Tâm học yếu lược là phần nội dung do tác giả Tâm Học chọn lọc theo kiến giải riêng của mình… Do thấy kiến thức ở nhiều kinh , sách , bài giảng bị lặp lại nhiều quá. Nội dung chưa phải là chân lý chỉ có tính chất tham khảo.
Sơ lược về Phật giáo Bắc truyền ( Bắc tông hay Phật giáo Đại thừa)
Đại thừa
Bài viết tham khảo từ Bách khoa toàn thư mở Wikipedia 22 tháng 11 2021
Bước tới điều hướngBước tới tìm kiếm
Một phần của loạt bài về |
Phật giáo Đại thừa |
---|
Truyền thừa[hiện] |
Giáo lý[hiện] |
Kinh điển[hiện] |
Tông phái[hiện] |
Cổng thông tin Phật giáo |
Một phần của loại bài về |
Phật giáo |
---|
Cổng thông tin Phật giáo |
Đại thừa (tiếng Phạn: महायान,mahāyāna; chữ Hán: 大乘), phiên âm Hán-Việt là Ma-ha-diễn-na (摩訶衍那) hay Ma-ha-diễn (摩訶衍), tức là “cỗ xe lớn” hay còn gọi là Đại Thặng tức là “bánh xe lớn” là một trong hai trường phái lớn của đạo Phật, phổ biến tại các nước Trung Quốc, Nhật Bản, Việt Nam, Hàn Quốc và Triều Tiên. Trong một số tài liệu hiện đại, các danh xưng Phật giáo Bắc tông, Phật giáo Bắc truyền hay Phật giáo Phát triển, cũng được xem là tương đương và có thể được dùng để thay thế thuật ngữ Phật giáo Đại thừa.
Theo các học giả nghiên cứu, Phật giáo Đại thừa phát triển ở Ấn Độ vào khoảng từ thế kỷ 1 trước Công nguyên trở đi. Đại thừa chấp nhận các kinh điển và giáo lý chính của Phật giáo sơ kỳ, nhưng được bổ sung nhiều học thuyết và kinh điển mới.[1] Ban đầu, Đại thừa chỉ là một phong trào cải cách Phật giáo nhỏ ở Ấn Độ, nhưng trường phái này dần phát triển thành trường phái có ảnh hưởng trong Phật giáo Ấn Độ.[2] Các trung tâm học thuật lớn liên quan đến Đại thừa như Nalanda và Vikramashila phát triển mạnh trong khoảng từ thế kỷ VII đến thế kỷ XII.[2] Theo dòng lịch sử, Phật giáo Đại thừa lan rộng khắp Nam Á, Trung Á, Đông Á và Đông Nam Á, trở thành truyền thống Phật giáo lớn nhất có ngày nay, với 53% Phật tử thuộc Đại thừa Đông Á và 6% theo Kim cương thừa, so với 36% của Phật giáo Thượng toạ bộ (khảo sát năm 2010),[3] có ảnh hưởng mạnh mẽ ở Trung Quốc, Đài Loan, Mông Cổ, Triều Tiên, Nhật Bản, Việt Nam, Nepal, Malaysia và Bhutan.[4]
Phật giáo Đại thừa đề cao con đường của Bồ Tát phấn đấu để đạt được giác ngộ hoàn toàn (samyaksaṃbuddha) vì lợi ích của tất cả chúng sinh, và do đó còn được gọi là “Bồ tát thừa” (tiếng Phạn: बोधिसत्त्वयान,Bodhisattvayāna).[5][6] Nhìn chung, Phật giáo Đại thừa xem mục tiêu trở thành Phật thông qua con đường bồ tát là có sẵn cho tất cả mọi người và xem trạng thái của quả vị A-la-hán là chưa hoàn thiện.[7] Các hình tượng giác ngộ trong Phật giáo Đại thừa rất đa dạng và phong phú, nhiều vị Phật và Bồ tát không hiện diện trong kinh điển của Phật giáo Nguyên thủy (như hình tượng A-di-đà).[8] Triết học Đại thừa cũng thúc đẩy phát triển các tông phái với những học thuyết độc đáo, chẳng hạn như Trung quán tông với Thuyết tính Không (śūnyatā), Duy thức tông và thuyết Phật tính.
Truyền thống Kim Cương thừa được các nhà nghiên cứu xem là một nhánh của Đại thừa, chú trọng sử dụng chân ngôn (sa. mantra) trong tu tập, một phương pháp mà các tu sĩ thuộc truyền thống này cho rằng có hiệu quả mạnh mẽ hơn và nhanh hơn trong việc đạt được Phật quả.[9]
Từ nguyên
Xuất hiện ý nghĩa trong các Kinh nguyên thủy, nhưng được triển khai vào thế kỉ thứ nhất trước công nguyên, Đại thừa là tâm tánh rộng lớn, tròn đồng thái hư, không thiếu không dư, là cỗ xe lớn nhờ dựa trên tính đa dạng của giáo pháp để mở đường cho số lớn chúng sinh có thể giác ngộ, giải thoát sinh tử, lìa khổ được vui. Cả hai Tiểu thừa và Đại thừa đều bắt nguồn từ vị Phật lịch sử Thích-ca Mâu-ni, nhưng khác nhau nơi sự quan tâm về thực hành giáo pháp và tư tưởng.(sa. sarvasattva). Hình tượng tiêu biểu của Đại thừa là Bồ Tát (sa. bodhisattva) với đặc tính vượt trội là lòng bi (sa., pi. karuṇā). Bộ kinh được xem là kinh văn Đại thừa đầu tiên là Bát-nhã bát thiên tụng (般若八千頌, sa. aṣṭasāhasrikā prajñāpāramitā).
