Giáo Án Trường Bộ Kinh – Kinh Đại Viên Tịch Níp Bàn (mahàparinibbàna Sutta)


Nội Dung Chính

Giáo Án Trường Bộ Kinh

Kinh Đại Viên Tịch Níp Bàn (Mahàparinibbàna Sutta)

Xuất Xứ:

Bài kinh diễn tả những ngày cuối cùng của đức Phật và những lời di giáo của Ngài trước khi viên tịch. Từ RÀJAGAHA (Vương Xá), tại núi GIJJHAKÙTA (Linh Thứu), xứ MAGADHA (Ma Kiệt Đà), đức Phật đi đến AMBALATTHIKÀ, NALANDA, PATALÌGÀMA, vượt qua sông Hằng, hướng đến KOTIGÀMA, NÀDIKÀ, VESALÌ, và BELUVA. Tại đây, đức Phật an cư mùa mưa và viếng thăm đền CAPALA, giảng đường KÙTAGARA, ở MAHAVANA. Rồi đức Phật  đi đến BHANDAGÀMA, HATTHIGÀMA, AMBAGÀMA, JAMBUGÀMA, BHOGANAGARA, PÀVA, và cuối cùng là KUSINÀRA.

Duyên Khởi:

Sau 45 năm hoằng dương Chánh Pháp, tự thấy đã già yếu, và không còn sống bao lâu nữa, đức Phật đã báo tin trước ngày viên tịch ba tháng và dành những giờ phút cuối cùng căn dặn, nhắn nhủ những giáo lý căn bản cho các đệ tử xuất gia và tại gia của Ngài. Với ý chí sắt đá và dũng mãnh, đức Phật đi bộ trên con đường dài dẳng và khó khăn cùng với vị đệ tử hầu cận thân mến là đại đức ÀNANDA, dùng những ngày tháng cuối cùng và không nghĩ đến sức khỏe của Ngài, chỉ để phục vụ lợi ích chúng sanh, không phút dừng nghỉ.

Chánh Kinh:

Từ RAJÀGAHA (Vương Xá), kinh đô xứ MAGADHA (Ma Kiệt Đà) 

Đức Phật thuyết Bảy Pháp Bất Thối đem lại cường thịnh cho nước VAJJÌ và  Hội Chúng Tỳ Khưu Tăng

Vua AJÀTASATTU đang trị vì xứ MAGADHA khởi lên ý tưởng muốn chinh phục đất nước VAJJÌ, nên đã nhờ đại quan SASSAKÀRA đến thỉnh ý đức Thế Tôn để mưu cầu lợi ích. Đức Phật không trả lời thẳng vấn đề, mà chỉ hỏi đại  đức ÀNANDA về những đức tính của dân xứ VAJJÌ và gián tiếp chỉ cho thấy  sự cường thịnh và hùng mạnh của dân xứ VAJJÌ.

1.    Bảy Pháp Bất Thối đem lại cường thịnh cho nước VAJJÌ

  • Dân VAJJÌ thường hay tụ hợp và tụ hợp đông đảo với
  • Dân VAJJÌ thường tụ hợp trong niệm đoàn kết, giải tán trong niệm đoàn kết, và làm việc trong niệm đoàn kết.
  • Dân VAJJÌ không ban hành những luật lệ chưa được ban hành, không hủy bỏ những luật lệ đã được ban hành, sống đúng với truyền thống cổ lệ đã được ban hành.
  • Dân VAJJÌ biết tôn kính, đảnh lễ, cúng dường, và nghe theo lời dạy của các bậc Trưởng Lão VAJJÌ.
  • Dân VAJJÌ không có bắt cóc, cưỡng ép những phụ nữ và thiếu nữ phải sống với mình.
  • Dân VAJJÌ biết tôn kính, đảnh lễ, cúng dường các tự miếu nội ngoại thành, không bỏ phế các cuộc cúng lễ đã có từ trước, đã làm từ trước đúng với quy pháp.
  • Dân VAJJÌ bảo hộ, che chở, ủng hộ đúng pháp các vị A La Hán ở VAJJÌ, khiến cho các vị A La Hán chưa đến sẽ đến trong xứ, và những vị A La Hán đã đến được sống an lạc.

Với Bảy Pháp Bất Thối này sẽ làm cho dân xứ VAJJÌ được cường thịnh, không bị suy giảm, và như thế vua AJÀTASATTU không thể nào chinh phục được, trừ khi dùng ngoại giao hay dùng kế ly gián.

2.    Bảy Pháp Bất Thối đem lại cường thịnh cho Hội Chúng Tăng

Nhân dịp này, đức Phật bảo đại đức ÀNANDA đi triệu tập Chư Tỳ Khưu Tăng cư ngụ tại RÀJAGAHA để thuyết giảng Bảy Pháp Bất Thối đem lại lợi ích cho Chư Tăng như sau:

  • Chư Tỳ Khưu thường hay tụ hợp và tụ hợp đông đảo với
  • Chư Tỳ Khưu thường tụ hợp trong niệm đoàn kết, giải tán trong niệm đoàn kết, và làm việc trong niệm đoàn kết.
  • Chư Tỳ Khưu không ban hành những luật lệ chưa được ban hành, không hủy bỏ những luật lệ đã được ban hành, sống đúng với truyền thống cổ lệ đã được ban hành.
  • Chư Tỳ Khưu biết tôn kính, đảnh lễ, cúng dường, và nghe theo lời dạy của các bậc Tôn Túc Trưởng Lão niên cao lạp trưởng.
  • Chư Tỳ Khưu không bị chi phối bởi Tham Ái, và Tham Ái này tác thành một đời sống khác thời (bị lôi cuốn trong sanh tử luân hồi).
  • Chư Tỳ Khưu ưa thích những chỗ độc cư nhàn tịnh.
  • Chư Tỳ Khưu tự thân an trú chánh niệm, khiến các bạn đồng tu thiện chí chưa đến muốn đến ở, và các bạn đồng tu thiện chí đã đến ở, được sống an lạc.

Với Bảy Pháp Bất Thối này sẽ làm cho Hội Chúng Tỳ Khưu Tăng được cường thịnh, không bị suy giảm.

3.    Có Bảy Pháp Bất Thối khác cũng đem lại cường thịnh cho Hội Chúng Tăng

  • Chư Tỳ Khưu không ưa thích làm thế sự, không hoan hỷ làm thế sự, không đam mê làm thế sự.
  • Chư Tỳ Khưu không ưa thích phiếm luận, không hoan hỷ phiếm luận, không đam mê bàn bạc phiếm luận.
  • Chư Tỳ Khưu không ưa thích ngủ nghỉ.
  • Chư Tỳ Khưu không ưa thích quần tụ, không hoan hỷ quần tụ, không đam mê quần tụ bè đảng.
  • Chư Tỳ Khưu không có ác dục vọng, không bị chi phối bởi ác dục vọng.
  • Chư Tỳ Khưu không bạn hữu ác dục vọng, không thân hữu ác dục vọng, không cộng hành với ác dục vọng.
  • Chư Tỳ Khưu không dừng ở nửa chừng, giữa sự chứng đạt những quả vị thấp kém, và những quả vị thù thắng.

Cũng với Bảy Pháp Bất Thối này sẽ làm cho Hội Chúng Tỳ Khưu Tăng được cường thịnh, không bị suy giảm.

4.    Ngoài ra, còn có Bảy Pháp Bất Thối khác cũng đem lại cường thịnh cho Hội Chúng Tăng

  • Tín, Tàm, Quý, Văn, Tấn, Niệm, Tuệ.
  • Thất Giác Chi.
  • Vô Thường Tưởng, Vô Ngã Tưởng, Bất Tịnh Tưởng, Nguy Hiểm Tưởng, Xả Ly Tưởng, Ly Dục Tưởng, Diệt Tưởng.

5.    Tiếp theo là Sáu Pháp Bất Thối khác cũng đem lại cường thịnh cho Chư Tăng

  • Thân Nghiệp từ hòa, Ngữ Nghiệp từ hòa, Ý Nghiệp từ hòa, Lợi hòa đồng huân, Giới hòa đồng tu, Kiến hòa đồng giải.
  • Giới, Định, Tuệ, Định cùng tu với Giới, Tuệ cùng tu với Định, Tâm cùng tu với Tuệ, giải thoát mọi Lậu Hoặc.

Sau đó, đức Phật cùng với đại đức ÀNANDA và Hội Chúng Tăng đi đến AMBALATTHIKA, trú tại nhà nghỉ mát của Vua, và thuyết Pháp Thoại về Tam Học.

