệt đối. Âm điệu dịu dàng của lời dạy và nhạc pháp âm tràn đầy trong không khí. Tất cả mọi hiện tượng đều là những không khí của sự an lạc và hoan hỷ tối cao. Hãy quán tưởng, suy nghĩ và cảm nhận chất lượng của cõi Cực Lạc, như những cảnh ấy đang hiện ra trước mặt bạn, cứ thế và cứ thế.

Rồi thì ở bên trên bầu trời, ở ngay chính giữa của chùm mây ánh sáng, hãy quán tưởng về Đức Phật Vô Lượng Quang (A Di Đà). Ánh sáng chói đỏ nơi thân thể của Ngài được trang sức bởi những tín hiệu đẹp đẽ và hoàn hảo đang ngồi với tư thế thiền định, Ngài mặc y áo đơn giản không ô nhiễm, như một hành giả khổ hạnh. Với thái độ chờ đợi, hai tay trong của Ngài mang một bình chứa đầy nước cam lồ. Ngài tỏa chiếu và chứa đầy vô số thế giới cùng cõi Tịnh Độ với ánh sáng chiếu tỏa từ thân thể của Ngài, chứa đựng sự an lạc và hoan hỷ với bất cứ ai khi chạm đến. Gương mặt tươi mát trẻ trung của Ngài luôn mở ra với nụ cười hoan hỷ. Hai mắt của Ngài hướng đến bạn với lòng yêu thương và trí tuệ.

Hãy phát triển sự tin tưởng quay về nơi Đức Phật bởi sự suy nghĩ rằng với tình thương yêu vô điều kiện, Ngài nhìn tất cả trong chúng ta với tất cả lòng từ bi giống như một người Mẹ cảm nhận chỉ có đứa con duy nhất của mình. Với trí tuệ toàn tri Ngài thấy hết tất cả những việc đã được khởi lên cùng một lúc. Với năng lực không giới hạn và phổ biến trấn giữ tất cả những sự khổ não của thế giới, mang lại hòa bình và hỷ lạc cho tất cả. Ngài là một vị Phật với lời thệ nguyện là hướng dẫn mọi người, ai đó cầu nguyện đến Ngài với lòng tin chân thật thì sẽ đến được cõi Tịnh Độ của Ngài.

Ngài là hóa thân của một trong những bậc giác ngộ. Ngài là hóa thân của thiên nhãn trong sạch và chất lượng giác ngộ của vũ trụ tổng thể. Ngài là sự phản ảnh lại chất lượng giác ngộ của chính bạn, với Phật tánh mà tất cả chúng ta kế thừa như là sự tự nhiên của chúng ta. Bởi sự đơn thuần va chạm với sánh sáng của thân thể Ngài, Ngài làm trong sạch tất cả nổi lo âu sợ hãi, sự hỗn loạn, sự khổ não, sự buồn đau và tất cả những nghiệp bất thiện.

Như vậy hãy quán tưởng rằng Đức Phật Vô Lượng Quang đang được vây quanh bởi các vị Bồ Tát Từ Bi (Quán Thế Âm) Bồ Tát sức mạnh (Đại thế Chí) và là chủ nhân vĩnh cữu của những chúng sanh giác ngộ khác trong hình thức khác thường về y phục, tư thế và những hoạt động. Các Ngài đang trông đợi bạn với tình thương yêu, trí tuệ và năng lực.

Hãy cảm nhận với sự hiện hữu ấm áp của những bậc giác ngộ vĩnh cửu này. Tất cả những vị ấy đang đoái hoài bạn và hướng về bạn với tình thương yêu ấy. Hãy cảm nhận rằng sự tái sanh của bạn về cõi Cực Lạc là được xác nhận bởi năng lực lời nguyện của Đức Phật Vô Lượng Quang (A Di Đà) và sự gia trì của tất cả những bậc giác ngộ. Hãy cảm nhận rằng bạn đang được canh giữ hoàn toàn từ những sự sợ hãi bởi năng lực có tính cách tuyệt đối của những bậc giác ngộ. Hãy biết rằng bạn đang hoàn toàn an lành trong sự hiện hữu của các bậc giác ngộ. Kinh nghiệm được đong đầy tất cả những gì mà bạn cần đến bởi chúng sanh trong sự hiện hữu của đức Phật.

Ngài Chagmed Rinpoche nói rằng: “Ở vào tình huống của sự chết, một cảm nhận của hạnh phúc và sự tự tin, thay vì khổ sở và rối loạn. Đây là điều rất quan trọng”.

Nếu có thể gặp được Đức Phật Vô Lượng Quang với nhiều chất lượng thì tâm hồn bạn sẽ mở ra để đón nhận vào bên trong chất lượng tương tự như vậy. Đây là điều vô cùng quan trọng và cũng là mục tiêu của sự thực tập.

Bạn cũng phải suy nghĩ cũng như tin tưởng rằng Đức Phật Vô Lượng Quang (A Di Đà) không khác gì vị Thầy dạy Phật pháp của chính bạn. Thông thường những vị Thầy ấy là những yếu tố chính trong cuộc đời của chúng ta cho sự giác ngộ và hơn thế nữa trong sự thể đắc tinh thần của chúng ta hay những kinh nghiệm. Nếu đây là trường hợp cho bạn thì sự hồi tưởng tốt đẹp về sự liên hệ gần gũi ấy sẽ là một hậu quả của bánh xe chuyển vận cho việc đạt đến cõi Cực Lạc; bất cứ như thế nào, đó là một kinh nghiệm có tính cách bên trong hoặc là bên ngoài.