Sơ kỳ, các đại sư của phái này gọi pháp môn của mình là Đại thừa để phân biệt với Phật giáo Nguyên thủy, mà họ gọi là Tiểu thừa hay Tiểu Thặng, nghĩa là “cỗ xe nhỏ” hay “bánh xe nhỏ” (sa. hīnayāna), còn có cả Nhị thừa, Tam thừa… Ngoài ra còn một trường phái Phật giáo thứ ba là Kim cương thừa, còn gọi là Mật tông hoặc Chân ngôn, cũng phát sinh từ phái Đại thừa.
Vấn đề Ðại Thừa và Tiểu Thừa
Trước đây người thường cho rằng giáo lý Tiểu thừa không đưa đến quả vị tối hậu thành Phật, chỉ có giáo lý Ðại thừa mới là giáo lý chân chính của Phật. Ngược lại, các nhà sư Tiểu thừa thì cho rằng giáo lý Tiểu thừa mới chính là giáo lý nguyên thủy của Phật, còn giáo lý Ðại thừa là ngoại đạo. Sự bất đồng quan điểm ấy đã làm băng giá mối quan hệ của hai truyền thống cả ngàn năm. Ngày nay với những phương tiện tiến bộ, mọi mặt trong xã hội đều thay đổi, những quan điểm Tiểu thừa và Ðại thừa không còn thích hợp. Qua nghiên cứu, cho thấy rằng:
1. Thời kỳ Phật giáo Nguyên thủy cho đến thời kỳ Bộ phái (sau Ðức Phật 400 năm) chưa có danh từ Ðại thừa hay Tiểu thừa.
2. Danh từ Tiểu thừa nên hiểu là Thượng tọa bộ và Thuyết nhất thiết hữu bộ. Ngày nay chỉ còn 2 hệ Tiểu thừa này có mặt trên thế giới.
3. Từ ít lâu nay người ta có khuynh hướng tránh dùng từ ngữ “Tiểu thừa” vì một số người không thông hiểu Phật pháp kỹ càng có thể cảm thấy bị tổn thương. Do đó, 2 khái niệm Phật giáo Bắc Tông và Phật giáo Nam Tông ra đời.
4. Giáo lý được phân làm hai truyền thống theo địa lý, truyền thừa, và được gọi là Phật giáo Bắc tông và Phật giáo Nam tông. Sử dụng từ ngữ Bắc tông và Nam tông nói lên tính xuyên suốt của cây đại thọ, giáo lý đạo Phật.
5. Mặc dù truyền thống Bắc Tông và Nam Tông có những khác biệt, tuy nhiên, những khác biệt ấy không cơ bản. Trái lại, những điểm tương đồng lại rất cơ bản như sau:
a/. Cả hai đều nhìn nhận Ðức Phật là bậc Ðạo sư.
b/. Cả hai đều chấp nhận và hành trì giáo lý Tứ thánh đế, Bát chính đạo, Duyên khởi…; đều chấp nhận Tam pháp ấn Vô thường, Khổ, Vô ngã; đều chấp nhận con đường tu tập: Giới–Ðịnh–Tuệ.
c/. Cả hai đều từ chối có đấng tối cao tự sáng tạo và ngự trị thế giới. Tóm lại, Kinh tạng Nguyên thủy, nếu còn hiện hữu, phải là kinh tạng ghi chép lại những lời Phật và Thánh chúng một cách đầy đủ nhất. Kinh tạng này mang tính thiết thực gần gũi với tâm lý con người và sự sinh hoạt của xã hội. Ðây là cơ sở giáo lý mà chúng ta lấy làm nền tảng cho mọi nghiên cứu, thực tập và nhất là hiểu một cách đúng đắn tư tưởng đạo Phật phát triển.
Tuy nhiên, trải qua hơn 400 năm khẩu truyền và hơn 2000 năm truyền bá, kinh giáo không tránh khỏi sự thiếu sót hoặc thêm thắt của người thọ trì, nghĩa là vẫn không mang tính Nguyên thủy thuần túy. Thực vậy, hiện nay không còn kinh điển nào có thể gọi là “kinh điển nguyên thuỷ”. Vì thế, đừng nên lầm lẫn mà cho rằng đó là kinh điển của Thượng toạ bộ!
Nghiên cứu kinh điển Phát triển mà không nắm vững hệ thống Nguyên thủy thì độ chuẩn xác không cao. Nếu coi Kinh tạng Nguyên thủy là “thấp kém” thì rất là sai lầm và nguy hiểm. Cây đại thọ giáo pháp phải là một cây hoàn hảo từ gốc rễ cho đến ngọn ngành. Và vì kinh điển nguyên thuỷ không còn hiện hữu, người nghiên cứu kinh điển nên tham khảo và đối chiếu kinh điển của mọi tông phái, trước khi đi đến kết luận dứt khoát về một chủ đề nào đó trong giáo lý Phật đà.