Từ AMBALATTHIKA đi đến NALANDA, trú ở PÀVÀRIKAMBAVANA 

Lời tán dương của đại đức SÀRIPUTTA về đức Phật

  • Đại đức SÀRIPUTTA tán dương trí tuệ của đức Phật với niềm tin kiên quyết cho rằng, “Không thể có Sa Môn hay Bà La Môn nào trong quá khứ hay ở vị lai có thể vĩ đại hơn và sáng suốt hơn đức Thế Tôn về phương diện Chánh Giác.”
  • Đức Phật không chấp thuận một lời ca tụng nào do đệ tử Ngài thốt ra. Đức Phật nhắc đại đức SÀRIPUTTA rằng, chính Đại Đức cũng chưa thông suốt trọn vẹn công đức của tất cả chư Phật trong quá khứ và ở vị
  • Đại đức SÀRIPUTTA vẫn xác nhận rằng dù Đại Đức không được am hiểu đầy đủ tất cả các bậc Chánh Đẳng Giác trong quá khứ và ở vị lai, tuy nhiên, Đại Đức vẫn giữ ý niệm là chính Đại Đức đã hiểu biết truyền thống về Chánh Pháp, tiến trình mà tất cả chư Phật trong quá khứ và ở vị lai đều phải trải qua trước khi chứng đắc quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Giác, bằng cách diệt trừ Ngũ Triền Cái (mà chúng làm ô nhiễm tâm, khiến cho trí tuệ yếu ớt), đã an trú vào Tứ Niệm Xứ, đã chân chánh tu tập Thất Giác

Từ NALANDA đi đến PÀTALIGÀMA 

Đức Phật thuyết giảng năm điều nguy hại về sự phạm giới và năm điều lợi  ích của sự giữ giới

1.    Có năm điều nguy hại của sự phạm giới, sống trái giới luật: 

  • Tài sản tiền của bị tiêu hao nhiều do sống phóng dật
  • Tiếng dữ đồn xa
  • Tâm thần dao động, sợ hãi khi vào Hội Chúng đông người
  • Tâm Thức sẽ bị rối loạn khi thân hoại mạng chung
  • Tái tục vào Khổ Cảnh, Ác Thú, Đọa Xứ, Địa Ngục

2.    Có năm điều lợi ích của sự trì giới, giữ giới:

  • Tài sản tiền của dồi dào do sống không phóng dật
  • Tiếng lành đồn xa
  • Tâm tư ổn định, không bị dao động khi vào Hội Chúng đông người
  • Tâm Thức không tán loạn khi thân hoại mạng chung
  • Tái tục vào Nhàn Cảnh, Thiện Thú, Thiên Giới

*Khi thấy Chư Thiên đến tụ hợp đông đảo tại PÀTALIGÀMA, đức Phật cho biết đó là một sự kiết tường, và trú địa này sau sẽ là một thành thị bậc nhất, một trung tâm thương mãi bậc nhất có tên gọi là PATALIPUTTA, nhưng cũng tại trú địa này về sau sẽ bị ba hiểm nạn về lửa, nước, chia rẽ bất hòa (phân tranh).

* Nhận lời thỉnh mời về nhà cúng dường vật thực của hai vị đại thần ở xứ MAGADHA, có tên là SUNÌDHA và VASSAKÀRA, đức Phật cùng với đại chúng tỳ khưu đi đến thọ thực. Sau khi thọ thực xong, đức Phật thốt lên kệ tùy hỷ:

“Tại chỗ nào người sáng suốt lấy làm chỗ trú xứ, Hãy nuôi dưỡng người giữ giới và phạm hạnh, Và san sẻ công đức với Chư Thiên trú tại chỗ ấy. Được tôn kính, chúng sẽ tôn kính lại,

Được trọng vọng, chúng sẽ trọng vọng lại.

Chúng sẽ thương mến người ấy như người mẹ thương mến con một,

Và những ai được Chư Thiên thương mến thì luôn luôn được nhiều may mắn.”

Nhân dịp đức Phật đến viếng và đi ra khỏi cửa thành, hai vị đại thần này đặt tên cửa thành là “Cửa GOTAMA.” Đức Phật rời khỏi bến nào thì bến ấy sẽ được đặt tên là “Bến GOTAMA.” Đức Phật đi đến sông GANGÀ (Sông Hằng), có nhiều người đang chuẩn bị chiếc thuyền để đưa đức Phật cùng đại chúng tỳ khưu qua sông Hằng – lúc bấy giờ bến sông đang ngập nước và định đặt tên cho chiếc thuyền là, “Thuyền GOTAMA,” thì đức Phật cùng với chư tỳ khưu dùng thần thông sang qua bến bờ kia. Đức Phật hiểu được ý nghĩa của cảnh này, liền ứng khẩu lời cảm khái:

“Những ai làm cầu vượt biển trùng dương, bỏ lại đất sủng đầm ao, trong khi người phàm phu đang cột bè, những người ấy quả thật là những vị được trí tuệ giải thoát.”

Từ bờ sông GANGÀ đi đến KOTIGÀMA

 Tại nơi đây, đức Phật cho biết, “Chính vì không giác ngộ, không thông hiểu Tứ Thánh Đế, mà chúng ta phải lưu chuyển luân hồi lâu năm.”

“Chính vì không thấy như thật Tứ Thánh Đế, nên có sự luân chuyển lâu dài trong nhiều đời. Khi những sự thật này được nhận thức, thì nguyên nhân của một đời sống khác được trừ diệt. Khi Khổ Căn được đoạn trừ, sẽ không còn  một đời sống khác nữa.” 

Trong thời gian đức Phật ở KOTIGÀMA, Ngài đã thuyết giảng Pháp Thoại cho chúng tỳ khưu về “Giới, Định, Tuệ, Định cùng tu với Giới, Tuệ cùng tu với Định, Tâm cùng tu với Tuệ, giải thoát mọi Lậu Hoặc.” 

Từ KOTIGÀMA đi đến NÀDIKÀ

Đức Phật thuyết giảng Pháp Kính (DHAMMÀDÀSA – Gương Chánh Pháp)

Tại nơi đây, đại đức ÀNANDA vấn hỏi đức Phật về cảnh trạng tương lai của nhiều người (kể cả xuất gia và tại gia) đã quá vãng tại NÀDIKÀ, và đức Phật đã nhẫn nại kể lại từng mỗi cảnh trạng của từng người.

Mỗi lần có người mệnh chung lại đi đến hỏi đức Phật, với hiện tượng ấy quả thật phiền nhiễu quấy rối Ngài. Do vậy, đức Phật đã thuyết giảng Pháp Kính cho đại đức ÀNANDA để nhận biết được cảnh trạng sẽ đến cho một Thánh đệ tử đã chứng đạt Pháp Nghĩa khi mạng

Pháp Kính hay Gương Chánh Pháp là gương lành của người Thánh đệ tử đã đặt trọn vẹn niềm tin vào Tam Bảo, trau giồi phẩm hạnh cao thượng, với những giới hạnh đưa đến giải thoát, được bậc Thiện Trí Thức tán thán, thoát ly mọi dục vọng trần tục, hướng tâm an chỉ trong Thiền Định, chứng đạt Pháp Nghĩa, do vậy, vị Thánh đệ tử nhận biết viễn ảnh của mình.

“Đối với ta, sẽ không còn Địa Ngục, sẽ không tái tục cõi bàng sanh, ngạ quỷ, ác xứ, ác thú. Ta đã chứng quả Dự Lưu, nhất định không đọa ác đạo, sẽ thành đạt Chánh Giác.”

Trong thời gian đức Phật ở tại NÀDIKÀ, Ngài đã thuyết giảng Pháp Thoại cho chúng tỳ khưu về: “Giới, Định, Tuệ, Định cùng tu với Giới, Tuệ cùng tu với Định, Tâm cùng tu với Tuệ, giải thoát mọi Lậu Hoặc.”  

Từ NÀDIKÀ đi đến thành VESALÌ và trú tại vườn xoài của kỷ nữ AMBAPÀLI

Vì kỷ nữ AMBAPÀLI rất xinh đẹp và thế nào cũng đến yết kiến, đức Phật khuyên dạy chư tỳ khưu phải luôn chú tâm an trú vào Chánh Niệm và Tỉnh Giác.

Đức Phật cùng với Hội Chúng Tỳ Khưu nhận lời mời về nhà cúng dường vật thực của AMBAPÀLI và khước từ lời thỉnh mời đến sau của các thanh niên LICCHAVÌ sau khi thọ thực

Sau khi đức Phật cùng với Hội Chúng Tỳ Khưu đã thọ thực xong, thì kỷ nữ AMBAPÀLI đã phát tâm cúng dường khu vườn xoài của mình và tín thọ lời Pháp Thoại của đức Phật.