Tôi mong mỏi một cách cường điệu rằng trong việc thực hiện phowa (chuyển di thần thức) cho những người khác, các bạn phải rõ ràng, chắc chắn với kinh nghiệm trong sự thiền định quy ngưỡng về đức Phật. Tổng quát thì bất cứ một người nào đã phát triển được năng lượng tinh thần xuyên qua việc tập trung tư tưởng. Ngay cả nếu họ chỉ có một ít hay chẳng có kinh nghiệm mặc nhiên của cõi Tịnh Độ, thì có thể chuyển đổi bởi tâm thức của chính họ hoặc của người quá cố kia. Rồi họ sẽ chẳng thể hướng dẫn người kia vào cõi Tịnh Độ. Tuy nhiên một người nào đó mà bạn liên hệ để đến với đức Phật Vô Lượng Quang và cõi Cực Lạc xuyên qua những kinh nghiêm mặc nhiên thì sẽ có thể chuyển di thần thức đến cõi Tịnh Độ hiện thật. Như vậy đó mới là bản chất để xác lập sự nối kết mặc nhiên với Đức Phật và cõi Tịnh Độ bởi sự suy nghĩ về họ, việc chứa đựng phước đức và tạo ra sự nhiệt thành với thái độ giác ngộ của tâm, cứ thế và cứ thế, với một điểm của tâm và sự quy kính về.

Cầu nguyện

Đầu tiên, trống rỗng tất cả sự nhận biết có tính cách nhị nguyên vào nơi cởi mở bởi việc lập lại theo Thần chú bằng tiếng Sanskrit như sau:

Om maha – shunyata – jnana – vajra svabhava – atmakon – ham

Án ! Nơi tự thân con không thể tự phá được sự tự nhiên của tánh Không to lớn và trí tuệ

Kế tiếp, tụng những lời dưới đây, hãy quán tưởng người chết hoặc người quá cố trong thể thức của vị nữ Thần Vajragogini.

Án! Tất cả những bản năng của sự nhận biết của con nổi dậy như tất cả sự trong sáng của cõi Phật.

Đầy đủ sự phối trí cõi Cực Lạc. Ở chính giữa ấy người quá cố ở hình tướng của vị Vajrayogini.

(*Nếu bạn thực hiện việc tụng đọc cho chính bạn thì bạn nên đọc như sau: “Rang nyid je tzun dor je nal jor ma” Con là hình tướng của Vajragogini. Nếu bạn thực hiện điều này cho một người nào đó mà họ đang còn sống thì bạn nên đọc là: “Mig yul zhi lu dor je nal jor ma” người mà là đối tượng của tiêu điểm trong con là ở hình thể Vajragigini. Đại danh từ kèm theo sau đó thay đổi một cách đơn giản, lần lượt quyết định như thế nào là do bạn thực hiện phowa cho chính bạn hay cho người khác vậy).

Với một cái đầu và cánh tay hóa thành màu đỏ, con đưa cành lá cây và một cái đầu.

Con đứng ở thế tiến hóa của từ bi và ba con mắt của con đang nhìn vào bầu trời.

Ở chính giữa của thân con là trọng tâm của trục quay, thuộc sự to lớn của mũi tên nhọn bằng trúc. Rỗng không, trong sáng, một cái huyệt và phát ra ánh sáng. Phía trên cùng của trung tâm trục ấy được mở ra ở phía che trên đầu và ở phía dưới thấp đến lỗ rốn.

Nơi nối kết chỗ quả tim.

Ở chính giữa là một quả cầu màu xanh có năng lực không khí. Đây là tâm thức nhận biết của con nơi hình thể của mẫu tự màu đỏ Hri.

Ở chiều dài của cánh tay trước hai chân và trên đầu con, con quán tưởng đức Phật Vô Lượng Quang.

Được trang sức với nhiều dấu hiệu và những điểm tuyệt đẹp.

Con nguyện cầu cho ông ta với sự quy ngưỡng mạnh mẽ

Niệm danh hiệu chư Phật và chư vị Bồ Tát

Sau đó với năng lực của từ bi hướng đến tất cả chúng sanh và đặc biệt cho người quá cố và năng lượng tổng thể sự quy kính về đức Phật Vô Lượng Quang (A Di Đà) ca ngợi cầu nguyện theo sau với giọng trong trẻo ngọt ngào bằng tiếng Tây Tạng hay tiếng Sanskrit. Hãy lặp lại điều này 7, 21 hay nhiều lần như vậy.

Sanskrit

Namo bhagavate tathagataya – arhate samyak – sambudhaya

Natha – amitabhaya pujayami sharanam gacchami

Với đấng Chánh Biến tri, bậc Tôn kính, hoàn hảo, tối thượng giác ngộ, bảo hộ của Vô Lượng Quang, con xin quy kính về để cúng dường và quy y đảnh lễ.

Sau đó tụng đọc danh hiệu của các vị Bồ Tát như Quán Thế Âm bằng tiếng Tây Tạng hay Sanskrit. Hãy lặp lại điều này 3, 7 hay nhiều lần như thế.

Sanskrit

Namo bodhisattva – mahasattva – mahakarunika arya – aval

Okiteshavaraya pugayani sharanam gacchami

Với vị Bồ Tát Ma Ha Tát, đấng có lòng từ bi to lớn

Ngài Quán Thế Ấm, con xin quy ngưỡng về để cúng dường và quy y đảnh lễ.

Tiếp theo đọc tụng danh hiệu của vị Bồ Tát với sức mạnh Đại Thế Chí bằng tiếng Tây Tạng hoặc tiếng Sanskrit, Hãy lặp lại 3, 7 hay nhiều lần như vậy .

Sanskrit

Namo bodhisattva – mahasattvaya arya – mahasthamapraptaya

Pujayami sharanam gacchami.

Với vị Bồ Tát Ma ha Tát có năng lực vĩ đại (Đại Thế Chí),

Con xin quy ngưỡng Ngài để cúng dường, quy y và đảnh lễ.