Nguyên văn tiếng Phạn
[12]… महासंनाहसंनद्धः सन् महायानसंप्रस्थितो महायानसमारूढो भवति। कतमच्च तन्महायानम्? कथं वा तत्संप्रस्थितो वेदितव्यः? कुतो वा तन्महायानं निर्यास्यति? केन वा तन्महायानं संप्रस्थितम्? क्व वा तन्महायानं स्थास्यति? को वा अनेन महायानेन निर्यास्यति? एवमुक्ते भगवानायुष्मन्तं सुभूतिमेतदवोचत्—महायानमिति सुभूते अप्रमेयताया एतदधिवचनम्। अप्रमेयमिति सुभूते अप्रमाणत्वेन। यदपि सुभूते एवं वदसि—कथं वा तत्संप्रस्थितो वेदितव्यः? कुतो वा तन्महायानं निर्यास्यति? केन वा तन्महायानं संप्रस्थितम्? क्व वा तन्महायानं स्थास्यति? को वा अनेन महायानेन निर्यास्यतीति? पारमिताभिः संप्रस्थितः। त्रैधातुकान्निर्यास्यति। येनारम्बणं तेन संप्रस्थितम्। सर्वज्ञतायां स्थास्यति । बोधिसत्त्वो महासत्त्वो निर्यास्यति, अपि तु खलु पुनर्न कुतश्चिन्निर्यास्यति। न केनापि संप्रस्थितम्। न क्वचित्स्थास्यति। अपि तु स्थास्यति सर्वज्ञतायामस्थानयोगेन। नापि कश्चित्तेन महायानेन निर्यातो नापि निर्यास्यति नापि निर्याति। तत्कस्य हेतोः? यश्च निर्यायात्, येन च निर्यायात्, उभावेतौ धर्मौ न विद्येते नोपलभ्येते। एवमविद्यमानेषु सर्वधर्मेषु कतमो धर्मः कतमेन धर्मेण निर्यास्यति? एवं हि सुभूते बोधिसत्त्वो महासत्त्वो महायानसंनद्धो महायानसंप्रस्थितो महायानसमारूढो भवति॥ एवमुक्ते आयुष्मान् सुभूतिर्भगवन्तमेतदवोचत्—महायानं महायानमिति भगवन्नुच्यते। सदेवमानुषासुरं लोकमभिभवन्निर्यास्यति आकाशसमतया अतिमहत्तया तन्महायानम्। यथा आकाशे अप्रमेयाणामसंख्येयानां सत्त्वानामवकाशः, एवमेव भगवन् अस्मिन् याने अप्रमेयाणामसंख्येयानां सत्त्वानामवकाशः। अनेन भगवन् पर्यायेण महायानमिदं बोधिसत्त्वानां महासत्त्वानाम्। नैवास्यागमो दृश्यते, नैवास्य निर्गमो दृश्यते, नाप्यस्य स्थानं संविद्यते। एवमस्य भगवन् महायानस्य नैव पूर्वान्त उपलभ्यते, नाप्यपरान्त उपलभ्यते, नापि मध्य उपलभ्यते। अथ समं भगवंस्तद्यानम्। तस्मान्महायानं महायानमित्युच्यते। अथ खलु भगवानायुष्मते सुभूतये साधुकारमदात्—साधु साधु सुभूते। एवमेतत्सुभूते एवमेतत्। एवं महायानमिदं बोधिसत्त्वानां महासत्त्वानाम्। अत्र शिक्षित्वा बोधिसत्त्वैर्महासत्त्वैः सर्वज्ञता अनुप्राप्ता, अनुप्राप्स्यते अनुप्राप्यते च॥
Dịch nghĩa
Sau đó tôn giả Tu-bồ-đề bèn hỏi Thế Tôn: “Bạch Thế Tôn, như vậy Bồ Tát Ma-ha-tát (sa. mahāsattva) là một người được trang bị với thiết bị to lớn, người đã khởi hành với Đại Thừa và đã bước lên Đại Thừa. Vậy thì Đại Thừa này là gì? Làm thế nào biết được người khởi hành với Đại Thừa này? Đại Thừa dẫn đến nơi nào? Hoặc: Ai khởi hành với Đại Thừa? Đại Thừa sẽ đứng nơi nào và ai sẽ ra đi với Đại Thừa này?” Nghe vậy Thế Tôn ứng đáp Tôn giả Tu-bồ-đề: “Đại Thừa, này Tu-bồ-đề, là biệt danh của sự vô lượng. Chính vì sự vô lượng này mà nó được gọi là ‘vô lượng’. Để trả lời những câu hỏi của Ông ‘làm thế nào biết được người khởi hành với Đại Thừa này? Đại Thừa dẫn đến nơi nào? Hoặc là: Ai khởi hành với Đại Thừa? Đại Thừa sẽ đứng nơi nào và ai sẽ ra đi với Đại Thừa này?’—[Ta đáp rằng] ông ta sẽ khởi hành với những Ba-la-mật-đa. Ông ta sẽ ra khỏi tam thế. Ông ta sẽ đến nơi [chúng sinh cần] hỗ trợ. Ông ta an trú trong nhất thiết trí. Bồ Tát ra đi, nhưng lại chẳng đi đến nơi nào. Chẳng có ai khởi hành. Ông ta chẳng trú ở nơi nào. Nhưng ông ta lại trú trong nhất thiết trí—mà không có chỗ trú nào. Cũng chẳng có ai đã ra đi với đại thừa, chẳng có ai sẽ ra đi với đại thừa, chẳng có ai đang đi với đại thừa. Vì sao? Vì người đi và cái được dùng để đi—cả hai đều chẳng tồn tại, chẳng tìm thấy được. Và như vậy, nếu tất cả những pháp này không tồn tại thì pháp nào ra đi với pháp nào đây? Và như vậy, này Tu-bồ-đề, Bồ Tát Ma-ha-tát là một người được trang bị với thiết bị to lớn, người đã khởi hành với đại thừa và đã bước lên đại thừa.” Nghe như vậy xong Tôn giả bạch Thế Tôn: “Cỗ xe lớn này, bạch Thế Tôn, được gọi là ‘Đại thừa’. Đại thừa này, tương tự hư không, to lớn phi thường, siêu việt thế gian với thiên, nhân, a-tu-la, và khởi phát. Như hư không to lớn đủ chỗ dung nạp vô lượng vô số chúng sinh—cũng như thế, bạch Thế Tôn, đại thừa có đủ chỗ cho vô lượng vô số chúng sinh. Đại thừa của các vị Bồ Tát Ma-ha-tát lớn như thế này. Ta chẳng thấy được sự đến và đi của nó. Ngay cả chỗ trú của nó ta cũng chẳng thấy. Và như thế, ta không thấy được đầu của đại thừa, bạch Thế Tôn, mà cũng chẳng thấy được phần cuối và đoạn giữa của nó. Bạch Thế Tôn, đại thừa đúng là lớn như vậy. Thế nên người ta gọi nó là ‘Đại thừa'” Nghe xong Thế Tôn khen Tôn giả Tu-bồ-đề: “Hay lắm, hay lắm Tu-bồ-đề! Đúng như vậy Tu-bồ-đề, đúng như vậy! Đại thừa của hàng Bồ Tát Ma-ha-tát là như thế. Sau khi các Bồ Tát Ma-ha-tát tu tập trong đó xong họ đã, sẽ và đang thành tựu nhất thiết trí.”