Trong thời gian đức Phật ở tại VESÀLI, Ngài đã thuyết giảng Pháp Thoại cho chúng tỳ khưu về, “Giới, Định, Tuệ, Định cùng tu với Giới, Tuệ cùng tu với Định, Tâm cùng tu với Tuệ, giải thoát mọi Lậu Hoặc.”

Từ thành VESÀLI đi đến làng BELUVÀ

Một làng nhỏ bé kế cận, và đức Phật quyết định an cư mùa mưa tại đây.

Lời kêu gọi của đức Phật đến Hội Chúng Tăng

1.    Đức Phật thọ bệnh trầm trọng

  • Trong mùa an cư này, đức Phật thọ bệnh trầm trọng, vô cùng đau đớn, cận kề tử vong. Tuy nhiên, đức Phật giữ tâm chánh niệm, tỉnh giác, chịu đựng cơn đau, không chút ta thán.
  • Nhận biết đã đến lúc sắp lìa bỏ thế gian, viên tịch Níp Bàn, và không hợp lẽ nếu ra đi mà không một lời với các đệ tử hầu cận, không từ biệt chúng tỳ khưu, do vậy, với sức tinh tấn, đức Phật nhiếp phục căn bệnh, duy trì mạng căn bằng Thiền Định (JÌVITA SANKHÀRAM ADHITTHÀYA) và tiếp tục sống.
  • Đại đức ÀNANDA biểu lộ hân hoan ngay sau khi đức Phật lành bệnh, khỏe mạnh lại, được biết rằng Ngài sẽ không diệt độ và nhận lời di giáo của đức Thế Tôn. (Lời khuyên nhủ này rất tế nhị, rất quan trọng, đáng lưu ý, bộc lộ rõ ràng tính chất đặc biệt của Tam Bảo).

2.    Đức Phật ngỏ lời di giáo đến Hội Chúng Tăng

“Chúng Tỳ Khưu còn mong mỏi gì nữa ở nơi Như Lai? Như Lai đã giảng Chánh Pháp không có phân biệt trong ngoài (bí truyền và công truyền). Đối với các Pháp, Như Lai không bao giờ là vị Đạo Sư còn nắm tay lại (còn giữ lại một ít bí truyền chưa giảng dạy). Những ai nghĩ rằng, Ta sẽ là vị cầm đầu, lãnh đạo chúng Tỳ Khưu hoặc chúng Tỳ Khưu chịu sự giáo huấn của Ta, thì người ấy sẽ có lời di giáo cho chúng Tỳ Khưu. Nhưng Như Lai không nghĩ rằng, Ta sẽ là vị cầm đầu, lãnh đạo chúng Tỳ Khưu hoặc chúng Tỳ Khưu chịu sự giáo huấn của Ta, thì làm sao Như Lai lại có lời di giáo cho chúng Tỳ Khưu.”

Này ÀNANDA, nay Như Lai đã già, đã thành bậc trưởng thượng, đã đến tuổi lâm chung, đã đến tám mươi tuổi. Như cổ xe đã cũ kỷ mà còn chạy được bởi các dây chằng chịt cột các bộ phận lại. Cũng vậy, thân Như Lai đang duy trì sự sống cũng chính nhờ những sợi dây chằng chịt. Này ÀNANDA, chỉ khi nào Như Lai không suy niệm đến tất cả tướng, với sự diệt trừ một số cảm thọ, chứng và an trú vô tướng tâm định, chính khi ấy thân Như Lai được thoải mái.”

“Do vậy, này ÀNANDA, hãy tự mình là ngọn đèn cho chính mình, hãy tự mình y tựa chính mình, chớ y tựa một gì khác. Dùng Chánh Pháp làm ngọn đèn, dùng Chánh Pháp làm chỗ nương tựa, chớ nương tựa một gì khác. Này ÀNANDA, thế nào là vị tỳ khưu khéo tự mình là ngọn đèn cho chính mình, tự mình y tựa chính mình, không y tựa một gì khác? Này ÀNANDA, một vị tỳ khưu sống chuyên cần, tinh tấn, tỉnh giác chánh niệm, từ khước mọi tham ái ưu bi trên đời, luôn luôn phát triển tâm định đối với Thân Thọ Tâm Pháp (Tứ Niệm Xứ). Như vậy, vị tỳ khưu khéo tự mình là ngọn đèn cho chính mình, tự mình y tựa chính mình, chớ y tựa một gì khác. Dùng Chánh Pháp làm ngọn đèn, dùng Chánh Pháp làm chỗ nương tựa, không nương tựa một gì khác.”

“Này ÀNANDA, những ai sau khi Như Lai viên tịch, tự mình là ngọn đèn cho chính mình, tự mình y tựa chính mình, chớ y tựa một gì khác, dùng Chánh Pháp làm ngọn đèn, dùng Chánh Pháp làm chỗ nương tựa, không nương tựa một gì khác, những vị ấy là những vị Tối Thượng trong hàng tỳ khưu của Ta, nếu những vị ấy vẫn tha thiết học hỏi.”

Từ VESÀLI đi đến nghỉ trưa tại đền CÀPÀLA 

Ba lần gợi ý của đức Phật với đại đức ÀNANDA thỉnh nguyện đức Phật ở lại thế gian

Tại đền CÀPÀLA, đức Phật đã ngỏ lời gợi ý ba lần với đại đức ÀNANDA, nên thỉnh nguyện đức Thế Tôn sống đến một kiếp hay phần kiếp còn lại (kiếp trái đất) vì lợi ích cho chúng sanh, vì hạnh phúc cho chúng sanh, vì lòng thương tưởng cho đời, vì lợi ích, vì hạnh phúc, vì an lạc cho Chư Thiên và Nhân Loại.

Do bởi đức Phật đã thật điêu luyện, đã thật vững chải, đã thật thiện xảo về Tứ Thần Túc, một năng lực phi thường, có thể làm cho kéo dài thêm kiếp sống. Tuy nhiên, lúc bấy giờ Tâm của đại đức ÀNANDA đã bị Ác Ma che ám, nên không hiểu biết được sự gợi ý quá rõ ràng, sự hiện tướng quá rõ ràng của đức Phật, và đã không thỉnh cầu đức Thế Tôn ở lại trên thế gian này.

2.    Ác Ma thỉnh nguyện ba lần với đức Phật viên tịch Níp Bàn

Nhân cơ hội ấy, Ác Ma đã đến thỉnh nguyện ba lần với đức Thế Tôn hãy nên viên tịch Níp Bàn vì đã đúng thời và phù hợp với hạnh nguyện của Ngài đã tế độ Tứ Chúng (Tỳ Khưu, Tỳ Khưu Ni, Cận Sự Nam, Cận Sự Nữ) được thành tựu viên mãn với Chánh Pháp, sống theo Chánh Pháp, và có thể truyền bá Chánh Pháp một cách thần diệu.

Đức Thế Tôn đã nhận lời với Ác Ma: “Này Ác Ma hãy yên tâm, không bao lâu Như Lai sẽ diệt độ. Sau ba tháng bắt đầu từ hôm nay, Như Lai sẽ diệt độ.”

Kể từ ngày ấy, tại đền CÀPÀLA, đức Phật chánh niệm tỉnh giác và từ bỏ thọ hành (không duy trì mạng sống lâu hơn nữa), đã làm cho quả địa cầu chấn động ghê rợn, sấm trời vang dậy. Đức Thế Tôn nhận biết ý nghĩa của sự kiện ấy, liền thốt câu kệ cảm khái:

“Mạng sống hữu hạn hay vô hạn, Tu sĩ từ bỏ không kéo dài. Nội Tâm chuyên nhất trú thiền định, Như thoát áo giáp đang mang mặc.” 