Trọng tâm thiền định Phowa

Trong sự thiền định sau đây được thực tập với sức mạnh của sự quy y , bạn gặp đức Phật Vô Lượng Quang (A Di Đà) như sự hiện ra của chính vị thầy Bổn Sư của bạn và bạn chìm vào trong tâm bạn với tâm giác ngộ của Ngài. Tâm giác ngộ của đức Phật là trạng thái tự bừng dậy và tuyệt đối không, ưu việt, ở cõi Tịnh độ. Đây cũng là trạng thái tối cao của Pháp thân. Nếu bạn là hành giả hành thiền thành tựu cao thì bạn phải đạt được Phật quả bởi sự chìm sâu vào với tâm giác ngộ của đức Phật, vũ trụ chơn thật. Nếu bạn sẽ chẳng đạt được Phật quả, nhưng nhờ sự quy ngưỡng cầu nguyện và sự đắm sâu vào thiền định, sự tái sanh của bạn về cõi Cực Lạc sẽ là việc được xác nhận, hoặc giả ít ra thì cũng có thể do năng lực của đức Phật và sự quy ngưỡng của bạn. Với loại thiền định này cũng có thể giúp cho bạn được chìm sâu vào trong tâm bạn với đức Phật một cách đơn giản, sẽ cho bạn một ánh sáng của sự thể đắc kéo dài theo tiến trình của sự chết (như đã đề cập trong chương 3, phần “Tự nhiên tối hậu”). Ngay cả nếu bạn chẳng thể giữ gìn nó. Ngay cả ánh sáng của kinh nghiệm nơi tâm Phật – cũng có thể gọi là Phật tánh, hoặc giả là sự giác ngộ tự nhiên của tâm – sẽ là một nguồn công đức vĩ đại và một năng lực, là những nguyên nhân để tái sanh về cõi Cực Lạc.

Thật tuyệt vời! ở trong trạng thái tự bừng tỉnh, tuyệt nhiên bất khả tư nghì của cõi Phật Tịnh độ,

Ở ngay chính giữa ánh sáng hào quang to lớn của sự quy ngưỡng quảng đại,

Thầy Bổn sư của con là hóa thân của tất cả sự nương về,

Mà trong hiện tại chẳng còn là thân thể bình thường nữa

Tuy nhiên như là thân thể sạch sẽ của vị Phật sáng ngời của Vô Lượng Quang

Con xin cầu nguyện cho bạn (con) với sự quy y dũng mãnh.

Xin gia hộ cho con được thành tựu trên con đường thiền định của con để đến con đường của phowa (chuyển di thần thức).

Xin gia hộ cho con đến được cõi Tịnh độ bất khả tư nghì.

Cầu xin cho con được đạt thành trạng thái tối cao của Pháp thân (tuyệt đối an lạc và cởi mở)

Hãy lặp lại chín câu trên ba lần hoặc nhiều hơn thế .

Cuối cùng lặp lại câu sau cùng ba lần.

Sau đó, trong khi tập trung tâm thức của người quá cố vào hình thức của mẫu tự HRI, như bạn đã quán tưởng trước đây, nói thầm chữ HRI năm lần.

Tiếp đó với một điểm tập trung và sự quy ngưỡng, hãy hô PHAT nhiều lần, hay năm lần (trong khi gọi chữ PHAT bạn có thể tọa thiền mà tâm thức đã được chìm sâu vào trong Pháp thân, thân thể hỷ lạc, thân thể tối hậu, thân thể chẳng thay đổi và thân thể đong đầy sự giác ngộ của đức Phật Vô Lượng Quang. Một vài người hô HIK thay vì PHAT!). Nếu bạn hô PHAT thì hãy quán tưởng và cảm nhận cũng như tin tưởng rằng tâm của người quá cố đang ở hình thức của mẫu tự HRI màu đỏ trong quả cầu tròn màu xanh năng lượng – là đánh động bởi năng lực của sự quy y và sức mạnh của quả cầu màu xanh năng lượng, xuyên qua trung tâm trục quay (ở giữa) của ông hay bà. Điều ấy được đánh động ra ngoài lỗ hổng của người quá cố và chìm vào bên trong thân thể của đức Phật Vô Lượng Quang (A Di Đà), tâm thức trí tuệ giống như nước trong nước, cứ thế và cứ thế, năm lần. Sau lần cuối cùng hãy cảm nhận và tin tưởng rằng tâm thức của người quá cố hoàn toàn đã trở thành một với tâm giác ngộ tràn đầy của đức Phật Vô Lượng Quang. Hãy nhất tâm trụ trong trạng thái ấy trong một lúc.

Theo những sự giáo huấn, nếu bạn thực hiện phowa cho một người chết thì thời gian tốt nhất để làm việc ấy là ngay khi người ấy tắt thở và mạch máu đã dừng lại. Rồi thì thần thức của họ sẽ chuyển đến cõi Cực Lạc bởi sự bảo trợ của thiền định, kể từ khi đời sống sức mạnh của họ vừa chấm dứt, tuy nhiên họ bây giờ chẳng còn được trang sức bởi một vài màn lưới vọng tưởng của đời sống tới. Ngay cả nếu phowa chẳng làm được là nguyên nhân của sự tái sanh về cõi Tịnh độ thì trong thời gian họ sẽ bị sự khổ não, là kết quả của thiện ý qua việc thiền định, thì chắc rằng sẽ ở lại với họ và sẽ thành thục khi mà cơ hội tốt trổi dậy.

Bạn cũng có thể xử dụng sự thống nhất của tâm thức bạn và tâm của vị Lạt Ma như là sự thực tập phowa. Ở vào thời điểm chết, hãy quán tưởng tâm của bạn ở trong hình thể chữ HRI màu đỏ hoặc là chữ AH màu trắng. Rồi thì, bởi sức mạnh của năng lượng không khí, thần thức của bạn sẽ rời khỏi thân thể của bạn và chìm vào trong tâm của vị Thầy Bổn sư của bạn, người mà đang ngồi ở trên đầu của bạn đó. Rồi thì vị Lạt Ma đưa cao hơn và cao hơn nữa để đến tận cõi giới Tịnh độ. Cuối cùng sự chờ đợi ở trạng thái không thể tách rời được của tâm thức bạn với tâm của vị Lạt Ma.

Tsele đã viết rằng: ‘Hãy nhận ra sự không ô nhiễm bởi sự giác ngộ vốn có của chính bạn. Không có cái gì rơi vào được con đường mê hoặc, hãy nghiêm chỉnh theo lời giáo huấn. Hãy đắm chìm tâm của bạn hay tâm của người chết vào trong quả cầu tối hậu ấy. Đây là phowa’.

Như vậy thì con đường của phowa (chuyển di thần thức) là hướng đến sự tái sinh tốt hơn, không giới hạn ở một phương pháp nào cả.