Đại thừa xuất phát (phần lớn) từ hai nhánh của Tiểu thừa là Đại chúng bộ (sa. mahāsāṅghika) và Thuyết nhất thiết hữu bộ (sa. sarvāstivādin), lấy từ đó những yếu tố căn bản của giáo pháp mình: từ Đại chúng bộ, Đại thừa xem Phật là hoá thân của một thật thể siêu việt, lấy hình ảnh xả thân của các vị Bồ Tát và quan điểm tính Không (sa. śūnya). Từ Thuyết nhất thiết hữu bộ, Đại thừa thừa nhận quan điểm Tam thân (sa. trikāya). Đại sự (sa. mahāvastu) một tác phẩm của Thuyết xuất thế bộ (sa. lokottaravādin)—được xếp vào Đại chúng bộ—nói như sau về tính chất xuất thế, siêu việt của chư Phật: Nguyên văn tiếng Phạn
auṣadhaṃ pratisevanti vyādhiś caiṣāṃ na vidyat | dāyakānāṃ phalaṃ bhavatu eṣā lokānuvarttanā || 14 || brabhuś ca karma dhārayituṃ karmaṃ darśenti ca jinā | aiśvaryaṃ vinigūhanti eṣā lokānuvarttanā || 15 || kalpakoṭīṃ asaṃkhyeyaṃ puṇyeṣu pāramiṃgato | alabdhi upadarśenti eṣā lokānuvarttanā || 21 ||
Dịch nghĩa
Mặc dù dùng dược liệu, nhưng các vị không mang bệnh. Nghiệp quả (của việc trao dược liệu) đến tới thí chủ. Đó là sự hoà hợp với thế gian. || 14 || Mặc dù có thể đè nén nghiệp lực, các thắng giả (sa. jina) vẫn cho thấy nghiệp—chư vị che giấu uy lực của mình. Đó là sự hoà hợp với thế gian. || 15 || Đã đạt toàn vẹn công đức từ vô lượng kiếp, chư vị vẫn cho người thấy không đạt được gì. Đó là sự hoà hợp với thế gian. || 21 || Ngược lại với quan điểm nguyên thuỷ, Đại thừa không quá nhấn mạnh đến đời sống xuất gia, cho rằng cư sĩ tại gia cũng có thể đạt Niết-bàn với sự tế độ của chư Phật và chư Bồ Tát. Hình tượng cư sĩ Duy-ma-cật trong Duy-ma-cật sở thuyết kinh là ví dụ tiêu biểu nhất cho trường hợp này. Cách xưng hô trong kinh cũng có khác đi đôi chút. Những lời dạy trong kinh giờ đây được hướng thẳng đến giới cư sĩ như: Thiện nam tử (sa. kulaputra), thiện nữ nhân (sa. kuladuhitṛ), như câu hỏi của tôn giả Tu-bồ-đề trong Kim Cương kinh cho thấy:
- तत्कथं भगवन् बोधिसत्त्वयानसम्प्रस्थितेन कुलपुत्रेण वा कुलदुहित्रा वा स्थातव्यं कथं प्रतिपत्तव्यं कथं चित्तं प्रग्रहीतव्यम्।
- Thưa Thế Tôn, thiện nam tử hoặc thiện nữ nhân đã khởi hành với Bồ Tát thừa nên an trụ như thế nào, nên thực hành như thế nào, nên điều phục tâm như thế nào?
Theo quan điểm Đại thừa, Niết-bàn không phải chỉ là giải thoát khỏi Luân hồi—mà hơn thế nữa, hành giả giác ngộ về Chân tâm và an trụ trong đó, đã tiến vào ” cửa vô sinh vô tử”. Mỗi chúng sinh đều mang Phật tính (sa. buddhatā) và giác điều đó là điều tuyệt đối quan trọng.
Đại thừa lại được chia ra nhiều bộ phái khác nhau, xuất phát từ Ấn Độ và truyền qua Tây Tạng, Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản và Việt Nam. Tại Ấn Độ, Đại thừa đã chia ra Trung quán tông (sa. mādhyamika) do Long Thụ (sa. nāgārjuna) đề xuất và Duy thức tông (sa. vijñānavādin, yogācārin) do Vô Trước (sa. asaṅga) và Thế Thân (sa. vasubandhu) sáng lập. Song song với Tantra (Mật tông) của Ấn Độ giáo, đạo Phật cũng sản sinh ra một trường phái là Kim cương thừa (sa. vajrayāna), rất thịnh hành tại Tây Tạng. Thuộc về Đại thừa tại Trung Quốc và Nhật Bản, người ta có thể kể đến Thiền tông, Hoa Nghiêm tông, Thiên Thai tông, Tịnh Độ tông. Giáo lý căn bản của Đại thừa được chứa đựng trong những bộ kinh (sa. sūtra) và luận (sa. śāstra). Nói chung, Đại thừa phát triển một cách uyển chuyển, thích nghi, tùy thuận, để phù hợp với khả năng Giác ngộ của căn cơ mọi người.