Đức Phật thuyết giảng về tám nguyên nhân làm cho quả địa cầu chấn động  dữ dội

1.    Đức Phật thuyết giảng tám nguyên nhân quả địa cầu rung động

  • Quả địa cầu được hình thành trên nước, nước ở trên gió, và gió ở hư không. Gió lớn khi thổi mạnh làm nổi sóng nước, và khi nước nổi sóng thì quả địa cầu rung động.
  • Một vị Sa Môn hay Bà La Môn có thần thông, tâm được chế ngự, hoặc Chư Thiên có đại thần thông, có đại uy lực. Những vị này quán thấy địa tánh hữu hạn và thủy tánh vô hạn, vị ấy khiến cho quả địa cầu rung động.
  • Vị Bồ Tát ở cõi TUSITÀ (Đâu Suất Đà) từ bỏ Thiên Mạng, với chánh niệm tỉnh giác, đi nhập vào Mẫu Thai, khiến cho quả địa cầu rung động.
  • Vị Bồ Tát với chánh niệm tỉnh giác, ra khỏi Mẫu Thai, khiến cho quả địa cầu rung động, chấn động mạnh. 
  • Khi Bồ Tát chứng đắc quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Giác, thì khiến cho quả địa cầu rung động.
  • Khi đức Phật chuyển bánh xe pháp (Pháp Luân), thì khiến cho quả địa cầu rung động.
  • Khi đức Phật với chánh niệm tỉnh giác, từ bỏ không duy trì mạng sống nữa, khiến cho quả địa cầu rung động, chấn động mạnh.
  • Khi đức Phật viên tịch Vô Dư Y Níp Bàn, thì khiến cho quả địa cầu rung động.

2.    Có tám hạng chúng sanh 

  • Chúng Sát Đế Lỵ, chúng Bà La Môn, chúng Cư Sĩ, chúng Sa Môn, chúng Tứ Thiên Vương, chúng Tam Thập Tam Thiên, chúng Ma, chúng Phạm Thiên.

3.    Có tám thắng xứ

  • Một vị quán tưởng nội sắc, thấy rõ ngoại sắc hữu hạn, và rõ biết đã nhiếp thắng chúng.
  • Một vị quán tưởng nội sắc, thấy rõ ngoại sắc vô hạn, và rõ biết đã nhiếp thắng chúng.
  • Một vị quán tưởng vô sắc ở nội tâm, thấy rõ ngoại sắc hữu hạn, và rõ biết đã nhiếp thắng chúng.
  • Một vị quán tưởng vô sắc ở nội tâm, thấy rõ ngoại sắc vô hạn, và rõ biết đã nhiếp thắng chúng.
  • Một vị quán tưởng vô sắc ở nội tâm, thấy rõ ngoại sắc với hình thể, tướng trạng, sắc thái màu xanh (như bông gai hay lụa BÀRÀNASÌ, với cả hai mặt trơn và láng, có màu xanh), và rõ biết đã nhiếp thắng chúng.
  • Một vị quán tưởng vô sắc ở nội tâm, thấy rõ ngoại sắc với hình thể, tướng trạng, sắc thái màu vàng (như bông KANIKÀRA hay lụa BÀRÀNASÌ, với cả hai mặt trơn và láng, có màu vàng), và rõ biết đã nhiếp thắng chúng.
  • Một vị quán tưởng vô sắc ở nội tâm, thấy rõ ngoại sắc với hình thể, tướng trạng, sắc thái màu đỏ (như bông BANDHUJÌVAKA hay lụa BÀRÀNASÌ, với cả hai mặt trơn và láng, có màu đỏ), và rõ biết đã nhiếp thắng chúng.
  • Một vị quán tưởng vô sắc ở nội tâm, thấy rõ ngoại sắc với hình thể, tướng trạng, sắc thái màu đỏ (như bông OSADHI hay lụa BÀRÀNASÌ, với cả hai mặt trơn và láng, có màu đỏ), và rõ biết đã nhiếp thắng chúng.

4.    Có tám giải thoát 

  1. Tự mình có Sắc, thấy các Sắc Pháp.
  2. Không biết tự mình có Sắc, thấy các Sắc ngoài tự thân.
  3. Tâm mạnh hướng đến thanh tịnh.
  4. Vượt khỏi mọi sắc tưởng, không còn suy tư bất luận một dị loại tưởng với suy tư “Hư Không là vô biên,” chứng và trú vào Hư Không Biên Xứ.
  5. Vượt khỏi Không Vô Biên Xứ, chứng và trú vào Thức Vô Biên Xứ.
  6. Vượt khỏi Thức Vô Biên Xứ, chứng và trú vào Vô Sở Hữu Xứ.
  7. Vượt khỏi Vô Sở Hữu Xứ, chứng và trú vào Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ.
  8. Vượt khỏi Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ, chứng và trú vào Thiền Diệt (Diệt Thọ Tưởng Định).

Đức Phật kể lại cuộc đối thoại giữa đức Phật với Ác Ma sau khi Ngài chứng đắc quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Giác, tại URUVELÀ, trên bờ sông NERANJARA, dưới gốc cây AJAPÀLANIGODHA. Ác Ma xin thỉnh đức Thế Tôn hãy nên diệt độ, Vô Dư Y Níp Bàn ngay lúc bấy giờ. Đức Phật đã từ chối vì chưa đúng thời và không phù hợp với hạnh nguyện của Ngài là tế độ Tứ Chúng (Tỳ Khưu, Tỳ Khưu Ni, Cận Sự Nam, Cận Sự Nữ) được thành tựu viên mãn với Chánh Pháp, sống theo Chánh Pháp, và có thể truyền bá Chánh Pháp một cách thần diệu. Nhưng ngay hiện tại, mọi việc đã viên thành, đã đúng thời và phù hợp với hạnh nguyện của Ngài đã tế độ Tứ Chúng được thành tựu viên mãn; do đó, đức Phật đã nhận lời thỉnh nguyện của Ác Ma.

Khi đã biết rõ nguyên nhân làm cho quả địa cầu rung động là điềm báo lời hứa của đức Thế Tôn với Ác Ma chỉ còn ba tháng nữa là Ngài viên tịch Níp Bàn. Đại đức ÀNANDA đã ba lần khẩn khoản thỉnh cầu đức Phật hãy ở lại thế gian vì lợi ích cho chúng sanh, vì hạnh phúc cho chúng sanh, vì lòng thương tưởng cho đời, vì lợi ích, vì hạnh phúc, vì an lạc cho Chư Thiên và Nhân Loại. Tuy nhiên, đã không được đức Phật nhận lời của đại đức ÀNANDA. Và Ngài đã xác nhận đó là lỗi của đại đức ÀNANDA, là khuyết điểm của đại đức ÀNANDA. Sau đó, đức Phật giảng giải về tính cách Vô Thường của đời sống (mọi Pháp Hữu Vi đã có sanh khởi, tồn tại rồi phải chịu biến hoại đúng theo thực tính của Pháp).

Từ CÀPÀLA đi đến giảng đường KÙTÀGÀRA 

Vào trú tại khu rừng Đại Lâm và triệu tập tất cả chư tỳ khưu tăng đang cư trú quanh thành VESÀLI.

Những lời di huấn tối hậu của đức Phật đến Hội Chúng Tăng

1.    Trau giồi tinh cần Ba Mươi Bảy Phẩm Trợ Đạo

Với Ba Mươi Bảy Pháp nhân sanh quả giác ngộ do chính đức Phật đã chứng ngộ và khéo giảng dạy cho Chư Tỳ Khưu Tăng, thì hội chúng phải khéo học hỏi, thực chứng, tu tập, và phát triển đầy đủ để truyền bá nếp sống Phạm Hạnh cao quý cho được trường tồn, vĩnh cửu vì lợi ích cho chúng sanh, vì hạnh phúc cho chúng sanh, vì lòng thương tưởng cho đời, vì lợi ích, vì hạnh phúc, vì an lạc cho Chư Thiên và Nhân Loại.

2.     Lời di huấn tối hậu của đức Phật

“Này chư tỳ khưu, đây là lời Ta nhắn nhủ với các người: Các Hành là vô thường. Hãy tinh tấn lên để tự giải thoát. Không bao lâu, Như Lai sẽ diệt độ. Sau ba tháng bắt đầu từ hôm nay, Như Lai sẽ diệt độ.” Và đức Thiện Thệ thốt lên bài kệ như sau:

“Ta đã già, dư mạng chẳng còn bao, 

Từ biệt các ngươi, Ta đi một mình. Tự mình làm sở y cho chính mình,

Hãy tinh tấn, chánh niệm, giữ giới luật, Nhiếp thúc ý chí, bảo hộ tự tâm.

Ai tinh tấn trong Pháp và Luật này, Sẽ diệt sanh tử, chấm dứt khổ đau.”

 Từ giã VESÀLI đi đến làng BHANDAGÀMA 

Tại nơi đây, đức Phật cho biết, “Chính vì không giác ngộ, không thông hiểu Tứ Thánh Đế, mà chúng ta phải lưu chuyển luân hồi lâu năm.”

“Chính vì không thấy như thật Tứ Thánh Đế, nên có sự luân chuyển lâu dài trong nhiều đời. Khi những sự thật này được nhận thức, nguyên nhân của một đời sống khác được trừ diệt. Khi Khổ Căn được đoạn trừ, sẽ không còn một đời sống khác nữa.”