Cầu nguyện và Thiền định về Đức Phật Vô Lượng Thọ

Nếu bạn thực hiện phowa như là một sự thực tập mà chẳng phải cho một lễ nghi thực tế cho người chết thì vào lúc cuối, giống như là một sự thực tập tùy ý, bạn có thể cầu nguyện và thiền định ở nơi đức Phật Vô Lượng Thọ cho việc tuổi thọ của bạn.

Đầu tiên hãy xem đức Phật Vô Lượng Quang, vào lúc bạn tọa thiền, hòa tan vào trong quả banh ánh sáng ấy. Nó sẽ chìm sâu vào trong và đúng hơn bạn sẽ trở thành đức Phật Vô Lượng Thọ. Nhan sắc của Ngài chiếu ra màu đỏ và Ngài ngồi ở thế trầm tư trên ghế ngồi hoa sen tròn như mặt trăng. Ngài đang ở trong hình thể của một báo thân, được trang sức với vương miện, y áo bằng lụa và những vật quý báu trên người. Hai tay của Ngài đang ở thế chờ đợi, cầm một bình nước đầy với thức ăn trường thọ.

Rồi hình ảnh của đức Vô Lượng Quang

Hòa tan vào ánh sáng và chìm sâu vào chính con

Với điều kia chính con, lập tức

Trở thành đức Phật Vô Lượng Thọ

Tiếp đến với tâm quy kính, hãy đọc những Thần chú sau đây và hãy cầu nguyện đến đức Phật Vô Lượng Thọ cho việc giáo hóa gia trì của Ngài cũng như cho việc sống lâu. Hãy lập lại 21 lần, 100 lần hay nhiều hơn thế nữa.

Thần chú bằng tiếng Sanskrit

Om amarani – jivantaye svaha

Án cuộc sống bất tử. Xin được như vậy

Hỏa táng nhục thân

Nếu bạn thực hiện phowa cho người quá cố và xử dụng tử thi, bạn nên thiêu tử thi ấy với nghi thức tùy ý theo như dưới đây. Hãy tự nhớ lại rằng bạn là đức Phật Từ Bi giống như bạn đã tọa thiền ngay từ lúc ban đầu. Như bạn đang nắm giữ ánh đuốc và đang điểm hỏa đốt tử thi, hãy đọc những câu kệ như phía dưới. Hãy nên nhớ rằng bạn, là đức Phật Từ Bi, đang đốt cháy tử thi ấy của người quá cố với một ngọn lửa, sức mạnh của sự trong sạch nhất và có tính cách tự phát của trí tuệ trong hiện tại. Năng lực mặc nhiên của bạn Tẩy tịnh vật lý, tinh thần, sự cảm kích và cái nghiệp được đặt để của người quá cố vào trong sự trong sạch nguyên thỉ, không rời khỏi ngay cả đấy là một dấu vết.

HUM! Nơi quả tim của sự trong sạch căn bản, tự do từ những khái niệm

Hãy điểm hỏa trong sự tự phát bừng dậy ngọn lửa trí tuệ,

Tất cả những khái niệm của tính cách đặc biệt của thân thể như là nhiên liệu

Tôi đốt cháy ngọn lửa chẳng hề xa rời bất cứ một sự sót lại nào RAM!

Tôi đốt những khái niệm về sự khổ não với ngọn lửa căn bản của trí tuệ

Tôi đốt những khái niệm của hai việc có tính cách cá nhân và tính cách hiện tượng bởi nó vào nơi quả cầu không có tự ngã.

Vũ trụ đang bào mòn với hai loại si mê (khi sanh đã có và những khuyết điểm)

Tôi đốt vào trong sự to lớn rộng rãi của bình chứa thân thể trẻ trung

Tôi đốt dấu ấn trên cánh cửa của cõi Ta Bà cho Ông hay Bà đừng trở lại nữa

Xin nguyện cầu cho bạn thể đắc sự giải thoát căn bản đầu tiên

Và thành tựu đầy đủ việc phụng sự không điều kiện cho tất cả chúng sanh.

Trong khi thiêu tử thi hãy luôn tụng đọc và lặp lại câu: án Ma Ni Bát Di Hồng, hàng trăm mẫu tự Mạn Đà La và những Mạn Đà La sám hối khác cũng như sự cầu nguyện ở phần cuối rảy nước lên xương cốt với nước đã gia trì và chú nguyện lên những phần tro tàn hoặc xá lợi (nếu bạn có một vài hạt như thế). Cuối cùng hãy chờ đợi trong trạng thái tự do từ những khái niệm. Sau đó cho xương cốt của tử thi vào nơi sạch sẽ và để nơi tốt đẹp – trên mặt đất hoặc thả vào sông vào biển.

Để hỏa táng một hình hài thật, điều quan trọng là tổ chức một nghi thức hỏa táng chi tiết. Tuy nhiên nếu một nghi thức chi tiết không thể có được thì thực hiện một nghi lễ giản đơn trong hoàn cảnh bạn đã bắt đầu và thực tập theo cách hành trì theo Mật Giáo.

Hồi hướng và thành tâm cầu nguyện

Như ca ngợi sự thể của Ngài Văn Thù Sư Lợi

Như Ngài Phổ Hiền

Trong sự thực hành bởi chính con bởi họ như sau

Con xin hồi hướng tất cả công đức của con cho tất cả chúng sanh

Tất cả chư Phật trong ba đời

Xin tán thán sự cao cả và xin hồi hướng công đức đến cho những người khác.

Như thế tất cả những hành vi đức hạnh của con

Con xin hồi hướng tất cả những hành vi tối thiện cho những người khác

Ở vào giờ phút con lâm chung (nếu bạn làm sự cầu nguyện chân thành ấy cho người khác thì thay đổi đại danh từ theo sau đó).

Xin nguyện cầu cho tất cả những nghiệp hắc ám của con được chuyển đổi

Xin cho con gặp được đức Vô Lượng Quang mặt đối mặt

Và xin cho con sanh về cõi Cực Lạc

Khi đến đó rồi, tất cả sự nhiệt thành của những hành vi tối thiện

Xin cầu nguyện cho sự thể đắc không phải chờ đợi

Bởi tổng thể sự đong đầy tất cả sự nhiệt thành ấy chẳng đợi chờ

Xin cho con phụng sự cho tất cả chúng sanh cho đến khi nào vũ trụ này còn tồn tại

Trong sự tuyệt hảo và sự hoan hỷ tập trung của đấng Thắng Lợi

Xin nguyện cho con được sanh vào bông hoa Thần thánh tuyệt diệu.