Một số học giả nghiên cứu về Phật giáo cho rằng: vấn đề về Tiểu thừa và Đại thừa ngày nay có thể hiểu đơn giản qua hình ảnh của một cái cây. Một cái cây gồm rễ, thân và lá từ lúc còn nhỏ đến lúc đang phát triển chính là Tiểu thừa. Khi cây phát triển ra nhánh và thêm nhiều lá thì nhánh và lá là Đại thừa, còn thân, rễ, và những nhánh cũ là Tiểu thừa. Cũng như vậy, khi cây ra quả, quả đó là Mật tông. Vì là cùng một cây nên việc phân biệt Tiểu thừa và Đại thừa chỉ mang tính hình tượng (giống như so sánh bạn lúc nhỏ và bạn khi lớn lên, trưởng thành). Hay nói cách khác, dù là Tiểu thừa hay Đại thừa thì mục đích cuối cùng của Phật giáo là đưa con người đạt được sự giải thoát mọi khổ đau, sống an vui hạnh phúc trọn vẹn mãi mãi. Tiểu thừa nói về giáo lý của Phật Thích Ca Mâu Ni còn tại thế. Đại thừa nói về giáo lý của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni lúc tại thế và lúc sống tại cõi Niết Bàn cùng với các Chư Phật và Bồ Tát (đệ tử của ngài).
Xem thêm
Chú thích
- ^ Harvey (2013), pp. 108-109.
- ^ a b Woodhead, Linda; Partridge, Christopher Hugh; Kawanami, Hiroko biên tập (2016). Religions in the modern world : traditions and transformations . Abingdon, Oxon: Routledge. ISBN978-0415858809. OCLC916409066.
- ^ Harvey, Peter (2013). An Introduction to Buddhism: Teachings, History and Practices, p. 403.
- ^ Foltz, Richard (2013). Religions of Iran:From Prehistory to the Present. tr. 95. ISBN978-1780743097. Truy cập ngày 18 tháng 12 năm 2017.
In the centuries before the Arab conquests Buddhism was spread throughout the eastern Iranian world. Buddhist sites have been found in Afghanistan, Turkmenistan, Uzbekistan, and Tajikistan, as well as within Iran itself.
- ^ Damien Keown (2003), A Dictionary of Buddhism, Oxford University Press, p. 38
- ^ Warder, A.K. (3rd edn. 1999). Indian Buddhism: p. 338.
- ^ Harvey (2013), p. 111.
- ^ Williams, Paul, Mahayana Buddhism: The Doctrinal Foundations, Routledge, 2008, p. 21.
- ^ Harvey (2013), p. 189.
Tham khảo
- Aṣṭasāhasrikā Prajñāpāramitā, Skt. ed. P. L. Vaidya, Buddhist Sanskrit Texts No. 4, Darbhanga 1960.
- Vimalakīrtinirdeśa. Transliterated Sanskrit Text Collated with Tibetan and Chinese Translations. Ed. by Study Group on Buddhist Sanskrit Literature. Taisho University, 2004.
- Phật thuyết Duy-ma-cật kinh (佛說維摩詰經), Taishō No. 474.
- Duy-ma-cật sở thuyết kinh (維摩詰所說經), Taishō No. 475.
- Thuyết Vô Cấu Xưng kinh (說無垢稱經), Taishō No. 476
- Vajracchedikā Prajñāpāramitā, ed. and transl. Edward Conze, Roma 1974 (SOR XIII).
- “Mahayana”. Encyclopædia Britannica. Encyclopædia Britannica. 2002.
- Karel Werner; Jeffrey Samuels; Bhikkhu Bodhi; Peter Skilling, Bhikkhu Anālayo, David McMahan (2013). The Bodhisattva Ideal: Essays on the Emergence of Mahayana. Buddhist Publication Society. ISBN978-955-24-0396-5.
- Beal (1871). Catena of Buddhist Scriptures from the Chinese, London, Trübner
- Karashima, Seishi, “Was the Așțasāhasrikā Prajñāparamitā Compiled in Gandhāra in Gandhārī?” Annual Report of the International Research Institute for Advanced Buddhology, Soka University, vol. XVI (2013).
- Lowenstein, Tom (1996). The Vision of the Buddha, Boston: Little Brown, ISBN 1-903296-91-9
- Harrison, P.M.: “Sanskrit Fragments of a Lokottaravādin Tradition” in Hercus et al. (1982): Indological and Buddhist Studies. Canberra: Australian National University, Faculty of Asian Studies.
- Harvey, Peter (2013). An Introduction to Buddhism: Teachings, History and Practices
- Hirakawa, Akira: A History of Indian Buddhism. From Śākyamuni to Early Mahāyāna. Translated and Edited by Paul Groner. University of Hawaii Press, 1990.
- Schopen, G. “The inscription on the Kusan image of Amitabha and the character of the early Mahayana in India”, Journal of the International Association of Buddhist Studies 10, 1990
- Suzuki, D.T. (1914). “The Development of Mahayana Buddhism”, The Monist Volume 24, Issue 4, 1914, pp. 565–581
- Suzuki, D.T. (1908). Outline of Mahayana Buddhism, Open Court, Chicago
- Fo Guang Ta-tz’u-tien 佛光大辭典. Fo Guang Ta-tz’u-tien pien-hsiu wei-yuan-hui 佛光大辭典編修委員會. Taipei: Fo-kuang ch’u-pan-she, 1988. (Phật Quang Đại Từ điển. Phật Quang Đại Từ điển biên tu uỷ viên hội. Đài Bắc: Phật Quang xuất bản xã, 1988.)
- Williams, Paul: Mahāyāna Buddhism. The Doctrinal Foundations. London and New York, 1989.