Sau đó, đức Thiện Thệ thốt lên bài kệ như sau:

“Giới, Định, Tuệ và Giải Thoát vô thượng, GOTAMA danh xưng đã chứng ngộ.

Đấng Giác Ngộ giảng pháp chúng Tỳ Khưu, Đạo Sư diệt khổ, Pháp Nhãn Tịnh Lạc.”

Trong thời gian đức Phật ở tại BHANDAGÀMA, Ngài đã thuyết giảng Pháp Thoại cho chúng tỳ khưu về: “Giới, Định, Tuệ, Định cùng tu với Giới, Tuệ cùng tu với Định, Tâm cùng tu với Tuệ, giải thoát mọi Lậu Hoặc.” 

Từ BHANDAGÀMA đi đến HATTHIGÀMA, AMBAGÀMA, JAMBUGÀMA, BHOGANAGARA, và trú vào đền ÀNANDA

Đức Phật thuyết bốn Đại Giáo Pháp (MAHÀPADASA – Bốn điều tham chiếu lớn) cho Hội Chúng Tăng

  1. Nếu có một vị tỳ khưu nói rằng: “Chính tự thân được nghe từ miệng đức Thế Tôn, tự thân lãnh thọ, như vậy là Pháp, như vậy là Luật, như vậy là lời dạy của vị Đạo Sư.”

Những lời ấy, không nên tán thán, chấp nhận, cũng không hủy báng bác bỏ. Phải thận trọng cân nhắc từng mỗi chữ, mỗi câu, cần phải nghiên  cứu học hỏi kỹ lưỡng, và đem so sánh với Kinh, đem đối chiếu với Luật.

Khi đem so sánh với Kinh Luật, nếu chúng không phù hợp, không tương ứng với Kinh Luật, thì có thể kết luận rằng đây, “Không phải là lời dạy của đức Thế Tôn, và vị tỳ khưu ấy đã thọ giáo sai lầm.” Khi đem so sánh với Kinh Luật, nếu chúng phù hợp, tương ứng với Kinh Luật thì có thể kết luận rằng đây, “Chính là lời dạy của đức Thế Tôn, và vị tỳ khưu ấy đã thọ giáo chân chánh.”

Đây là Đại Giáo Pháp thứ nhất, và chư tỳ khưu phải thọ trì.

  1. Nếu có một vị tỳ khưu nói rằng: “Chính tự thân được nghe từ nơi Tăng Chúng, tự thân lãnh thọ, như vậy là Pháp, như vậy là Luật, như vậy là lời dạy của vị Đạo Sư.”

Những lời ấy, không nên tán thán, chấp nhận, mà cũng không hủy báng bác bỏ. Phải thận trọng cân nhắc từng mỗi chữ, mỗi câu, cần phải nghiên cứu học hỏi kỹ lưỡng, và đem so sánh với Kinh, đem đối chiếu với Luật.

Khi đem so sánh với Kinh Luật, nếu chúng không phù hợp, không tương ứng với Kinh Luật, thì có thể kết luận rằng đây, “không phải là lời dạy của đức Thế Tôn, và vị tỳ khưu ấy đã thọ giáo sai lầm.” Khi đem so sánh với Kinh Luật, nếu chúng phù hợp, tương ứng với Kinh Luật, thì có thể kết luận rằng đây, “chính là lời dạy của đức Thế Tôn, và vị tỳ khưu ấy đã thọ giáo chân chánh.”

Đây là Đại Giáo Pháp thứ hai, và chư tỳ khưu phải thọ trì.

  1. Nếu có một vị tỳ khưu nói rằng: “Chính tự thân được nghe từ nhiều vị Trưởng Lão Tôn Túc, là những bậc đa văn quảng kiến, biết gìn giữ truyền thống, trì Pháp, trì Luật, trì Pháp yếu. Chính tự thân lãnh thọ từ những vị Trưởng Lão Tôn Túc đó, như vậy là Pháp, như vậy là Luật, như vậy là lời dạy của vị Đạo Sư.”

Những lời ấy, không nên tán thán, chấp nhận, mà cũng không hủy báng bác bỏ. Phải thận trọng cân nhắc từng mỗi chữ, mỗi câu, cần phải nghiên cứu học hỏi kỹ lưỡng, và đem so sánh với Kinh, đem đối chiếu với Luật.

Khi đem so sánh với Kinh Luật, nếu chúng không phù hợp, không tương ứng với Kinh Luật, thì có thể kết luận rằng đây, “Không phải là lời dạy của đức Thế Tôn, và vị tỳ khưu ấy đã thọ giáo sai lầm.” Khi đem so sánh với Kinh Luật, nếu chúng phù hợp, tương ứng với Kinh Luật, thì có thể kết luận rằng đây, “Chính là lời dạy của đức Thế Tôn, và vị tỳ khưu ấy  đã thọ giáo chân chánh.”

 

Đây là Đại Giáo Pháp thứ ba, và chư tỳ khưu phải thọ trì.

 

  1. Nếu có một vị tỳ khưu nói rằng: “Chính tự thân được nghe từ nơi một vị Trưởng Lão Tôn Túc, là bậc đa văn quảng kiến, biết gìn giữ truyền thống, trì Pháp, trì Luật, trì Pháp yếu. Chính tự thân lãnh thọ từ vị Trưởng lão ấy, như vậy là Pháp, như vậy là Luật, như vậy là lời dạy của vị Đạo Sư.”

Những lời ấy, không nên tán thán, chấp nhận, mà cũng không hủy báng bác bỏ. Phải thận trọng cân nhắc từng mỗi chữ, mỗi câu, cần phải nghiên cứu học hỏi kỹ lưỡng, và đem so sánh với Kinh, đem đối chiếu với Luật.

Khi đem so sánh với Kinh Luật, nếu chúng không phù hợp, không tương ứng với Kinh Luật, thì có thể kết luận rằng đây, “Không phải là lời dạy của đức Thế Tôn, và vị tỳ khưu ấy đã thọ giáo sai lầm.” Khi đem so sánh với Kinh Luật, nếu chúng phù hợp, tương ứng với Kinh Luật thì có thể kết luận rằng đây, “Chính là lời dạy của đức Thế Tôn, và vị tỳ khưu ấy đã thọ giáo chân chánh.”

Đây là Đại Giáo Pháp thứ tư, và chư tỳ khưu phải thọ trì.

Trong thời gian đức Phật ở tại BHOGANAGARA, Ngài đã thuyết giảng Pháp Thoại cho chúng tỳ khưu về “Giới, Định, Tuệ, Định cùng tu với Giới, Tuệ cùng tu với Định, Tâm cùng tu với Tuệ, giải thoát mọi Lậu Hoặc.”

Từ BHOGANAGARA đi đến PÀVÀ

Khi đi đến PÀVÀ, đức Phật cùng Hội Chúng Tỳ Khưu trú tại vườn xoài của thợ rèn CUNDA. Và tại đây, CUNDA đã cung thỉnh đức Phật cùng chư Tăng về nhà thọ thực. Với tâm rất trong sạch, CUNDA đã cúng dường một món vật thực rất đặc biệt, có tên gọi là SÙKARA MADDAVE đến đức Phật, cùng với những món ăn thượng vị, loại cứng loại mềm.

Theo lời chỉ dạy của đức Phật, món ăn SÙKARA MADDAVE chỉ dâng duy nhất đến đức Phật mà thôi, còn dư sót (tàn thực), thì phải đem chôn vào một lỗ thật sâu dưới lòng đất bởi vì không có một ai, luôn đến Chư Thiên, Ma Giới, Phạm Thiên, có thể tiêu hóa món vật thực này.

Sau khi thọ thực xong, đức Phật lâm trọng bệnh, bệnh lỵ huyết, đau đớn cận kề tử vong. Đức Phật chánh niệm tỉnh giác, nhẫn nại chịu đựng cơn bệnh, và quyết định đi đến vườn KUSINÀRÀ.

Từ PÀVÀ đi đến KUSINÀRÀ

1.   Đại đức ÀNANDA dâng nước uống đến đức Phật

  • Dừng lại bên đường, đức Phật ngồi dưới một gốc cây và bảo đại đức ÀNANDA đi tìm nước uống vì Ngài đang khát và muốn được uống nước.
  • Với ba lần thỉnh cầu của đại đức ÀNANDA với đức Phật, là nên đi tới sông KAKUTTHÀ, cách không xa nơi đức Phật đang ngồi nghỉ, sẽ có nước trong sạch, thuần tịnh. Tuy nhiên, vì đức Phật đang thọ bệnh nặng và đang khát nước; do đó, quả thật rất khó khăn cho đại đức ÀNANDA tìm được nước uống trong một dòng sông cạn, nơi ấy năm trăm cổ xe bò vừa mới đi qua, vẫn còn đục cả nước.
  • Nhưng thật kỳ diệu, thật hy hữu, nhờ vào Thần Túc và Uy Lực của đức Phật, khi đại đức ÀNANDA đưa bát vào múc nước, thì nước lại trở thành trong trẻo, sáng lặng, và không còn vẩn đục.