Bởi đức Phật Vô Lượng Quang, trực tiếp

Xin nguyện cho con được thọ ký giác ngộ

Xin nhận được sự thọ ký toàn vẹn

Với hàng trăm, hàng triệu lần sự biểu thị của con

Và với năng lực trí tuệ của con trong tất cả mười phương

Con xin nguyện sẵn sàng với vô số sự lợi ích cho chúng sanh

Bởi sự gia trì của đức Phật, Ngài đã có tài sản là tam thân Phật,

Bởi sự gia hộ của giáo pháp cao siêu, không thay đổi chân lý,

Bởi sự trợ lực của Tăng Già, toàn thể không thể phân ly,

Con xin nguyện hồi hướng tất cả và sự nhiệt thành này được thành tựu như con đã nghĩ về họ như vậy.

Dịch xong vào ngày 5 tháng 8 năm 2010 nhằm ngày 25 tháng 6 năm Canh Dần – Phật lịch 2554 nhân mùa An Cư Kiết Hạ tại chùa Viên Giác Hannove – Đức Quốc.

Hồi hướngCông đức phiên dịch khó nghĩ lườngVô biên thắng phước đều hồi hướngKhắp nguyện chúng sanh trong pháp giớiĐều được vãng sanh về Cực LạcNam Mô Tiếp Dẫn Dạo Sư A Di Đà Phật

Kính nguyện

CHẾT AN LẠC TÁI SINH HOAN HỶ
Nguyên tác Anh ngữ: Peaceful Death, Joyful Rebirth
của đại sư học giả Tulku Thondup
Việt dịch: HT. Thích Như Điển & TT. Thích Nguyên Tạng
Chùa Viên Giác Hannover, Đức Quốc
Tu Viện Quảng Đức, Melbourne, Úc Châu ấn hành 2011

Lời cuối sách

Ngày nay sách viết và nói về Phật Giáo Tây Tạng không thiếu bất cứ một loại tiêu đề nào. Có những sách bằng tiếng Anh nổi tiếng do chính đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 14 viết nhan đề là: My land and my people (Nước tôi và dân tôi), hay Freedom in Exil (Tự do trong lưu đày). Hoặc do các vị Đại sư nổi tiếng khác của Phật Giáo Tây Tạng viết về Tánh Không, Trung đạo v.v… cũng có nhiều sách được dịch giả như Nguyên Phong chuyển ngữ rất hay như quyển ‘Hoa sen trên tuyết’ chẳng hạn. Đồng thời ở Úc cũng có nữ Phật tử bút hiệu Hồng Như đã dịch quyển ‘Tinh túy Bát Nhã Tâm Kinh’ và trực dịch nhiều lần giảng pháp của đức Đạt Lai Lạt Ma thật là tuyệt vời, khiến cho ai đó có nhân duyên đọc được những sách này hay nghe được những bài giảng được chuyển dịch qua Việt ngữ cũng điều ca ngợi tán thán. Đây là công đức hoằng pháp lợi ích không nhỏ cho quần sanh của người xuất gia và tại gia trong đời này vậy.

Tôi là người rất ham đọc sách. Nghĩa là bất cứ lúc nào có thì giờ là phải có quyển sách hay tờ báo trên tay để xem. Nếu không, cảm thấy nó vô vị và tẻ nhạt. Vì tôi quan niệm rằng: đọc sách để học hỏi và tìm hiểu những cái hay cái đẹp của tác giả hoặc dịch giả muốn gởi đến độc giả. Dầu cho tác giả hay dịch giả ấy có viết hoặc dịch dở như thế nào đi chăng nữa, cũng là cái hay nhất của chính họ, mong đem ra cống hiến cho độc giả. Do vậy chúng ta nên cần đọc sách là vậy.

Đã nhiều lần nghe đức Đạt Lai Lạt Ma giảng tại chùa Viên Giác, ở Hamburg, một tuần lễ ở Schneverdingen, 5 ngày ở Franfurt và cũng đã từng nghe cũng như đọc qua nhiều sách vở của Phật Giáo Tây Tạng, nhưng tôi chỉ được biết và học qua giáo lý Trung đạo của Ngài Long Thọ, đại sư Tống Khách Ba, Ngài Liên Hoa Sanh, Ngài Shantideva, Ngài Ajita v.v… và hầu như chưa bao giờ nghe qua về việc vãng sanh về cõi Cực Lạc của đức Phật A Di Đà theo quan niệm của Phật Giáo Tây Tạng.

Năm nay 2010 – 2011 nhân lần nhập thất tịnh tu tại Úc lần thứ 8, tôi có ý định dịch chung với Thượng Tọa Thích Nguyên Tạng, Phó viện chủ Tu Viện Quảng Đức tại Melbourne và là người chủ xướng trang nhà Quảng Đức; Thầy cũng là người đã dịch qua nhiều tác phẩm của Phật Giáo Tây Tạng bằng Anh Văn; cho nên tôi đề nghị dịch chung với Thầy ấy là vậy.

Đầu tiên Thầy ấy định dịch một tác phẩm mới về xá lợi, nhưng sau đó Thầy gởi cho tôi quyển: Peaceful Death, Joyful Rebirth (Chết an lạc, tái sanh hoan hỷ) của đại sư học giả Tulku Thondup hiện đang dạy tại Đại Học Havard – Hoa Kỳ. Ngài thuộc phái Phật Giáo Nyingma của Tây Tạng. Thầy Nguyên Tạng giao cho tôi dịch từ chương 6 đến chương thứ 10 nghĩa là từ trang 168 đến trang 228. Sau khi dịch xong 5 chương ấy tôi thấy phần phục lục A và B cũng không kém phần quan trọng cho các hành giả muốn làm quen với những lễ nghi tang ma của Phật Giáo Tây Tạng, nên tôi đã dịch tất cả 2 phần này cho đến trang 280 của sách tiếng Anh là chấm dứt.