- Long H. Pham: Research on the concept of Hinayana and Mahayana in Buddhism today, 2021
Liên kết ngoài
Wikimedia Commons có thêm hình ảnh và phương tiện truyền tải về Đại thừa. |
Wikisource có văn bản về bài viết trong New International Encyclopedia năm 1905 về Mahāyāna. |
- Digital Dictionary of Buddhism
- Comparison of Buddhist Traditions (Mahayana – Therevada – Tibetan)
- Introduction to Mahayana on Kagyu Samye Ling‘s website
- The Mahayana Mahaparinirvana Sutra: complete text and analysis
- Buddhas and Bodhisattvas in Mahayana Buddhism
- Arahants, Buddhas and Bodhisattvas by Bhikkhu Bodhi
- The Bodhisattva Ideal in Theravāda Theory and Practice by Jeffrey Samuel
- Digital Dictionary of Buddhism
Thêm về Phật giáo Bắc tông
Phật giáo Đại Thừa được gọi là “Bánh xe vĩ đại” (Great Vehicle), là hình thức Phật giáo nổi bật ở Bắc Á, bao gồm Trung Quốc, Mông Cổ, Tây Tạng, Hàn Quốc và Nhật Bản nên còn được gọi là Phật giáo Bắc Tông.
Xuất phát từ những lẩn tránh về các học thuyết và các quy tắc tu viện trong Phật giáo Ấn Độ vào thế kỷ thứ nhất TCN, Đại Thừa coi mình là một phiên bản chính xác nhất của giáo lý của Đức Phật.
Nguồn gốc Phật giáo Đại Thừa
Nguồn gốc của Phật Giáo Đại Thừa (Mahayana) vẫn còn mơ hồ, ngày và vị trí của sự xuất hiện không được biết cụ thể, phong trào có nhiều khả năng hình thành theo thời gian và ở nhiều nơi. Kinh điển sớm nhất của Phật giáo Đại Thừa là Bát Nhã Tâm Kinh trong kinh Đại Thừa, kinh điển được biên soạn lần đầu tiên sau khi Ðức Phật qua đời 5 thế kỷ.
Như trong các văn kiện Phật giáo tiên phong trước đây, những kinh điển này gần như chắc chắn được viết bởi các nhà sư, trình bày các ý tưởng sáng tạo của phong trào dưới hình thức những bài thuyết pháp được Đức Phật Thích Ca Mâu Ni chuyển giao.
Những dấu vết sớm nhất của các tư tưởng Đại Thừa phát sinh khi việc bất đồng giữa các chư tăng tại hội đồng thứ 2 Vaishali. Hội đồng này được kêu gọi để lên án những hành vi nhất định của một số nhà sư đã trái với bộ luật về đạo luật của Vinaya. Mặc dù phần lớn các nhà sư đã thành công trong việc xua đuổi các nhà sư phạm sai lầm, nhưng các nhà sư còn lại đã tranh chấp các quy tắc và một số khía cạnh của Phật Pháp.
Một nhóm chống lại bất cứ thay đổi nào, được gọi là Sthaviravadins (Phật giáo Nguyên Thủy, Theravadins) nói rằng, tất cả con người phải phấn đấu để trở thành A-La-Hán, giải thoát khỏi chu kỳ Tái sinh (cõi Ta-bà, Samsara) để lên cõi Niết bàn.
Họ cho rằng, chư Phật là những người đàn ông – tinh khiết và đơn giản, từ chối bất kỳ khái niệm nào về tính siêu việt của họ. Nhóm khác, đa số, được biết đến như là Mahasanghikas, có nghĩa là những nhà sư vĩ đại. Giống như Sthaviravadins, họ chấp nhận các giáo lý cơ bản của Đức Phật như Tứ Diệu Đế, Bát Chánh Đạo, thuyết Vô ngã (Anatta)…Luật nhân quả.
Họ khác nhau trong việc tin rằng, chư Phật là siêu phàm, cuộc sống và quyền hạn của họ là không giới hạn. Họ cũng tin rằng, bản chất ban đầu của tâm trí là tinh khiết và nó bị ô nhiễm khi nó bị nhuộm bởi tham ái và phiền não. Chính Mahasanghikas đã xây dựng và phát triển Phật giáo Đại Thừa.
Quan điểm của Phật giáo Đại thừa
Lời giảng dạy quan trọng nhất của Đại Thừa là lòng từ bi vĩ đại, một thành phần vốn có của sự giác ngộ được thể hiện trong Bồ tát (những vị giác ngộ), Người đã trì hoãn Niết bàn (giác ngộ cuối cùng) để giúp đỡ và hướng dẫn chúng sanh vẫn đang phải chịu đựng đau khổ trong vòng luân hồi. Họ dùng cái mà Đại Thừa gọi là “phương tiện khéo léo” để biết được năng lực tinh thần và tình cảm cụ thể của mỗi cá nhân, từ đó đưa ra hướng dẫn phù hợp với những năng lực đó.
Đại Thừa dạy rằng, bất cứ ai cũng có thể khao khát đạt được giác ngộ và trở thành Bồ tát. Đối với đạo Phật Đại Thừa, giác ngộ bao gồm sự hiểu biết bản chất thực sự của thực tại và tình thương vô biên.
Hai trường phái Nguyên Thủy và Đại Thừa có cái nhìn khác nhau về học thuyết Vô ngã. Tư tưởng Đại Thừa mở rộng ý tưởng này đến tất cả mọi thứ, rằng không gì có bản chất và sự tồn tại của mỗi vật phụ thuộc vào sự tồn tại của những thứ khác.