2.    Đức Phật tế độ PUKKUSA, và PUKKUSA phát tâm cúng dường y kim sắc đến đức Phật

Lúc bấy giờ, PUKKUSA thuộc dòng họ MALLÀ, đệ tử của ÀLÀRA KÀLÀMA, đang đi trên đường từ KUSINÀRÀ đến PÀVÀ.

PUKKUSA đã đến gần đức Phật và bày tỏ lòng thán phục của mình trước sự trầm tỉnh khác thường của đức Phật. Sau khi nghe đức Phật thuyết về sự thanh tịnh, không xao động của Ngài, PUKKUSA phát tâm tín thọ lời dạy và trọn đời quy ngưỡng vào Tam Bảo.

Kế tiếp, để bày tỏ lòng tôn kính với đức Phật, PUKKUSA xin dâng lên hai bộ y kim sắc vàng chói, và theo lời chỉ dạy của Ngài, PUKKUSA đã dâng một bộ y cho đức Phật, và một bộ y cho đại đức ÀNANDA.

3.        Kim thân của đức Phật phún tủa hào quang hai lần trong đời

Khi đại đức ÀNANDA mặc y kim sắc đặt ở trên thân của đức Phật, thì màu sắc sáng chói của y bị lu mờ đi. Đại Đức lấy làm ngạc nhiên khi thấy nước da của đức Phật sáng chói khác thường.

Đức Phật cho biết trong hai trường hợp màu da của Ngài trở nên sáng chói rực rỡ lạ thường, đó là:

  1. Trong đêm đức Phật chứng đắc quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Giác.
  2. Trong đêm đức Phật sắp diệt độ, viên tịch Vô Dư Y Níp Bàn.

Và đức Phật cho biết trong đêm ấy, vào lúc canh ba, Ngài sẽ tịch diệt tại UPAVATTANA ở KUSINÀRÀ trong khu rừng Long Thọ (SÀLA) của tiểu vương quốc MALLÀ.

4.        Đức Phật tắm lần cuối cùng tại dòng sông KAKUTTHÀ

Đức Phật cùng với đại chúng tỳ khưu đi đến con sông KAKUTTHÀ, xuống sông tắm, uống nước sông, rồi lội qua bờ bên kia, đi đến khu rừng xoài, và đức Phật muốn được nằm nghỉ vì đã quá mệt mỏi.

“Đức Phật tự đi đến con sông KAKUTTHÀ,

Con sông chảy trong sáng, mát lạnh và thanh tịnh. Vị Đạo Sư mỏi mệt, đi dần xuống mé sông,

Như Lai đấng Vô Thượng, ngự trị ở trên đời. Tắm xong, ước nước xong, lội qua bên kia sông, Bậc Đạo Sư đi trước, giữa tăng chúng tỳ khưu. Vừa đi vừa diễn giảng, Chánh Pháp thật vi diệu. Rồi bậc Đại Sĩ đến tại khu vực rừng xoài,

Cho gọi vị tỳ khưu, tên họ CUNDAKA: Hãy gấp tư áo lại, trải y cho Ta nằm.

Nghe dạy, CUNDAKA lập tức vâng lời dạy, Gấp tư và trải y một cách thật mau lẹ.

Bậc Đạo Sư nằm xuống, thân mình thật mệt mỏi, Tại đấy, CUNDAKA ngồi ngay phía trước mặt.”

5.        Hai bữa cơm vô cùng phước báu trong đời của đức Phật

Sau khi nằm nghỉ một chốc lát, đức Phật nói cho đại đức ÀNANDA được biết rằng, trong đời của Ngài có hai bữa cơm vô cùng phước báu, đó là:

  1. Một bữa ăn trước khi đức Phật chứng đắc quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Giác.
  2. Một bữa ăn của đức Phật trước khi diệt độ, viên tịch Vô Dư Y Níp Bàn

Hai bữa ăn này có đồng một quả báo, có đồng một dị thục quả, quả báo lớn hơn, lợi ích hơn các sự cúng dường ăn uống khác.

Đức Phật dạy bảo đại đức ÀNANDA cần phải làm tiêu tan sự hối hận của thợ rèn CUNDA, về bữa ăn cuối cùng, và đức Phật thọ bệnh lỵ huyết. Đây là bữa ăn có nhiều phước báu, và việc cúng dường của CUNDA sẽ có nhiều phước báu, đó là:

  • Được hưởng tuổi thọ
  • Được hưởng sắc đẹp
  • Được hưởng sự an lạc
  • Được hưởng danh thơm tiếng tốt
  • Được hưởng thọ sanh Thiên Giới
  • Được hưởng đầy đủ uy quyền
  • Sau đó, đức Phật thốt lên một bài kệ cảm khái:

“Công đức người bố thí, Luôn luôn được tăng trưởng. Trừ được Tâm hận thù,

Không chất chứa, chế ngự. Kẻ chí thiện từ bỏ,

Mọi ác hạnh bất thiện. 

Diệt trừ Tham Sân Si,

Tâm giải thoát thanh tịnh.” 

Vượt qua bờ sông HIRANNAVATI đi đến UPAVATTANA ở KUSINÀRÀ trong khu rừng Long Thọ (SÀLA) của tiểu vương quốc MALLÀ 

  • Đức Phật nằm an nghỉ giữa hai tàng cây Long Thọ, đầu hướng về phía Bắc, với hình dáng nằm của con sư tử, hai chân để lên nhau, chánh niệm, và tỉnh giác.
  • Nhìn những bông hoa Long Thọ trổ hoa trái mùa, những thiên hoa MANDÀRAVA từ trên hư không rơi xuống cùng khắp và tung vãi trên kim thân của đức Phật để cúng dường Ngài. Bột trời chiên đàn từ trên hư không rơi xuống, gieo khắp, và tung vãi trên kim thân của đức Phật. Những tiếng nhạc từ Thiên Giới trổi dậy để cúng dường Ngài. Đức Phật dạy đại đức ÀNANDA nên biết rằng: “Như vậy không thực là tôn kính, kính cẩn, sùng bái, và làm vẻ vang Như ”
  • Chỉ có người đệ tử nào (trong Tứ Chúng) thành tựu Chánh Pháp và Tùy Pháp, sống chân chánh trong Chánh Pháp, và hành trì đúng Chánh Pháp thì người đệ tử ấy đúng thực là tôn trọng, kính cẩn, sùng bái, làm vẻ vang đức Phật, và cúng dường đức Phật với sự cúng dường tối thượng.

Đức Phật dạy đại đức ÀNANDA nên làm những việc nên làm sau khi Ngài  đã viên tịch

*Đức Phật dạy đại đức UPAVÀNA hãy tránh qua một bên, không nên  đứng trước mặt Ngài, vì Chư Thiên ở khắp mười phương thế giới đang tụ hội để chiêm ngưỡng Ngài, cho đến mười hai do tuần quanh khu rừng KUSINÀRÀ UPAVATTANA, Chư Thiên đã tụ hội lại chật ních khắp cả khu rừng.

1.    Bốn Thánh Tích cần phải chiêm ngưỡng và tôn kính

  1. Nơi Bồ Tát đản sanh (tại vườn LUMBINI)
  2. Nơi Bồ   Tát   chứng   ngộ   Vô   Thượng   Chánh  Đẳng   Giác   (tại BODHIGÀYA).
  3. Nơi đức   Phật   chuyển   Pháp   Luân   Vô Thượng  (tại   Lộc Uyển ISIPATANA).
  4. Nơi đức Phật viên tịch Níp Bàn (tại KUSINÀRÀ).

* Và những ai trong khi đi chiêm bái những Thánh Tích mà từ trần với tâm thâm tín hoan hỷ, thì những vị ấy sau khi thân hoại mạnh chung, sẽ được thọ sanh về Thiên Giới.

2.    Phải biết cách cư xử với nữ giới

Không nên nhìn người nữ

Nếu đã nhìn, thì không nên nói chuyện

Khi đã nói chuyện, thì phải an trú trong Chánh Niệm

3.    Cung kính và xử sự Ngọc Xá Lợi đức Phật

Hạng người xuất gia không phải quá lo lắng vấn đề cung kính Thân Xá Lợi. Hãy nên nỗ lực, hãy tinh tấn hướng về tự độ, sống không phóng dật, cần mẫn, chuyên hướng về tự độ.