Khi cầm quyển sách tôi bắt đầu đọc những chú thích trước từ ngày 7 tháng 6 năm 2010 và đọc qua một lần có ghi chú vào ngày 28 tháng 6 năm 2010 nhân lần sinh nhật thứ 62 của tôi và cũng chính ngày này tôi đã đặt bút xuống giấy trắng để dịch ngay cho đến ngày 5 tháng 8 năm 2010 thì xong, với 112 trang sách chữ nhỏ. Phần đầu gồm mục lục, lời tựa, lời giới thiệu và từ chương một đến hết chương sáu gồm 167 trang. Phần này do TT Thích Nguyên Tạng dịch sang tiếng Việt.

Đọc và dịch tôi cảm thấy say mê. Vì lẽ tôi tu theo pháp môn Tịnh Độ mà nay mới tìm được quyển sách trong tình cờ của Phật Giáo Tây Tạng viết về Tịnh Độ, nên chẳng quản ngày đêm trong mùa An Cư Kiết Hạ của năm nay tại xứ Đức, trời nóng oi ả ở nhiệt độ 35 đến 40, mà sau mỗi đêm lễ phật 250 đến 300 lạy kinh Đại Bát Niết Bàn quyển thứ 2, phẩm Sư Tử Hống, với mỗi chữ một lạy, tôi vẫn thức khuya và dậy sớm hơn thường lệ để hoàn thành dịch phẩm này. Đây có lẽ là dịch phẩm ưng ý nhất của tôi và vì lý do gì thì bạn đọc sẽ tìm được bàng bạc trong ‘lời cuối sách này’.

Đức Phật A Di Đà, giáo chủ cõi Tây Phương Cực Lạc qua sự giới thiệu của đức Phật lịch sử Thích Ca Mâu Ni trong kinh Đại phẩm và Tiểu phẩm A Di Đà cũng như kinh Vô Lượng Thọ với nguyên thủy bằng tiếng Sanskrit, đức Phật A Di Đà khi còn là một Pháp Tạng Tỳ Kheo phát ra 46 lời nguyện. Nhưng khi Phật Giáo Đại Thừa Tịnh độ được truyền qua Trung Hoa vào thế kỷ thứ 3, Đại Hàn, Nhật Bản thế kỷ thứ 6; Việt Nam thế kỷ thứ 4 đã trở thành 48 lời nguyện, thay vì 46 như ở Ấn Độ. Đến thế kỷ thứ 9 khi Phật Giáo Tịnh độ được truyền sang Tây Tạng đã trở thành 51 lời nguyện. Như vậy cõi Tịnh độ thì nhiều; nhưng cõi Cực Lạc chỉ có một và giáo chủ chỉ có đức Phật A Di Đà với sự phụ tá của đức Quán Thế Âm Bồ Tát và đức Đại Thế Chí Bồ Tát. Thế mà các Ngài đã hiện thân qua nhiều cái nhìn khác qua các lời nguyện của các nước theo Phật Giáo ở vào thời điểm khác nhau. Cho nên việc vãng sanh về thế giới của Ngài cũng khác nhau, chứ không hẳn nhiên giống nhau hoàn toàn. Ví dụ:

– Trung Hoa, Đại Hàn, Việt Nam dựa theo tín, nguyện, hạnh để tin tưởng, phát nguyện và hành trì pháp môn niệm Phật để được vãng sanh về thế giới Cực Lạc của đức Phật A Di Đà. Trong đó dùng lời nguyện thứ 18 làm căn bản.

– Nhật Bản với Tịnh độ Chơn Tông do Ngài Thân Loan Thánh Nhơn đề xướng vào thế kỷ thứ 13, muốn vãng sanh về thế giới Cực Lạc của đức Phật A Di Đà phải hội đủ 5 việc. Đó là: chí tâm, tín nhạo, dục sanh, nhiếp thủ và bất xả. Ba tâm đầu là tâm của chúng sanh hưóng về đức Phật và chư vị Bồ Tát. Hai tâm sau do chư vị Bồ Tát làm chủ. Một lòng chí tâm niệm danh hiệu của Ngài và tin tưởng một cách xâu xa tuyệt đối cũng như có ý cầu mong sanh về được cõi Cực Lạc của đức Phật A Di Đà thì các Ngài sẽ tiếp nhận chúng sanh ấy và giữ gìn nơi cõi Cực Lạc, không bỏ chúng sanh ấy ra, để bị trôi lăn trong sanh tử luân hồi nữa.

– Tây Tạng với Phật Giáo Mật Tông, khi tin theo pháp môn Tịnh độ, các vị Tổ Sư chia ra bốn điều kiện. Đó là: niệm danh hiệu Phật, tu tạo công đức, phát Bồ Đề tâm và hồi hướng những công đức ấy về cõi Cực Lạc cho người mất hay chính mình. Như vậy việc trì danh hiệu Phật là điều căn bản. Kế tiếp là phải tạo ra công đức bố thí, cúng dường cho người còn sống cũng như người đã quá vãng là điều cần thiết. Kế đó phát tâm Bồ đề dũng mãnh, cầu sanh về cõi Cực Lạc của đức Phật A Di Đà và cuối cùng là nếu những phước đức ấy có được phải hồi hướng hết tất cả đến cảnh giới ấy cho chính mình, cho người quá vãng và cho tất cả chúng sanh thì mới mong giải thoát được sanh tử luân hồi.

Riêng Phật Giáo Tịnh độ Tây Tạng còn có thêm phần phowa, nghĩa là thực hiện việc chuyển di tâm thức của người mất vào tâm của đức Phật A Di Đà. Đồng thời Thiền tọa để hướng dẫn cho người quá cố cũng như chính mình lúc còn hiện hữu trên cõi đời này. Đây là điều mới lạ so với Phật tử Việt Nam, Trung Hoa cũng như Nhật Bản. Vì lâu nay các nước Phật giáo này tin rằng sự vãng sanh ấy là do Phật lực, từ lực của đức Phật A Di Đà mà một chúng sanh có thể sanh về thế giới của Ngài sau khi lâm chung và chí thành cầu nguyện danh hiệu Ngài, chứ không phải do năng lực của một vị Thầy hay những người hộ niệm mà có thể làm được.