Bồ tát muốn tìm hiểu thực tại này thông qua sự khôn ngoan (prajna) và thực hiện nó thông qua từ bi (karuna). Họ nhận ra rằng, không một cá nhân nào có “cái tôi”, không thể có sự khác biệt thực sự giữa bản thân và người khác, và do đó sự giải phóng của họ không khác biệt gì với sự giải phóng của tất cả chúng sinh. “Vô ngã” theo Đại Thừa có nghĩa là hiểu được sự vắng mặt của bản ngã hay bản tính trong mọi vật và con người.
Phật giáo Nguyên Thủy và Phật giáo Đại Thừa khác nhau về quan điểm của họ về mục đích cuối cùng của cuộc sống và cách mà nó có thể đạt được. Phật giáo Nam Tông cố gắng trở thành các vị A La Hán, hoặc những vị thánh hoàn hảo đã đạt được giác ngộ lên cõi Niết bàn. Trong khi những người theo Phật giáo Bắc Tông không hi vọng trở thành A La Hán, mà là những vị Bồ tát, những người đã giác ngộ nhưng trì hoãn việc lên cõi Niết bàn để giúp người khác đạt được nó, như Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã làm.
Phật giáo Đại Thừa dạy rằng, giác ngộ có thể đạt được trong một đời duy nhất, và điều này có thể được thực hiện ngay cả bởi một người bình thường.
Những người theo Phật giáo Đại Thừa, có lẽ đã sai lầm khi khẳng định lý tưởng A La Hán của Phật giáo Nguyên Thủy là ích kỷ vì nó chỉ quan tâm đến sự giải phóng cho chính mình.
Các vị A La Hán, mặc dù không có trí tuệ cao như của một vị Phật, nhưng cũng phải vượt qua ý tưởng bản thân và lòng tham để giác ngộ, vì vậy một sự cáo buộc dường như không có lý. Những người theo Phật giáo Nam Tông cũng cho rằng, đạt được Phật quả là lý tưởng cao nhất nhưng nó là khó khăn và vượt quá khả năng của hầu hết mọi người.
Một người đi theo con đường Bồ Tát phải đạt được 6 sự hoàn hảo: ban cho hay rộng lượng, đạo đức hay hành vi tốt, kiên nhẫn, tinh tấn, thiền định và trí tuệ.
Các tông phái trong Phật giáo Đại thừa
1. Pháp tướng tông
Tông phái này phát khởi từ ba vị Vô Trước, Thế Thân và Hộ Pháp, lấy Thành duy thức luận làm gốc, cho rằng vạn pháp đều do thức biến ra. Thức có tám loại là: nhãn thức, nhĩ thức, vị thức (hay tỉ thức), thiệt thức, thân thức, ý thức, mạt-na thức và a-lại-da thức. Trong tám thức ấy, a-lại-da thức là căn bản.
A-lại-da thức còn gọi là Tạng thức, bao tàng hết các chủng tử, rồi do những chủng tử ấy mà phát sinh ra vạn tượng. Vạn tượng tan thì các chủng tử lại mang nghiệp trở về a-lại-da thức. Chủng tử lại vì nhân duyên mà sinh hóa mãi. Vậy nhân duyên là nhân duyên của các chủng tử.
A-lại-da thức thì chứa hết thảy các chủng tử để sinh khởi nhất thiết chư pháp. Như thế là vạn pháp do thức mà biến hiện ra, cho nên nói rằng: “Tam giới duy tâm, vạn pháp duy thức.” Ngài Huyền Trang đời Đường sang Ấn Độ theo học với ngài Giới Hiền, rồi đem Pháp tướng tôngvề truyền ở Trung Hoa.
2. Tam luận tông
Tông này lấy Trung luận và Thập nhị môn luận của Bồ-tát Long Thụ và bộ Bách luận của Đề-bà làm căn bản, nên mới gọi là Tam luận. Tam luận tông cho rằng hết thảy vạn hữu trong hiện tượng giới đều sanh diệt vô thường. Đã sanh diệt vô thường là không có tự tính, chỉ bởi nhân duyên làm mê hoặc mà biến hóa ra vạn hữu. Kẻ phàm tục vì vọng kiến cho nên mới chấp lấy cái có tạm bợ ấy.
Bậc chân trí thì không nhận cái tạm có mà thấy rằng hết thảy đều là không. Các pháp tuy là hiện hữu nhưng không phải là thường có. Có mà không phải là thường có tức là chỉ tạm có. Tạm có nên tuy là có mà không phải là có. Có mà không phải là thật có thì cũng chẳng khác gì không.
Vậy nên các pháp tuy là đều có, nhưng thật tướng là không. Lý thể của chân như tuy là không tịch, bất sanh bất diệt, nhưng bởi nó sanh ra các pháp, cho nên nó là nguồn gốc của cái tạm có. Đã là nguồn gốc, thì lý thể của chân như là không. Như thế, chân như là không mà không phải thật là không, cho nên đối với có không khác gì. Vì thế chân như tuy là không tịch mà rõ ràng là có.
Có và không, không và có, thật chẳng khác nhau. Có là có do nơi không; không là không do nơi có. Có và không hai bên toàn nhiên hòa hợp với nhau. Thấy rõ chỗ ấy là Trung đạo, là không vướng mắc vào cả có lẫn không. Vì sự nhận thức của ta sai lầm, mà thành ra có không và có.
Vượt lên trên sự nhận thức thì mới đạt được cái thực tại bất khả tư nghị. Sự nhận thức của ta chỉ nhận thức được trong phạm vi hiện tượng mà thôi, không thể nhận thức được thực tại. Muốn đạt tới thực tại thì phải nhờ đến trực giác mới được. Tam luận tông lấy kinh Bát-nhã làm gốc, cho nên còn gọi là Bát-nhã tông, khi đối với Pháp tướng tông thì gọi là Tánh tông hay là Không tông.