Hãy để hạng người tại gia, hạng học giả Sát Đế Lỵ, hạng học giả Bà La Môn, hạng học giả Cư Sĩ thâm tín, với niềm tin vững chắc với đức Phật, lo phần cung kính cúng dường Thân xá Lợi của đức Phật.

Xử sự nhục thể đức Phật như cách xử sự Thân Chuyển Luân Thánh Vương. Pháp táng Thân đức Phật tương tự Pháp táng của Chuyển Luân Thánh Vương. Giàn hỏa thiêu được đặt tại ngã tư đường.

Tháp của đức Phật phải được dựng lên tại ngã tư đường. Và những ai đến cúng dường hương hoa và lễ vật cung kính, hoặc khởi tâm hoan hỷ khi đứng trước bảo tháp, thì những vị này sẽ được hưởng nhiều phước báu lợi ích, hạnh phúc lâu dài.

4.    Có bốn hạng người đáng được xây Tháp tôn kính

  1. Đức Chánh Đẳng Giác
  2. Đức Độc Giác Phật
  3. Bậc Thinh Văn A La Hán
  4. Bậc Chuyển Luân Thánh Vương

Lúc bấy giờ, đại đức ÀNANDA đi vào Tinh Xá, dựa trên cột cửa, và đứng khóc than: “Ta nay vẫn còn là kẻ hữu học, còn phải lo tu tập. Nay bậc Đạo Sư của Ta sắp diệt độ, còn ai thương tưởng Ta nữa.”

Đức Phật khuyên nhủ và thọ ký đại đức ÀNANDA: “ Này ÀNANDA, chớ có buồn rầu, chớ có khóc than,

Mọi vật ái luyến, tốt đẹp đều phải sanh biệt, tử biệt, và dị biệt, Các Pháp sanh, trú hữu vi, biến hoại, và bị tiêu diệt.

Này ÀNANDA đã lâu nay, ngươi đối với Như Lai:

  • Với Thân Nghiệp đầy lòng Từ Ái, lợi ích, an lạc, có một không hai, vô lượng
  • Với Ngữ Nghiệp đầy lòng Từ Ái, lợi ích, an lạc, có một không hai, vô lượng
  • Với Ý Nghiệp đầy lòng Từ Ái, lợi ích, an lạc, có một không hai, vô lượng

Này ÀNANDA, ngươi là người tác thành công đức. Hãy cố gắng tinh tấn lên, Ngươi sẽ chứng bậc Vô Lậu, không bao lâu đâu.”

5.    Đức Phật tán dương bốn đức tánh kỳ diệu, hy hữu của đại đức ÀNANDA, tương xứng với một bậc Chuyển Luân Thánh Vương

  1. Chúng Tỳ Khưu Tăng luôn hoan hỷ khi được yết kiến đại đức ÀNANDA.
  2. Chúng Tỳ Khưu Tăng luôn hoan hỷ khi được đại đức ÀNANDA thuyết pháp và sẽ thất vọng khi Đại Đức làm
  3. Hạng Tỳ Khưu Ni, Cư Sĩ tại gia luôn hoan hỷ khi được yết kiến đại đức ÀNANDA.
  4. Hạng Tỳ Khưu Ni, Cư Sĩ tại gia luôn hoan hỷ khi được đại đức ÀNANDA thuyết pháp và sẽ thất vọng khi Đại Đức làm

*Thế rồi, đức Phật bảo với đại đức ÀNANDA đi vào  thành KUSINÀRÀ báo tin cho hoàng tộc MALLÀ và dân chúng được biết về sự viên tịch Níp Bàn của Ngài. Tất cả mọi người hay tin đều khóc than và đã dìu dắt nhau đi đến đảnh lễ đức Phật.

Đức Phật tế độ SUBHADDA trở thành người đệ tử cuối cùng

  • Du sĩ ngoại đạo SUBHADDA đến vấn hỏi đức Phật về sự giác ngộ ở các vị Giáo Chủ ngoại đạo.
  • Đức Phật cho biết rằng trong Pháp Luật nào không có Bát Thánh Đạo thì không thể có Đệ Nhứt Sa Môn, Đệ Nhị Sa Môn, Đệ Tam Sa Môn, và Đệ Tứ Sa Môn. Trong Pháp Luật có Bát Thánh Đạo thì có Đệ Nhứt Sa Môn, Đệ Nhị Sa Môn, Đệ Tam sa Môn, và Đệ Tứ Sa Môn.
  • Những hệ thống ngoại đạo đều không có những Sa Môn. Một vị tỳ khưu với đời sống chân chánh dẫn đến thành tựu quả vị A La Hán.

“Này SUBHADDA năm hai mươi chín, Ta xuất gia hướng tìm chân Thiện Đạo. Trải năm mươi năm với thêm một năm, Ta là du sĩ tu Trí tu Đức.”

  • Với Pháp Thoại đã được đức Thế Tôn khéo thuyết giảng, đã làm cho du sĩ ngoại đạo SUBHADDA tỏ niềm tịnh tín, xin quy y Tam Bảo, và xin được xuất gia thọ Cụ Túc Giới với trường hợp hoàn toàn cá biệt, không phải trải qua một thời gian sống bốn tháng biệt trú. Và đại đức ÀNANDA đã làm lễ xuất gia cho
  • Đại đức SUBHADDA độc cư, an tịnh, không phóng dật, tinh tấn, sống nhiệt tâm, cần mẫn. Và không bao lâu, đại đức SUBHADDA chứng đắc quả vị A La Hán và là vị đệ tử cuối cùng được đức Phật tế độ.

Những lời dạy tối hậu cho đại đức ÀNANDA

  • Sau khi đức Phật viên tịch, thì Chư Tăng hãy lấy Pháp và Luật làm Đạo Sư.
  • Chư tỳ khưu xưng hô nhau theo hạ lạp. Vị tỳ khưu niên lão, hãy gọi vị tỳ khưu niên thiếu, hoặc bằng tên, hoặc bằng họ, hoặc bằng tiếng Hiền Giả (ÀVÙSO). Vị tỳ khưu niên thiếu gọi vị tỳ khưu niên lão là Tôn Giả (BHANTE).
  • Sau khi đức Phật viên tịch, hãy sám hối tội Phạm Đàn (BRAHMADANDA) với tỳ khưu CHANNA. (Hình thức là không tiếp xúc, sẽ không nói chuyện, sẽ không giảng dạy, sẽ không giáo giới).
  • Chư Tỳ Khưu còn điều nào hoài nghi phân vân về Phật Bảo, Pháp Bảo, Tăng Bảo, Đạo, hay Phương Pháp, thì hãy nên hỏi ra và chớ để hối tiếc về sau. Đức Phật hỏi đến ba lần về câu hỏi này, nhưng tất cả Chư Tỳ Khưu đều làm thinh, có ý không nghi ngờ điều chi vì trong 500 vị Tỳ Khưu đang hiện hữu, đều là Thánh Tăng, bậc thấp nhất là bậc Dự Lưu, không còn đọa lạc, chắc chắn hướng đến Chánh Giác.
  • Và cuối cùng là lời tối hậu của đức Phật cho Chư Tỳ Khưu Tăng:

“Này các tỳ khưu, nay Ta khuyên dạy các ngươi: Các Pháp Hữu Vi là vô thường, hãy tinh tấn, chớ có phóng dật.” Đức Phật gom cả lời giáo huấn trong 45 năm vào một câu “Chớ có phóng dật” (APPAMÀDO) để nhắc nhở các vị tỳ khưu đừng dể vui, giải đãi trên đường tự tu, tự độ.

  • Từ đó trở đi, đức Phật không còn nói câu nào nữa, lấy Níp Bàn làm đề mục. Khởi đầu, nhập Sơ Thiền, đến Diệt Thọ Tưởng Định. Rồi từ Diệt Thọ Tưởng Định trở lại Sơ Thiền. Và từ Sơ Thiền trở lại Tứ Thiền, xuất khỏi Tứ Thiền, tức thì đức Thế Tôn viên tịch. Khi đức Phật diệt độ, làm chấn động quả địa cầu khủng khiếp, sấm trời vang động, báo động đức Thế Tôn đã Vô Dư Y Níp Bàn.
  • Đại Phạm Thiên SAHAMPATI thốt lên bài kệ:

“Chúng sanh ở trên đời, từ bỏ thân ngũ uẩn, Bậc Đạo Sư cũng vậy, đấng Tuyệt Luân trên đời. Bậc Đại Hùng giác ngộ, Như Lai đã diệt độ.” 