Mặt khác phần quán tưởng để đóng cửa những sự nhầm lẫn khi tái sanh, thì Phật Giáo Tây Tạng táo bạo hơn, bằng hình ảnh giao hợp, để hợp nhất hòa tan vào chân ngã không còn phân biệt, là phương tiện khó nghĩ bàn của chư Thánh Bồ Tát. Cũng như các bậc đạo sư, để chúng sanh sợ, đừng nhận nơi đó đầu thai, thì đây cũng là cái nhìn táo bạo so với các nước Phật Giáo khác. Mặc dầu trong kinh Đại Bảo Tích phẩm Nhập Thai Tạng pháp giới đức Phật Thích Ca Mâu Ni có giải bày tỉ mỉ, nhưng không như Phật giáo Tây Tạng đã trình bày qua Ngài Liên Hoa Sanh, mà phải xác nhận một điều rằng ở trung ấm thân, Phật Giáo Tây Tạng đã chỉ rõ ràng từng chi tiết một cho người đang ở trong trạng thái lâm sàng phải làm như thế nào qua sự chấp nhận của màu sắc để được tái sanh ở cõi cao hoặc thấp hơn là điều đáng nên lưu ý.

Khi chúng ta nghiên cứu một học phái khác, không phải chúng ta phải chạy theo hoàn toàn tông phái đó, vì lẽ dù cho là tông phái của Phật Giáo nước nào đi nữa thì cũng niệm câu Thần chú:

Nam Mô A Di Đà Phật bằng tiếng Việt

Om Amitabha Hum bằng tiếng Sanskrit

Namo Amida Butsu bằng tiếng Nhật

Namo Amitafo bằng tiếng Hoa

Tất cả ý nghĩa chỉ là một : con xin quy ngưỡng về đức Phật A Di Đà. Nghĩa là vị Phật có ánh hào quang vô lượng hoặc Amitayns là vị có đời sống thọ mạng lâu dài. Tất cả dù khác ngôn ngữ, nhưng ý nghĩa vẫn là một.

Hoặc câu: Om Mani Padme Hum cũng vậy. Tiếng Việt dịch là: Án Ma Ni Bát Di Hồng và ý nghĩa cũng tương tự như trong nội dung của sách này đã giải thích rằng: “Tam mật của đức Phật với lòng từ bi quý báu và trí tuệ ấy. Xin cho con sự gia hộ của quý Ngài”.

Việt Nam Phật Giáo chúng ta nên học theo Phật Giáo Nhật Bản để có cái nhìn thực tiển hơn, chứ không nhứt thiết phải rập khuôn theo Trung Hoa hoàn toàn. Ví dụ như Trà đạo, Thơ đạo, Kiếm đạo, Nhu đạo, Thiền v.v… đều phát xuất từ Ấn Độ và Trung Hoa, nhưng khi du nhập vào Nhật thì Chado, Shodo, Kendo, Judo, Zen là của người Nhật, chứ không còn là của Phật Giáo Trung Hoa nữa và ngày nay thế giới cũng chỉ biết Zen (Thiền) là của Nhật, chứ không phải của Trung Quốc.

Chúng ta cần phải thẩm định lại giá trị này để tạo thành một Phật Giáo Việt Nam đa diện mà không phải rập khuôn theo lối cũ của nơi mà Phật Giáo được truyền từ.

Tôi không sử dụng tự điển Anh Việt hay Việt Anh để dịch tác phẩm này, mà xử dụng tự điển Anh Nhật cũng như Nhật Anh do nhà xuất bản Obunsha của Nhật ấn hành để làm phong phú hóa cho dịch phẩm này. Cầm trên tay quyển tự điển Anh Nhật có ghi ngày 18 tháng 6 năm 1973 đã mua tại Nhật, tôi hơi xúc động. Vì lẽ đã gần 40 năm rồi mới xử dụng lại quyển tự điển này. Còn quyển tự điển Nhật Anh tôi đã mua tại Nhật vào năm Chiêu Hòa thứ 49 nhằm ngày 24 tháng 3 năm 1974 và lần mở vào bên trong, thấy quyển này tôi đã dịch sang tiếng Việt đến trang 103 ở vào giữa vần C và bỏ dở từ ngày 22 tháng 11 năm 1978 đến nay vẫn chưa có cơ duyên để soạn lại. Đây là một công trình đang còn dang dở vậy. Tiếng Nhật tuy không phải là tiếng mẹ đẻ của mình, nhưng tôi rất yêu mến tiếng Nhật. Vì trong đó có nhiều chữ Hán, rất quen thuộc với mình.

Khi dịch tôi cố gắng dịch cho đúng ý của tác giả. Tuy nhiên tiếng Pháp nói rằng: ‘Dịch tức là phản dịch’’. Nghĩa là nếu dịch sai ý tác giả; tức là mình đi ngược lại tác giả rồi. Chỉ có điều tôi muốn trình bày ở đây là không nên dịch sát quá, nghĩa nó sẽ tối, khiến người đọc khó nhận ra ý nghĩa của câu văn. Tùy theo trong từng trường hợp mà tôi dịch chữ “Dedicate” là sự hiến dâng, phụng nạp, cống hiến hay hồi hướng. Ngay như chữ: ‘the King’’ người ta cũng có thể dịch là: ông vua, nhà vua, hay đức vua, tùy theo trong mỗi trường hợp một mà khác nhau. Dĩ nhiên là người dịch có quyền chọn lựa danh từ nào thích hợp để dịch và điều quan trọng hơn là độc giả khi đọc hiểu được ý là vấn đề, chứ không nhất thiết phải bị gò bó vào chữ nghĩa. Khi phê bình sẽ có nhiều người chê dở, khen hay. Nhưng việc khen, chê lâu nay vốn đã có sẵn trên đời này rồi. Vì cõi Ta Bà này chẳng có cái gì là tuyệt đối cả. Trong cái dở luôn luôn có cái hay và trong cái hay luôn luôn có cái dở là vậy.