3. Thiên thai tông
Tông này khởi phát ở Trung Hoa, do thiền sư Tuệ Văn đời Tần, Tùy lập ra, dựa theo ý nghĩa sách Trí Độ luận và kinh Pháp Hoa làm gốc. Cho nên còn gọi là Pháp Hoa tông. Thiên thai tông chủ trương thuyết “chư pháp duy nhất tâm”. Tâm ấy tức là chúng sanh, tâm ấy tức là Bồ-tát và Phật. Sanh tử cũng ở nơi tâm ấy, Niết-bàn cũng ở nơi tâm ấy.
Thiền sư Tuệ Văn chủ lấy Trung đạo mà luận cái tâm và lập ra thuyết “nhất tâm tam quán”. Tam quán là Không quán, Giả quán và Trung quán. Trong Không quán có Giả quán và Trung quán, không phải tuyệt nhiên là không. Trong Giả quán có Không quán và Trung quán, không phải tuyệt nhiên là giả.
Trung quán là dung nạp cả không và giả. Chân như với tâm và vật quan hệ với nhau như nước với sóng. Ngoài nước không có sóng, ngoài chân như không có tâm, ngoài tâm không có vật.
Thiên thai tông lấy hiện tại mà tìm chỗ lý tưởng. Thiện ác chân vọng đối với tông này chỉ là một sự hoạt động của thực tại. Vì thế cho nên không cưỡng cầu giải thoát ra ngoài hiện tại giới sanh diệt vô thường. Trong hiện tượng giới gồm cả hai tính thiện và ác.
Thiện hay ác cũng chỉ do một tâm tác dụng mà thôi. Hai cái, không có cái nào độc tồn. Cho nên Phật không làm lành mà cũng không làm dữ. Sự giải thoát phải tìm ở nơi thấu suốt chân lý, thoát ly chấp trước. Chỗ cuối cùng đạt đến là phải triệt ngộ thực tướng của các pháp.
4. Hoa nghiêm tông
Tông này cũng như Thiên thai tông, phát khởi ở Trung Hoa, căn cứ ở kinh Hoa Nghiêm, do hòa thượng Đỗ Thuận và Trí Nghiễm đời Tùy Đường lập ra.
Tông này cho rằng các pháp có sáu tướng: tổng, biệt, đồng, dị, thành, hoại. Gọi chung là “tam đối lục tướng”. Vạn vật đều có sáu tướng ấy. Khi sáu tướng ấy phát ra thì phân làm Hiện tượng giới và Thực tại giới, và khi sáu tướng ấy tương hợp nhau thì hiện tượng tức là thực tại, thực tại tức là hiện tượng.
Vạn hữu có “tam đối lục tướng” là do Thập huyền diệu lý duyên khởi. Thập huyền diệu lý và Lục tướng viên dung sinh ra cái lý sự vô ngại. Sự sự vô ngại luận là chỗ đặc sắc nhất trong giáo lý của Hoa nghiêm tông. Theo tông ấy thì phân biệt chân vọng, trừ khử điên đảo khiến cho tâm thanh tịnh, để cùng thực tại hợp nhất, thế là giải thoát.
5. Chân ngôn tông
Tông này căn cứ ở kinh Đại Nhật, lấy bí mật chân ngôn làm tông chỉ, cho nên gọi là Chân ngôn tông, hay là Mật tông. Đại Nhật Như Lai truyền cho Kim-cang-tát-đỏa. Kim-cương-tát-đỏa truyền cho Long Thọ, Long Thọ truyền cho Long Trí, Long Trí truyền cho Kim Cương Trí, Kim Cương Trí cùng với Bất Không vào khoảng đời Đường đem tông này truyền sang Trung Hoa.
Chân ngôn tông chủ trương các thuyết Lục đại là địa, thủy, hỏa, phong, không, thức, cho sáu đại này là thực thể của vũ trụ. Lục đại xét về phương diện vũ trụ thì gọi là thể đại, hiện ra hình hài gọi là tướng đại, hiện ra ngôn ngữ, động tác gọi là dụng đại. Vạn hữu trong vũ trụ không có gì ra ngoài thể đại, tướng đại, dụng đại. Gọi là chân như là lấy lý tính do sáu đại mà trừu tượng ra. Ngoài sáu đại ra, không thấy đâu là chân như.
Sự giải thoát của Chân ngôn tông là ở nơi “tự thân thành Phật”, cho nên bỏ hết chấp trược, theo cái hoạt động của Đại ngã. Phương thức giải thoát của tông này là ba mật, tức là thân, miệng và ý.
6. Thiền tông
Thiền tông không bàn luận về vũ trụ, chỉ chủ ở sự cầu được giải thoát mà thôi. Cứu cánh của Thiền tông không trói buộc nơi văn tự, nên chỉ lấy tâm truyền tâm mà thôi. Thực tướng của vũ trụ thuộc về phạm vi trực giác. Nếu lấy văn tự mà giải thích thì tất là sa vào hiện tượng giới, không thể đạt tới thật tướng được. Nếu không tọa thiền dùng trực giác thì không thể biết được thật tướng.
7. Tịnh độ tông
Tịnh độ tông lấy sự quy y Tịnh độ làm mục đích, và tụng 3 bài kinh trụ cột là kinh Vô Lượng Thọ, kinh Quán Vô Lượng Thọ và kinh A-di-đà. Tịnh độ tông khởi phát từ đời nào không rõ, chỉ thấy trong các kinh điển nói các vị Bồ-tát Mã Minh, Long Thụ và Thế Thân đều khuyên người ta nên tu Tịnh độ.
(Hình ảnh: kwanyinbuddha.deviantart.com – Tổng hợp từ vuonhoaphatgiao)
Tâm học yếu lược – mục lục
Hits: 338