  • Thiên Chủ SAKKA (Thiên Chủ Đao Lợi Thiên) thốt lên bài kệ:

“Các hành là vô thường, Có sanh phải có diệt.

Đã sanh, chúng phải diệt, Nhiếp chúng là an lạc.”

  • Đại Đức ANURUDDHA thốt lên bài kệ:

“Không phải thở ra vào, Chính tâm trú chánh định. Không tham ái tịch tịnh, Tu sĩ hướng diệt độ.

Chính tâm tịnh bất động, Nhẫn chịu mọi cảm thọ. Như đèn sáng bị tắt, Tâm giải thoát hoàn toàn.” 

  • Đại Đức ÀNANDA thốt lên bài kệ:

“Thật kinh khủng bàng hoàng, Thật râu tóc dựng ngược. Khi bậc Toàn Thiện Năng, Bậc Giác Ngộ viên tịch.”

Lễ trà tỳ và phân chia Ngọc Xá Lợi

1.    Lễ Trà Tỳ Kim Thân Đức Phật

  • Vâng lời đại đức ANURUDDHA, đại đức ÀNANDA cùng một thị giả vào thành KUSINÀRÀ báo tin sự viên tịch của đức Phật cho toàn dân MALLÀ.
  • Toàn dân MALLÀ ở KUSINÀRÀ thiết lễ long trọng cúng dường đức Phật kéo dài suốt sáu ngày.
  • Đến ngày thứ bảy, tám vị Tộc Trưởng MALLÀ gội đầu và mặc áo mới với ý định khiêng kim thân đức Thế Tôn ra ngoài thành về phía Nam, nhưng phải đổi ý định để phù hợp với Chư Thiên là về phía Bắc của thành, đi qua Trung Tâm của thành, rồi rẽ về phía Đông cửa thành, đi tới đền của dân MALLÀ, có tên là MAKUTA BANDHANA, và sẽ làm hỏa thiêu tại nơi đấy.
  • Xử sự nhục thể đức Phật như cách xử sự Thân Chuyển Luân Thánh Vương. Pháp táng Thân đức Phật tương tự Pháp táng của Chuyển Luân Thánh Vương. Giàn hỏa thiêu được đặt tại ngã tư đường. Tháp của đức Phật phải được dựng lên tại ngã tư đường. Và những ai đến cúng dường hương hoa và lễ vật cung kính, hoặc khởi tâm hoan hỷ khi đứng trước bảo tháp, thì những vị này sẽ được hưởng nhiều phước báu lợi ích, hạnh phúc lâu dài.
  • Sau khi hoàn tất, cả bốn vị Tộc Trưởng MALLÀ gội đầu, mặc áo mới với ý định châm lửa thiêu giàn hỏa đức Thế Tôn, nhưng lửa không phát cháy, vì ý định của Chư Thiên muốn chờ đại đức MAHÀ KASSAPA cùng 500 vị tỳ khưu đang đi giữa đường từ PÀVÀ đến KUSINÀRÀ đến cúi đầu đảnh lễ đức Phật lần sau cuối.
  • Khi đại đức MAHÀ KASSAPA và 500 vị tỳ khưu cúi đầu đảnh lễ chân của đức Phật xong, thì lửa tự phát cháy, tất cả đều cháy sạch, không có tro bụi, và chỉ còn lại duy nhất là Ngọc Xá Lợi.
  • Kim Thân đức Thế Tôn vừa thiêu cháy xong, thì có một dòng nước từ hư không chảy xuống tưới tắt giàn hỏa, và một dòng nước từ kho nước phun lên cùng tưới tắt giàn hỏa, cùng với mọi người dân MALLÀ dùng nước hoa, hương thơm tưới vào giàn hỏa. Sau đó, người dân MALLÀ của xứ KUSINÀRÀ đã thu lượm Xá Lợi đức Phật đặt trong giảng đường và cúng dường long trọng trong suốt bảy ngày.

2.    Bà La Môn DONA phân chia Ngọc Xá Lợi đức Phật 

Nghe tin đức Phật đã viên tịch thì có cả bảy nước ở các vùng lân cận quanh xứ MALLÀ đều mong muốn có được Ngọc Xá Lợi để tạo Tháp tôn thờ, bày tỏ lòng cung kính. Đó là

  • Vua AJÀTASATTU VEDEHIPUTTA của xứ MAGADHA
  • Dân LICCHAVÌ ở VESÀLI
  • Dân SAKYÀ ở KAPILAVATTHU
  • Dân BULI ở ALLAKAPPA
  • Dân KOLIYA ở RÀMAGÀMA
  • Bà La Môn VETHADÌPAKA ở VETHADÌPA
  • Dân MALLÀ ở PÀVÀ
  • Bà La Môn DONA thưa với tất cả đại chúng như sau: “Tôn Giả, hãy nghe lời tôi nói,

Phật dạy chúng ta phải kham nhẫn.

Thật không tốt nếu có tranh giành, Khi chia Xá Lợi bậc Thượng Nhân. Chúng ta hãy đoàn kết nhất tâm, Hoan hỷ chia Xá Lợi tám phần.

Chúng ta hãy dựng Tháp mọi phương,ại Chúng mười phương tin Pháp Nhãn.”

  • Người dân MORIYÀ ở PIPPHALIVANA nghe tin nhưng lại đến trễ; do đó, chỉ còn lấy những tro than còn lại.
  • Như thế, chỉ có tám Tháp Xá Lợi được tôn thờ:
  • Vua AJÀTASATTU ở xứ MAGADHA xây dựng Tháp thờ Xá Lợi tại RÀJAGAHA và tổ chức lễ cúng dường.
  • Người dân LICCHAVÌ ở VESÀLI xây dựng Tháp thờ Xá Lợi tại VESÀLI và tổ chức lễ cúng dường.
  • Người dân SAKYA ở KAPILAVATTHU xây dựng Tháp thờ Xá Lợi tại KAPILA- VATTHU và tổ chức lễ cúng dường.
  • Người dân BULI ở ALLAKAPPA xây dựng Tháp thờ Xá Lợi tại ALLAKAPPA và tổ chức lễ cúng dường.
  • Người dân KOLIYA ở RÀMAGÀMA xây dựng Tháp thờ Xá Lợi tại RÀMAGÀMA và tổ chức lễ cúng dường.
  • Bà La Môn VETHADÌPAKA ở VETHADÌPA xây dựng Tháp thờ Xá Lợi tại VETHADÌPA và tổ chức lễ cúng dường.
  • Người dân MALLÀ ở PÀVÀ xây dựng Tháp thờ Xá Lợi tại PÀVÀ và tổ chức lễ cúng dường.
  • Người dân MALLÀ ở KUSINÀRÀ xây dựng Tháp thờ Xá Lợi tại KUSINÀRÀ và tổ chức lễ cúng dường.
  • Tháp thứ chín là thờ cái bình đựng Xá Lợi do Bà La Môn DONA xây dựng và tổ chức lễ cúng dường.
  • Tháp thứ mười là thờ than tro Xá Lợi do người dân MORIYÀ ở PIPPHALIVANA xây dựng Tháp trên những than tro và tổ chức lễ cúng dường.

Đó là truyền thống thời xưa như vậy.

Kết Luận:

Kệ cảm thán của đại đức ÀNANDA trước các Tháp thờ Ngọc Xá Lợi đức Phật:

“Đấng Pháp Nhãn Vô Thượng, Xá Lợi phân tám phần. Bảy phần được cúng dường,

Tại JAMBUDÌPA (Nam Thiện Bộ Châu). Một phần Long Vương cúng,

Tại RÀMAGÀMA.

Một răng Phật được cúng, Tại cõi Tam Thiên Giới. Một tại GANDHÀRA, Một tại KALINGA,

Một răng Vua Long Vương, Tự mình riêng cúng dường. Quả đất được chói sáng,

Với hào quang Xá Lợi, Với lễ vật cúng dường.

Hạng thượng phẩm, thượng đẳng, Xá Lợi đấng Pháp Nhãn,

Như vậy được cúng dường, Bởi những bậc tôn trọng.

Cung kính lễ cúng dường, Bởi Thiên, Long, Nhân chủ, Bởi bậc Tối Thượng Nhân. Các ngươi hãy chắp tay,

Cung kính lễ cúng dường. Khó thay sự chiêm ngưỡng, Tôn nhan bậc Như Lai.

Trải nhiều nhiều trăm kiếp, May lắm được một lần.”



Nguồn : Source link

Hits: 3