Chữ Hán tôi học kinh luật từ lúc mới vào chùa tu năm 1964 và năm đó khi bắt đầu học Trung Học Đệ Nhất cấp ở Trường Diên Hồng và trường Bồ Đề Hội An, Quảng Nam tôi đã chọn sinh ngữ Pháp làm sinh ngữ một. Khi sang đệ nhị cấp tại trường Trần Quý Cáp ở Hội An, Trường Cộng Hòa và Văn Học tại Sài Gòn tôi đã chọn tiếng Anh làm sinh ngữ hai. Khi đến Nhật vào năm 1972 tôi chọn tiếng Nhật gần như tiếng mẹ đẻ để học tại trường Nhật ngữ và Đại Học giáo dục Teikyo sau đó. Ở đây tôi chọn tiếng Anh làm sinh ngữ chính. Đầu năm 1977 khi thi vào Cao Học Phật Giáo tại Đại Học Risso (Lập Chánh) ở Tokyo tôi lấy sinh ngữ Hoa (Hán cổ) làm sinh ngữ chánh và tiếng Pháp làm sinh ngữ phụ. Khi đến Đức 1977 học tiếng Đức tại Đại Học Kiel và phân khoa giáo dục tại Đại Học Hannove lấy tiếng Đức làm sinh ngữ mẹ đẻ và chỉ cần thi lại những môn mà ở Tokyo chưa thi. Do vậy không cần phải thi môn tiếng Anh hay tiếng Pháp tại đây nữa.

Quý vị đọc đoạn trên đây để biết thêm rằng: tại sao tôi lại có cơ duyên với nhiều ngôn ngữ như vậy. Điều quan trọng là tôi rất thích ngoại ngữ cho nên cứ miệt mài với sách vở và các ngôn ngữ này. Cho nên trong các dịch phẩm của tôi từ tiếng này sang qua tiếng khác như các loại ngôn ngữ: Nhật, Hán, Việt, Anh, Đức mà có những điểm sai trái, lỗi lầm là do tôi và khả năng của tôi chưa đạt được ở điểm cao như độc giả mong muốn. Điều này là lỗi của tôi, tôi xin nhận tất cả và xin quý vị cao minh chỉ bày cho.

Ngay như dịch phẩm thứ 57 này trước khi mang sang Úc, tôi cũng đã nhờ quý Thầy đệ tử của mình, đã tốt nghiệp trường Đức, trường Mỹ qua ngôn ngữ học dò lại từng chữ và từng câu để sửa lại cho đúng ý và đúng lời của tác giả. Tuy vậy chắc chắn vẫn còn khiếm khuyết. Sau đó tôi sẽ mang bản dịch này đến Úc và nhờ Thầy P.H và Sư cô G.A, đệ tử của bào huynh tôi, Hòa Thượng Thích Bảo Lạc đánh máy và xem lại, đối chiếu với bản chính một lần nữa, trước khi trình bày thành sách. Đồng thời đầu năm 2011, sau khi tham dự khóa tu học Phật Pháp Úc Châu kỳ thứ 10 do GHPGVNTN Úc Đại Lợi Tân Tây Lan tổ chức tại Adelaide, tôi sẽ về Tu viện Quảng Đức tại Melbourne để cùng với Thượng Tọa Thích Nguyên Tạng duyệt lại lần cuối từ chương một đến cuối sách để sau đó gởi cho Thầy Hạnh Bổn ở Đài Loan dàn trang và sau đó in ấn tại Đài Loan để cuối năm 2011 quý vị sẽ có quyển sách này trên tay.

Việc làm nào cũng cần có sự cố gắng và xả kỷ thì việc ấy mới có thể thành công một cách dễ dàng. Do vậy khi làm bất cứ cái gì, đừng đặt cái ta vào đó thì mình sẽ thênh thang hơn trong cõi Ta Bà này. Có thế mới gọi là một chút gì đền ơn cho Đàn Na Tín Thí và ơn Thầy Tổ, Cha Mẹ trong nhiều đời.

Vì tôi lo cho tác phẩm này nên đã dịch hoàn thành sớm hơn dự định và để khỏi phải mang tự điển đủ loại bay qua biển lớn, cả một dặm đường dài từ Đức đến Úc hơn 17.000 cây số, cho nên quyển sách dịch xong, tôi đã nhẹ nhỏm hơn nhiều. Tôi sẽ để thời giờ vào cuối năm nay 2010 ở Tu Viện Đa Bảo tại Úc săn sóc dịch phẩm này và sẽ phóng tác một quyển tiểu thuyết dựa vào lịch sử đầu đời vua Gia Long với nhân vật là Hoàng Cô và Liên Hoa Hòa Thượng để viết và sẽ gởi đến độc giả xa gần cũng vào cuối năm 2011 này.

Cho đến trang này là trang bản thảo thứ 172 và bản này tôi sẽ cho vào nhà lưu trử cá nhân tại Tu Viện Viên Đức nằm ở miền Nam nước Đức để làm kỷ niệm. Biết đâu đó 100 hay 200 năm sau nữa sẽ có người đi tìm dấu vết đàn chim Việt đã một thời sinh sống và làm việc đạo tại xứ này, thì đây là một bằng chứng của những tháng năm ấy.

Tôi xin niệm ân tất cả mọi người đã cho tôi một cơ hội để trang trải tấm lòng của mình trên những trang giấy trắng mực đen như thế này và nếu được có một công đức nhỏ nhoi nào đó, xin hồi hướng đến tất cả chúng sanh và cầu nguyện cho tất cả, đều sớm thành đạo.

Mỗi lần ấn tống cả 5.000 cuốn. Nếu không có sự ủng hộ của quý Đạo Hữu và quý Phật tử tại Châu Úc, Châu Mỹ và Châu Âu thì dịch phẩm này sẽ không có cơ duyên đến tay của quý vị độc giả xa gần. Xin chấp hai tay để niệm ân tất cả.

Viết xong lời cuối sách “Chết an lạc, Tái sanh hoan hỷ” tại thư phòng chùa Viên Giác Hannover – Đức Quốc vào ngày 6 tháng 8 năm 2010 – Phật lịch 2554 nhân mùa An Cực Lạc Kiết Hạ của năm Canh Dần.

Dịch giả Thích Như Điển

(Tu Viện Quảng Đức)

Hits: 220

Trang: 1 2 3